Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

kinh tế việt nam sau khi năm gia nhập wto và hướng giải quyết những vấn đề còn tồn tại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.19 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC KINH TẾ

BÀI TIỂU LUẬN
Kinh tế Việt Nam sau khi năm gia nhập WTO và
hướng giải quyết những vấn đề còn tồn tại

Giáo viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện:
THS TRẦN THỊ GIANG VÕ THỊ BÔNG
VÕ THỊ HỒNG
VÕ NHẬT THANH
PHẠM THỊ QUYÊN
PHAN CHÍ CƯỜNG
NGUYỄN VĂN CƯỜNG
HOÀNG THỊ TRANG
NGUYỄN THU TRÀ
Huế 5-2013
Mục lục
Phần I: Đặt vấn đề.
Vào nửa cuối của những năm 90 của thế kỷ trước, với đà phát triển mạnh mẽ của
khoa học kỹ thuật và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, lực lượng sản xuất đã có bước
phát triển vượt bậc trên phạm vi toàn cầu. Các công ty xuyên quốc gia với tiềm lực tài
chính to lớn và khả năng công nghệ dồi dào gia tăng hoạt động.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự gia tăng hoạt động của các
công ty xuyên quốc gia là 2 yếu tố lớn tác động đến bức tranh kinh tế thế giới trong thời
đại ngày nay.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hoá và
dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nước này sang nước khác, thông qua các cam kết
mở cửa thị trường. Trên cơ sở đó,Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization) WTO ra đời.
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức


Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội phát triển hơn và gặt hái được những
thành công đáng kể.
Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Điều gì sẽ diễn ra khi chúng ta tham gia Tổ chức thương mại có quy mô toàn cầu này.
Đâu là cơ hội mà chúng ta có thể và cần phải tận dụng. Những thách thức nào mà chúng
ta phải nhận biết để vượt qua. Và để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức chúng ta phải
làm gì? Đó là lí do mà nhóm tôi chọn đề tài “ Kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO và
hướng giả quyết những vấn đê còn tồn tại”
Phần II: Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
I. Toàn cầu hóa và những cấp độ liên kết kinh tế quốc tế
1. Khái niệm toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia,
các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v trên quy mô toàn cầu. Đặc
biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác động
của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng.
Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo
theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin,văn hoá.
Toàn cầu hóa theo nghĩa rộng là các hoạt động vượt qua biên giới quốc gia, với
quy mô và quá trình thể hiện mạng ý nghĩa toàn thế giới.
Toàn cầu hóa được phản ảnh trên tất cả các khía cạnh của đời sống nhân loại như:
kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa
Toàn cầu hóa chính là sự phản ánh các quá trình hội nhập kinh tế của các quốc gia.
2. Những cấp độ liên kết kinh tế quốc tế- biều hiện của mức độ hội nhập kinh tế
2.1. Khu vực mậu dịch tự do
Khu vực mậu dịch tự do là hình thức và mức độ hội nhập đầu tiên và thấp nhất của
quá trình liên kết kinh tế khu vực, nó là cơ sở hình thành một liên minh kinh tế quốc tế
giữa các quốc gia trên cơ sở dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để hàng hóa

và dịch vụ được dịch chuyển tự do giữa các nước.
2.2. Đồng minh thuế quan
Đồng minh thuế quan là hình thức liên kết cao hơn so với khu vực mậu dịch tự do,
trình độ liên kết cao hơn không chỉ thế ở việc loại bỏ các hạn chế thuế quan và các hạn
chế mậu dịch khác giữa các nước thành viên mà còn thiết lập biểu thuế quan chung của
khối với các nước ngoài liên minh.
2.3. Thị trường chung
Thị trường chung là hình thức liên kết cao hơn các hình thức trước đó, các nước
tham gia thị trường chung ngoài việc áp dụng các biện pháp giống như đồng minh thuế
quan trong buôn bán quốc tế còn cho phép vốn và lao động được tự do di chuyển giữa
các nước, thông qua thành lập một thị trường thống nhât.
2.4. Liên minh tiền tệ
Liên minh tiền tệ là hình thức chủ yếu của liên kết kinh tế trên lĩnh vực tiền tệ. khi
tham gia vào liên minh này các nước phải phố hợp các chính sách tiền tệ với nhau và
thực thi một chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối: thống nhất đồng tiền dữ trữ
khu vưc; thống nhất ngân hàng trung ương; và các giao dịch tiện tề và thanh toán quốc tế
với các tổ chức tài chính thế giới.
2.5. Liên minh kinh tế
Liên minh kinh tế được thực hiện ở trình độ cao của liên kết kinh tế, thể hiện ở
việc hàng hóