Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.13 KB, 95 trang )

Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu sự chuyển mình của nền
kinh tế Việt Nam. Đất nước ta chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế từ cơ chế
hành chính, tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quẩn
lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo cơ chế mới này
tất cả các thành phần kinh tế đều được tự do phát triển, tự mình tìm thị
trường kinh doanh, tự hạch toán kinh doanh, mở rộng thị trường của
mình. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có lãi, có chỗ đứng trên thị trường
thì sẽ tồn tại, nếu doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ thì sẽ bị đào thải khỏi
thị trường.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có một chiến lược sản
xuất kinh doanh cụ thể, đúng đắn và có hiệu quả. Một trong những chiến
lược phát triển mà bất kì doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng cần
phải chú trọng đó chính là chiến lược về tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh
nghiệp không xác định được chiến lược tiêu thụ sản phẩm một cách đúng
đắn thì sẽ gây ra sự tồn đọng hàng hoá, làm chậm vòng quay của vốn sản
xuất dẫn đến sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn, doanh nghiệp sẽ làm ăn
không có lãi. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ngày càng mang tính cấp thiết
đối với mọi doanh nghiệp nó đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa của các cấp
lãnh đạo và đặc biệt là các bộ phận phòng ban làm công tác tiêu thụ. Chỉ
có như vậy doanh nghiệp mới có thể đứng vững trước sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt khi thực hiện hội nhập nền kinh tế. Trong bối cảnh như trên
công ty dệt may Huy Hoàng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Qua

1
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
thời gian thực tập tại công ty em nhận thức được sự cần thiết phải có biện


pháp để nghiên cứu đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm một cách hợp lý, phù
hợp. Được sự hướng dẫn tận tình của hai cô giáo Uông Thị Phương Mai
và Lê Thị Kim Hoa, cùng sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các anh, chị cán
bộ công nhân viên của công ty dệt may Huy Hoàng, em đã mạnh dạn chọn
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị trường
tiêu thụ sản phẩm của Công ty dệt may xuất nhập khẩu Huy Hoàng”.
Với mục tiêu nhằm phân tích thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của
công ty dệt may Huy Hoàng, trên cơ sở thành tựu đạt được và các khó
khăn mà công ty gặp phải, kết hợp giữa lý thuyết và thực tế em đã đưa ra
một số biện pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác tiêu thụ sản phẩm của
công ty.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lí luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của
Công ty Dệt may Huy Hoàng trong thời gian qua.
Chương III: Một số biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty
dệt may Huy Hoàng.
Do trình độ nhận thức còn có hạn, thời gian thực tập tại công ty không
nhiều, những thiếu sót xuất hiện trong chuyên đề này là điều không tránh
khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô cùng các
cô, chú và các anh, chị trong công ty để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

2
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Thái Bình, ngày 5 tháng 7 năm 2005.
Sinh viên thực hiện.


Nguyễn Quang Vinh

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM HÀNG HOÁ CỦA
DOANH NGHIỆP
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU THỤ:
1. Khái niệm về tiêu thụ:
Tiêu thụ là một quá trình đưa sản phẩm từ nhà cung cấp đến người sử
dụng cuối cùng nhằm mục đích để thu được tiền.

3
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Ý nghĩa:
Qua tiêu thụ sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền
tệ và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Có tiêu thụ sản phẩm mới có vốn
để tiến hành tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn.
Qua tiêu thụ tính hữu ích của sản phẩm mới được xác định hoàn toàn.
Có tiêu thụ được sản phẩm mới chứng tỏ được năng lực kinh doanh của
công ty.
Sau quá trình tiêu thụ công ty không những thu hồi được tổng số chi
phí có liên quan đến việc chế tạo và tiêu thụ sản phẩm mà còn thực hiện
được giá trị lao động thặng dư. Đây là nguồn quan trọng để tích luỹ vào
ngân sách vào các quỹ của xí nghiệp nhằm mở rộng quy mô sản xuất và
nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ công nhân viên.
2. Vai trò, nhiệm vụ của hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
Đánh giá đúng tình hình tiêu thụ về mặt số lượng, chất lượng và mặt
hàng, đánh giá tính kịp thời của tiêu thụ.

Tìm ra những nguyên nhân và xác định mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đến tình hình tiêu thụ.
Đề ra các biện pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm tăng
khối lượng sản phẩm tiêu thụ cả về mặt khối lượng lẫn chất lượng.
Mục đích : Qua tiêu thụ sản phẩm không những thu được lợi nhuận mà còn
giúp công ty tái sản xuất mở rộng sản xuất.
Quan hệ Maketing và tiêu thụ sản phẩm:

4
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Tiêu thụ sản phẩm nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chính sách Maketing
của công ty và chính sách Maketing thực hiện chính là nhằm tiêu thu sản
phẩm. Qua tiêu thụ các thông tin phản hồi sẽ được bộ phận Maketing xử lý
để đưa ra chính sách phù hợp hơn.
3.Yêu cầu đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp sản xuất. Hoạt động
tiêu thụ của doanh nghiệp có thuận lợi, có thu được hiệu quả thì vốn của
doanh nghiệp mới được quay vòng nhanh, mới có hiệu quả, hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp mới có thể diễn ra một cách liên tục và đem lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Do vậy, đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp cũng có những yêu cầu cụ thể sau đây:
- Hoạt động tiêu thụ sản phẩm phải được tiến hành một cách nhanh
nhất, thuận lợi nhất, an toàn và đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất
lượng sản phẩm.
-Hoạt động tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo được tính lâu dài của
mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
-Đảm bảo tiêu thụ nhanh chóng sản phẩm và đảm bảo thời gian thu
hồi vốn nhanh nhất.

- Đảm bảo uy tín và chất lượng của nhà sản xuất đối với người tiêu
dùng thông qua các chính sách hậu mãi và tiếp thị sản phẩm.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP:
1. Nghiên cứu và dự báo thị trường:

5
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Trong kinh doanh muốn kinh doanh trên lĩnh vực nào thì ta phải tìm
hiểu rõ những yếu tố văn hoá, xã hội con người ở nơi mà trong đó diễn ra
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu nhu cầu thị
trường thực chất là tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu sức mua của người tiêu dùng
để xác định đâu là thị trường trọng điểm đâu là thị trường tiềm năng của
công ty. Việc xác định này là vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh bất kể doanh nghiệp đó hoạt động trong lĩnh vực nào. Vì vậy
nghiên cứu nhu cầu thị trường là khâu đầu tiên của quá trình kinh doanh, đó
là việc tìm kiếm và khai thác cơ hội kinh doanh xuất hiện trên thị trường.
Mục đích của việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là xác định khả năng bán
một loại mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng trên thị trường. Nếu ta xác định
thị trường quá hẹp thì có thể làm cho công ty bỏ lỡ thời cơ kinh doanh. Còn
nếu ta xác định thị trường quá rộng thì sẽ làm cho các nỗ lực và tiềm năng
của công ty bị lãng phí làm cho sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Thị
trường thích hợp với doanh nghiệp là thị trường phù hợp với mục đích và
khả năng của doanh nghiệp. Do vậy việc nghiên cứu thị trường có ý nghĩa
rất quan trọng đối với tiêu thụ sản phẩm.
*Nội dung của việc nghiên cứu nhu cầu thị trường:
Phân tích cầu:nhằm xác định nhu cầu thực sự của thị trường về hàng
hoá, xu hướng biến động từng thời kì trong từng khu vực để thấy được đặc
điểm của nhu cầu ở từng khu vực. Trong đó phải nghiên cứu các vấn đề sau:
+ Khách hàng mà doanh nghiệp nhằm vào.

+ Khu vực tiêu thụ.
+ Sản phẩm thay thế.
+ Các nhân tố ảnh hưởng tới cầu.

6
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Phân tích tình hình cạnh tranh trên thị trường nhằm tìm hiểu rõ về các
đối thủ cạnh tranh của mình hiện tại và tương lai bởi vì nó tác động rất lớn
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty cần chú ý tới việc
nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh của mình về số lượng, khả năng cung ứng,
khả năng tài chính, kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụv..v. Cần phải
nghiên cứu kỹ phản ứng của các đối thủ cạnh tranh trước các biện pháp về
giá, quảng cáo khuyến mại của công ty.
Phân tích mạng lưới tiêu thụ: nhằm đáp ứng, phục vụ khách hàng một
cách tốt nhất. Bên cạnh đó công ty cần nghiên cứu tổ chức mạng lưới tiêu
thụ sao cho phù hợp với điều kiện của mìnhnhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
*Phương pháp thu thập thông tin:
Thông tin được lấy từ: Báo, tạp chí, ấn phẩm, báo cáo. Phương pháp
này thường áp dụng để nghiên cứu khái quát về thị trường, lập danh sách
những thị trường có triển vọng mà công ty cần tập trung khai thác.
Nhược điểm: của phương pháp này là khó khăn trong việc lựa chọn
thông tin từcác nguồn khác nhau, thông tin có thể bị cũ, thông tin không
chính xác, không đầy đủ, độ tin cậy không cao.
Ưu điểm : Dễ thực hiện tiết kiệm chi phí.
Thông tin sơ cấp thu được khi sử dụng một số phương pháp như:
Quan sát, thực nghiệm thăm dò, phỏng vấn. Sau khi thu thập các thông tin
cần thiết công ty cần phải tiến hành xử lý thông tin để loại bỏ những thông
tin không quan trọng, chưa chính xác, không thuyết phục. Trên cơ sở đó xây
dựng phương án kinh doanh có tính khả thi. Trên cơ sở các phương án đưa

ra doanh nghiệp tiến hành đánh giá lựa chọn và quyết định phương án có
hiệu quả nhất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu thị trường:

7
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
+ Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, công ty nâng cao khả năng thích
ứng với thị trường của các sản phẩm do mình sản xuất ra và tiến hành tổ
chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá mà thị trường đòi hỏi.
+ Doanh nghiệp có thể dự đoán hàng hoá tiêu thụ trên thị trường.
+ Thông qua nghiên cứu thị trường doanh nghiệp xác định được đối thủ cạnh
tranh, điểm mạnh, điểm yếu của họ.
*Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh:
Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan
tâm đến các đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh là người đang chiếm giữ
một phần thị phần và giành giật một phần khách hàng của doanh nghiệp. Do
vậy doanh nghiệp cần phải tìm cách để nắm bắt, phân tích các thông tin về
đối thủ như: Chính sách giá, chính sách phân phối, chính sách sản phẩm
v.v... từ đó có các biện pháp phù hợp.
2.Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm:
2.1. Chính sách sản phẩm:
Để có được chiến lược sản phẩm đúng đắn bên cạnh việc tìm
hiểu các nhu cầu về thị trường và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp thì
doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ chính sách sản phẩm hợp lý thì mới nâng
cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạn chế rủi ro tốt nhất.Chính sách
sản phẩm là nền móng cho quá trình phát triển kinh doanh.Bởi vì nếu chính
sách sản phẩm không đảm bảo một sự tiêu thụ chắc chắn thì những hoạt
động trên có thể bị thất bại.
Khi nói đến chính sách sản phẩm thì cần phải phân tích chu kỳ sống

của sản phẩm: Một chu kỳ sống của sản phẩm thông thường phải trải qua
bốn giai đoạn: Thâm nhập- tăng trưởng- chín muồi- suy thoái. Chu kỳ sống
của bất cứ sản phẩm nào cũng gắn với một thị trường nhất định. Bởi vì sản

8
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
phẩm có thể đang ở giai đoạn suy thoái ở thị trường này nhưng có thể đang ở
giai đoạn phát triển của thi trường khác. Việc nghiên cứu chu kỳ sống của
sản phẩm giúp công ty hành động trong lĩnh vực tiếp thị một cách hiệu quả
nhằm kéo dài hơn chu kỳ sống của sản phẩm, tăng lợi nhuận mà một sản
phẩm đem lại cho công ty toàn bộ đời sống của nó.
- Giai đoạn thâm nhập: Sản phẩm được đưa vào thi trường nhưng tiêu
thụ rất chậm do hàng hoá được ít người biết đến. Chi phí cho một đơn vị sản
phẩm là rất lớn. Trong giai đoạn này doanh nghiệp thường bị lỗ. Nhiệm vụ
của giai đoạn này đối với doanh nghiệp là: giữ bí mật công nghệ, thiết bị,
thiết lập các kênh phân phối, thăm dò thị trường và tăng cường quảng cáo.
-Giai đoạn tăng trưởng: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng nhanh
do thị trường đã chấp nhận thị trường mới. Chi phí tính cho một đơn vị sản
phẩm giảm nhanh. Việc mở rộng hay tấn công vào những phân đoạn mới
của thị trường là tương đối thuận tiện. Cần phải sử dụng các nguồn lực để:
+ Cải tiến chất lượng và phát triển mẫu mã mới.
+ Khai thác các đoạn thị trường mới.
Tìm kiếm các kênh tiêu thụ mới.
- Giai đoạn bão hoà: Đây là giai đoạn kéo dài nhất nó được đặc trưng
bởi số lượng bán ra ổn định. Ở cuối giai đoạn này khối lượng hàng hoá bán
ra giảm dần. Trong giai đoạn này thì chi phí kinh doanh tính cho một đơn vị
sản phẩm thấp nhất, lãi tính cho một đơn vị sản phẩm cao nhất do khối
lượng sản phẩm bán ra lớn nhất nên tổng lợi nhuận thu được lớn nhất. Khi
sản lượng tiêu thụ bị chững lại và giảm xuống, doanh nghiệp cần có ngay

các biện pháp, chính sách để khai thác thị trường ở giai đoạn tiếp sau.

9
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
- Giai đoạn suy thoái: Đặc trưng của giai đoạn này là khối lượng sản
phẩm tiêu thụ giảm rất nhanh.Nếu không giảm sản lượng sản xuất thì khối
lượng sản phẩm tồn kho lớn dần dẫn tới lợi nhuận giảm nhanh. Nếu tình
trạng này kéo dài thì doanh nghiệp có thể bị thua lỗ nặng dẫn tới phá sản.
Doanh nghiệp cần phải tìm những biện pháp hữu hiệu để khắc phục như: cải
tiến sản phẩm, quảng cáo, chuẩn bị sẵn những sản phẩm thay thế để đảm bảo
cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục.
Nghiên cứu phân tích chu kỳ sống của sản phẩm hiểu biết tỷ mỷ vấn
đề này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà kinh doanh. Vì nó giúp cho các
nhà kinh doanh hiểu biết được bản chất của vấn đề phát triển sản phẩm mới
từ đó tìm mọi cách nâng cao lợi nhuận giảm thiểu rủi ro.
2.2. Chính sách giá cả:
Việc quy định mức giá bán cho một sản phẩm của doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh gọi là chính sách giá. Việc định giá sản phẩm là một quyết
dịnh quan trọng đối với doanh nghiệp vì giá cả sản phẩm luôn được coi là
công cụ mạnh mẽ hữu hiệu trong sự cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường.
Xác định giá cả cho hàng hoá là một quá trình gồm 6 bước:
+ Bước 1: Công ty xác định mục tiêu hay những mục tiêu Marketing
của mình như: đảm bảo sống sót, tăng tối đa lợi nhuận trước mắt, giành vị trí
dẫn đầu về thị phần hay chất lượng sản phẩm hàng hoá.
+ Bước 2: Công ty xây dựng cho mình đồ thị đường cầu thể hiện số
lượng hàng hoá chắc chán sẽ bán được trên thị trường trong một khoảng thời
gian cụ thể theo các mức giá khác nhau.


10
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
+ Bước 3: Công ty tính toán xem tổng chi phí của mình thay đổi như
thế nào khi mức sản xuất khác nhau.
+ Bước 4: Công ty nghiên cứu mức giá của các đối thủ cạnh tranh để
sử dụng chúng làm căn cứ để xác định vị trí giá cả cho hàng hoá của mình.
+ Bước 5: Công ty lựa chọn cho mình một trong những phương pháp
hình thành giá sau: chi phí bình quân cộng lãi, phân tích điều kiện hoà vốn
và đảm bảo lợi nhuận mục tiêu, xác định giá căn cứ vào giá trị cảm nhận của
hàng hoá, xác định giá trên cơ sở giá hiện hành.
+ Bước 6: Công ty quyết định giá cuối cùng cho hàng
hoá có lưu ý đến sự chấp nhận về mặt tâm lý đối với sản
phẩm đó và nhất thiết phải kiểm tra xem giá đó có phù hợp
với những mục tiêu của chính sách giá cả mà công ty đang
thi hành không và những người phân phối, những nhà kinh
doanh, các đối thủ cạnh tranh, những người cung ứng,
khách hàng có chấp nhận nó hay không.
2.3. Chính sách giao tiếp khuyếch trương:
Đây cũng là một trong những chính sách quan trọng về tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp. Mỗi khi có một sản phẩm mới ra đời, doanh nghiệp
cần phải có một chính sách khuyếch trương quảng cáo cho sản phẩm một
cách có hiệu quả để sản phẩm có thể đến được nhu cầu tiêu dùng của người
tiêu dùng. Một sản phẩm có thể tiêu thụ một cách có hiệu quả là sản phẩm
mang lại cho người tiêu dùng cảm giác quen thuộc và sẽ nghĩ ngay đến sản

11
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
phẩm đó khi có nhu cầu sử dụng. Chính sách giao tiếp khuyếch trương sản

phẩm chính là các chính sách về giới thiệu, quảng cáo và tiếp thị sản phẩm
đến với người tiêu dùng. Do vậy, khi bất kì một sản phẩm mới nào bắt đầu
được tung ra thị trường thì ngoài việc xây dựng các chính sách về giá, chính
sách phân phối, chính sách về sản phẩm để có thể cạnh tranh với các sản
phẩm khác và tồn tại trên thị trường thì các nhà quản trị cũng cần phải xây
dựng một chính sách giao tiếp khuyếch trương, tiếp thị, qảng cáo cho sản
phẩm đến được với người tiêu dùng.
2.4. Chính sách phân phối:
Phân phối là toàn bộ các công việc để đưa một sản phẩm hoặc dịch vụ
từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng có nhu cầu đảm bảo về chất lượng thời
gian, số lượng, chủng loại mà người tiêu dùng mong muốn.
Kênh phân phối là con đường mà hàng hoá được lưu thông từ các nhà
sản xuất đến người tiêu dùng, nhờ nó mà khắc phục được những ngăn cách
dài về thời gian địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất
Với người tiêu dùng. Do vậy mỗi doanh nghiệp cần phải tìm ra kênh
phân phối hiệu quả nhất cho mình.
Hình 9 : Sơ đồ các kênh phân phối.


12
Người
bán
Người
bán
Người
bán
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Các kênh phân phối được phân loại theo số cấp cấu thành chúng.
Kênh không cấp( kênh tiêu thụ trực tiếp): Gồm các nhà sản xuất bán

hàng trực tiếp cho người tiêu dùng. Phương thức bán là bán tại công ty, bán
lưu động.
Kênh một cấp: Bao gồm một người trung gian.Trên các thị trường
người tiêu dùng người trung gian này thường là người bán lẻ. Còn trên thị
trường hàng tư liệu sản xuất thì người trung gian là người đại lý tiêu thụ hay
người môi giới.
Kênh hai cấp Bao gồm hai người trung gian. Trên thị trường thì những
người này thường là người bán sỉ và người bán lẻ.
Kênh ba cấp: Gồm ba nhà trung gian.
Đối với kênh tiêu thụ trực tiếp do trực tiếp quan hệ với người tiêu
dùng và thị trường nên dễ nắm bắt được thị hiếu, tình hình tiêu thụ hàng hoá
từ đó dễ tạo uy tín với khách hàng. Phương thức phân phối trực tiếp diễn ra
chậm, công tác thanh toán phức tạp, doanh nghiệp là người chịu rủi ro.
Đối với kênh tiêu thụ gián tiếp thì việc phân phối diễn ra nhanh
chóng, công tác thanh toán đơn giản. Nếu xảy ra rủi ro thì sau khi giao hàng

13
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
các tổ chức trung gian phải chịu trách nhiệm . Mặc dù vậy ở kênh gián tiếp
này công ty không quan hệ trực tiếp với thị trường, với người tiêu dùng nên
rất khó kiểm tra đánh giá phản hồi từ phía khách hàng.
Trên thực tế doanh nghiệp thường sử dụng cả kênh tiêu thụ trực tiếp
và kênh tiêu thụ gián tiếp. Doanh nghiệp vừa bán sản phẩm của mình cho
trung gian vừa mở cửa hàng bán sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng
cuối cùng phát huy được ưu điểm của cả hai phương thức trên.
Khi xây dựng kênh phân phối doanh nghiệp cần tính đến:
+ Đặc điểm thị trường, sản phẩm.
+ Đặc tính kỹ thuật của sản phẩm.
+ Đặc điểm của đối thủ cạnh tranh.

III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIÊU THỤ SẢN PHẨM:
1. Nhóm nhân tố khách quan:
1.1.Nhu cầu của thị trường:
Thị trường là nhân tố quan trọng trong chiến lược phát
triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Có thể
nói, thị trường chính là môi trường sống của các doanh
nghiệp, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại nếu tách khỏi thị
trường, hoạt động trái với các quy luật phát triển của thị
trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động dựa
theo quy luật phát triển của thị trường mà không thể điều
chỉnh thị trường được, do vậy thị trưồng tiêu thụ chính là
nhân tố khách quan điều chỉnh trực tiếp, ảnh hưởng trực

14
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất kì
một doanh nghiệp nào khi đầu tư vào một loại sản phẩm
đều phải xét đến nhu cầu của thị trường để có những chính
sách đầu tư hợp lí cho sản phẩm.
1.2. Đối thủ cạnh tranh :
Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp
phải quan tâm đến các đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh
tranh là người đang chiếm giữ một phần thị phần và giành
giật một phần khách hàng của doanh nghiệp. Do vậy doanh
nghiệp cần phải tìm cách để nắm bắt, phân tích các thông
tin về đối thủ như: Chính sách giá, chính sách phân phối,
chính sách sản phẩm v.v... từ đó có các biện pháp phù hợp.
1.3. Các điều kiện tự nhiên, địa lí...
Các điều kiện địa lí, tự nhiên... ảnh hưởng trực tiếp

đến quá trình vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm. Điều kiện
tự nhiên, thiên nhiên sẽ quyết định chi phí vận chuyển của
hàng hoá, do đó ảnh hưởng đến giá thành cuối cùng của sản
phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm so với các đối thủ
cạnh tranh. Đồng thời, các điều kiện tự nhiên cũng sẽ làm
cho chi phí quảng cáo và tiếp thị sản phẩm đến tay người

15
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
tiêu dùng tăng lên do đó sẽ làm cho quy mô và hiệu quả của
hoạt động tiếp thị sản phẩm sẽ giảm.
2. Nhóm nhân tố chủ quan:
Những nguyên nhân thuộc về bản thân công ty ảnh hưởng đến tình
hình tiêu thụ bao gồm : Giá, chất lượng sản phẩm, công tác tiếp cận thị
trường, tổ chức tiêu thụ.v.v...
+ Giá bán sản phẩm là một nhân tố ảnh hưởngđến khối lượng sản
phẩm hàng hoá tiêu thụ( xét cả về giá trị và hiện vật) ảnh hưởng đến lợi
nhuận của công ty. Giá bán tăng lên làm cho doanh thu tăng trong điều kiện
giả định khối lượng sản phẩm bán ra không đổi. Tuy nhiên cần chú ý rằng
khi giá bán tăng lên không những khối lượng sản phẩm bán ra sẽ giảm do
nhu cầu giảm, một khi thu nhập của người tiêu dùng không tăng, mức độ
tăng giảm khối lượng sản phẩm tiêu thụ còn phụ thuộc vào mức đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng cuả hàng hoá, giá trị sử dụng của hàng hoá. Những sản phẩm
đơn giản khối lượng sản phẩm tiêu thụ thay đổi ít phụ thuộc vào giá cả.
Ngược lại những sản phẩm hàng hoá cao cấp, xa xỉ khối lượng sản phẩm
tiêu thụ sẽ giảm khi giá cả tăng lên. Vì vậy, công ty cần quyết định khối
lượng sản phẩm tiêu thụ và giá cả như thế nào cho hợp lý nhằm đem lại hiệu
quả kinh tế cao nhất.
+ Chất lượng sản phẩm : Là tập hợp những đặc tính không thể thiếu

được của các sản phẩm. Nó được xác định bằng các thông số kỹ thuật có thể
so sánh đo lường được. Càng hoạt động trong môi trường cạnh tranh mạnh,
chất lượng càng cần thiết vì nó là một trong các nhân tố chủ yếu để quyết
định sức cạnh tranh cuả công ty. Nó tác động tới lợi nhuận và uy tín của
công ty trên thị trường. Công ty không thể bán được nhiều, không thể giữ uy

16
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
tín với khách hàng nếu sản phẩm của công ty chất lượng tồi. Chất lượng sản
phẩm tốt có thể làm cho tốc độ tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn và ấn tượng tốt
hơn đối với khách hàng. Chính vì thế công ty phải không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Công tác tổ chức tiêu thụ: Bao gồm các khâu khác nhau từ việc thiết
kế mạng lưới tiêu thụ, quảng cáo khuyến mại.. Nếu công tác tổ chức tiêu thụ
không tốt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ quá trình kinh doanh. Và ngược
lại nếu tổ chức tốt thì công ty sẽ tiêu thụ nhiều sản phẩm hơn, doanh thu tăng
, vòng quay vốn lưu động tăng, giảm chi phí dự trữ bảo quản... Vì vậy công
ty cần lựa chọn tổ chức tiêu thụ sao cho phù hợp với đặc tính của sản phẩm
và quy mô sản xuất. Bên cạnh đó công ty còn tổ chức các hoạt động hỗ trợ
như: Quảng cáo, khuyến mại, dịch vụ sau bán hàng, hội họp để tạo dựng
lòng tin của khách hàng đối với công ty.
VI. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA
DOANH NGHIỆP:
1. Lượng sản phẩm tiêu thụ:
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, lượng sản phẩm tiêu thụ là
những sản phẩm đã xuất kho thành phẩm để giao cho khách hàng và đã nhận
được tiền. Xác định lượng sản phẩm trong năm phải căn cứ vào sản lượng
sản xuất của sản phẩm, hợp đồng kinh tế ký kết với khách hàng, nhu cầu thị
trường, khả năng đổi mới phương thức thanh toán và tình hình tiêu thụ sản

phẩm tiêu thụ của năm trước.
Lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ kế hoạch của doanh nghiệp được xác
định theo công thức.
Q
kh
= Q- Q 1- Q
2
.
Trong đó:
Q
kh
: Lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ kỳ kế hoạch.

17
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Q: Khối lượng sản phẩm sản xuất kỳ kế hoạch.
Q
1
: Lượng sản phẩm sản xuất tồn kho đầu kỳ.
Q
2
: Lượng sản phẩm sản xuất tồn kho cuối kỳ.
2. Doanh thu:
Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có khoản thu nhập lớn nhất và
thường xuyên là doanh thu bán hànghoá và dịch vụ hay còn gọi là doanh số
bán hàng của doanh nghiệp.
Điều quan trọng đối với doanh nghiệp là bán được hàng hoá, thu hút
được nhiều khách hàng và mở rộng được thị trường. Sự đa dạng hoá hàng
hoá và dịch vụ cho phép mở rộng được nhu cầu của khách hàng, thoả mãn

nhu cầu nhiều vẻ và đa dạng của khách hàng, cho phép tăng được số lượng
hàng hoá và dịch vụ bán ra.
Doanh thu của doanh nghiệp được xác định theo công thức:
TR= Σ Q
i
x P
i
.
TR: Doanh thu của doanh nghiệp.
Q
i
: Khối lượng hàng hoá, dịch vụ i.
P
i
: Giá cả hàng hoá dịch vụ i.
Doanh thu của doanh nghiệp phụ thuộc vào khối lượng hàng hoá và
dịch vụ bán ra và phụ thuộc vào gía cả hàng hoá và dịch vụ đó. Trong cơ chế
thị trường nếu khối lượng hàng hoá dịch vụ bán ra càng nhiều thì giá cả
hàng hoá dịch vụ sẽ hạ xuống và ngược lại theo quy luật cung cầu. Vì vậy
đối với mỗi loại hàng hoá dịch vụ trên mỗi thị trường cần phải tính toán
doanh thu biên( MR) bằng chi phí biên( MC ).
MR= MC.

18
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Từ đó mới quyết định lượng cung hàng hoá và dịch vụ. Khối lượng
hàng hoá dịch vụ bán ra của doanh nghiệp nhiều hay ít, giá cả cao hay thấp
còn phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng hàng hoá nhu cầu của khách hàng
dung lượng thị trường, địa điểm bán hàng, phương thức phân phối và bán

hàng.
3. Lợi nhuận và mức doanh lợi:
Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh. Đây chính là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh hiệu quả quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là phần dôi ra ngoài những chi phí mà doanh nghiệp phải
bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh.
LN= TR- TC = (P - ATC)x Q.
LN: Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
TR: Tổng doanh thu bán hàng của doanh nghiệp
TC: Tổng chi phí của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều cố gắng nhằm mục đích tối
đa hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp chỉ đạt được lợi nhuận tối đa khi MR=
MC.
Khi xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài
giá trị tuyệt đối lợi nhuận ta còn sử dụng chỉ tiêu mức doanh lợi. Có ba cách
tính mức doanh lợi khác nhau.
- Tính trên vốn kinh doanh:
Mức doanh lợi = Tổng lợi nhuận/ vốn kinh doanh.
- Tính trên doanh số bán hàng thực hiện.

19
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Mức doanh lợi = tổng lợi nhuận/ Doanh thu.
- Tính trên chi phí kinh doanh.
Mức doanh lợi=Tổng lợi nhuận /Tổng chi phí kinh doanh.
Ngoài ra người ta thường có tính đến mức tăng trưởng hàng năm của
doanh lợi đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Mức tăng trưởng = Doanh lợi năm kế hoạch/ Doanh lợi năm gốc.

4. Năng suất lao động:
Năng suất lao động là một chỉ tiêu cơ bản của một doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh. Năng suất lao động cao hay thấp là một yếu tố quyết định
đến giá thành sản phẩm và đặc biệt nó có ảnh hưởng hai chiều đến công tác
tiêu thụ sản phẩm. Năng suất lao động cao góp phần làm giảm giá thành sản
phẩm, từ đó có khả năng hạ thấp giá bán sản phẩm trên thị trường và tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu thụ sản phẩm. Việc tiêu thụ sản phẩm
được thực hiện tốt có điều kiện để kích thích sản xuất phát triển, có những
biện pháp động viên thực tế đến sản xuất nhờ đó mà năng suất lao động
được nâng cao.
Năng suất lao động được xác định bằng số sản phẩm sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian của một cá nhân hay tập thể.
Năng suất lao động của cá nhân= Q/T.
Q: Là số lượng sản phẩm cá nhân sản xuất trong kỳ kế hoạch.
T: Thời gian kỳ kế hoạch( 1 tháng, 3 tháng).
Năng suất lao động bình quân= Q/ Tx Số người lao động.
Q: Số lượng sản phẩm của đơn vị cả một dây truyền sản xuất trong kỳ
kế hoạch.

20
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
T: Thời gian kỳ kế hoạch.
Số người lao động: Số người lao động thực tế của đơn vị.
5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động:
Vốn cố định là một giá trị ứng ra để đầu tư vào các tài sản cố định
nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn
này sẽ tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu hao dần theo sự hao mòn của
tài sản cố định.
Hiệu quả sử dụng vốn cố định là những kết quả mà doanh nghiệp đạt

được trong việc bảo toàn vốn cố định. Bảo toàn vốn cố điịnh là bảo toàn
được năng lực sản xuất của tài sản cố định. Để thực hiện điều này, doanh
nghiệp phải thực hiện quản lý chặt chẽ không để mất mát tài sản cố định,
thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng sửa chữa, mua sắm tài sản cố
định nhằm duy trì và nâng cao năng lực của tài sản cố định, đồng thời doanh
nghiệp cần chủ động đổi mới tài sản cố định.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu
động và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của
doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên và liên tục . Vốn lưu
động tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nó được thu hồi toàn bộ sau
mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh .
Vòng quay của vốn lưu động nhanh hay chậm hay nói cách khác một
chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dài hay ngắn thể hiện rõ hiệu
suất của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trực tiếp đánh
giá hiệu quả của công tác tiêu thụ sản phẩm .

21
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
V. NỘI DUNG CỦA PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TIÊU THỤ :
1. Phân tích chung tình hình tiêu thụ:
Phân tích chung tình hình tiêu thụ là xem xét đánh giá sự biến động
của khối lượng sản phẩm tiêu thụ xét ở toàn công ty và đối với từng mặt
hàng đồng thời xem xét mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ để
thấy khái quát tình hình tiêu thụ và những nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng
đến tình hình đó.
Sản phẩm của công ty chỉ được xem là tiêu thụ khi công ty xuất kho
sản phẩm gửi tiêu thụ và thu được tiền hoặc được khách hàng chấp nhận
thanh toán.
Phương pháp phân tích:

Áp dụng phương pháp so sánh: So sánh doanh thu thực tế tính theo
giá bán kế hoạch(hoặc giá cố định) với doanh thu kế hoạch tính theo giá bán
kế hoạch(hoặc giá cố định) về cả số tuyệt đối lẫn số tương đối.
Tỷ lệ hoàn Σ( Khối lượng tiêu thụTT* giáTT)
thành kế hoạch =
tiêu thụ chung Σ(Khối lượng tiêu thụKH* giá KH).
So sánh khối lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế với kế hoạch và năm
trước của từng loại sản phẩm , đồng thời so sánh tỷ lệ hoàn thành kế hoạch
tiêu thụ với tỷ lệ hoàn thành kế hoạch sản xuất sản phẩm hàng hoá.
2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ mặt hàng chủ yếu:
Phân tích tình hình thực hiện kế hoach tiêu thụ không chỉ dừng lại ở
việc đánh giá tình hình tiêu thụ về mặt khối lượng sản phẩm mà còn phải
tiếp tục phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ những mặt hàng chủ
yếu.Bởi vì công ty không thực hiện tốt kế hoạch tiêu thụ mặt hàng chủ yếu
sẽ ảnh hưởng tình hình tài chính của công ty,tình hình sản xuất, kinh doanh
làm giảm uy tín của công ty.

22
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Nguyên tắc phân tích là: Không lấy giá trị mặt hàng tiêu thụ vượt mức
bù cho những mặt hàng không hoàn thành kế hoạch tiêu thụ.
Trình tự phân tích:
Căn cứ vào tỷ lệ hoàn thành kế hoạch mặt hàng đánh giá tình hình
thực hiện kế hoạch tiêu thụ của công ty.
Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ từng loại sản phẩm để
thấy được nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình trên.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ TIÊU THỤ
SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY DỆT MAY HUY HOÀNG TRONG THỜI
GIAN QUA

I. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH:
1. Lịch sử ra đời và phát triển của doanh nghiệp:
1.1.Tên công ty:
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN DỆT MAY
HUY HOÀNG
1.2 Trụ sở chính:
Khu công nghiệp Chùa Tổng-La Phù- Hoài Đức- Hà Tây
Điện thoại: 034.650318
Fax: 034.650319
Email:
1.3. Nghành nghề kinh doanh chủ yếu:
Sản xuất và kinh doanh các sản phẩm may mặc và hàng dệt kim, sản
phẩm khăn, vải Denim.

23
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Gia công và chế biến các sản phẩm từ sợi các loại, sợi dệt kim, sợi
Denim.
1.4. Quá trình hình thành và phát triển:
Tháng 4 năm 1993 công ty xuất nhập khẩu thiết bị Việt Nam( Techno
import) ký hợp đồng với công ty Union matex cộng hoà liên bang Đức về
việc cung cấp thiết bị công nghệ cho một nhà máy kéo sợi có 100000 cọc
sợi.
Ngày 16 tháng 4 năm 1993 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây ra
quyết định cho phép xây dựng dệt may Huy Hoàng đặt tại khu Công nghiệp
Chùa Tổng-La Phù-Hoài Đức-Hà Tây.
*Các giai đoạn phát triển của công ty dệt may Huy Hoàng:
Quá trình xây dựng và phát triển của công ty được đánh dấu bằng ba
giai đoạn chính:

Giai đoạn 1: Từ năm 1994 đến năm 1996 đây là giai đoạn xây dựng
và lắp đặt trang thiết bị. Ngày 21tháng 11 năm 1996 các hạng mục cơ bản
chính được hoàn thành và chính thức bàn giao công trình cho nhà máy quản
lí.
Giai đoạn 2: Từ năm 1996 đến năm 2000 là giai đoạn vừa sản xuất
vừa hoàn thiện. Công ty đã xây dựng thêm một phân xưởng dệt kim ngày 31
tháng 7 năm 1999 với công suất 1000 tấn mỗi năm.
Giai đoạn 3: Từ năm 2000 đến nay là giai đoạn phát triển sản xuất.
Tháng 4 năm 2001 lãnh đạo công ty quyết định chuyển đổi tổ chức hoạt
động của nhà máy sợi thành xí nghiệp liên hiệp sợi dệt kim Huy Hoàng.
Tên giao dịch là Công ty xuất nhập khẩu Huy Hoàng với cơ cấu tổ chức là
các phòng chức năng và các phân xưởng sản xuất.

24
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Công ty dệt may Huy Hoàng là công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm
các phân xưởng sản xuất sau:
- Phân xưởng sản xuất sợi.
- Phân xưởng dệt .
- Phân xưởng nhuộm.
- Phân xưởng may số 1.
- Phân xưởng may số 2.
- Phân xưởng may số 3.
- Phân xưởng bao gói sản phẩm.
- Đơn vị dịch vụ.
2. Chức năng nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp:
*Chức năng:
Chức năng chính của công ty là sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu
các mặt hàng: Sợi các loại, vải dệt kim , sản phẩm dệt kim , sản phẩm khăn,

vải Denim, sản phẩm Denim, mũ và các loại nguyên vật liệu trang thiết bị
chuyên nghành dệt may: bông, sơ, hoá chất, thuốc nhuộm, máy móc.
*Nhiệm vụ:
-Xây dựng thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh.
-Thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước.
-Chăm lo đời sống tinh thần cho người lao động.
3. Cơ cấu tổ chức quản lí và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
3.1. Chế độ quản lý:
Giám đốc của công ty là người đại diện pháp nhân của công ty điều
hành mọi hoạt động của công ty theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc chịu
trách nhiệm về toàn bộ kết quả kinh doanh của công ty.

25

×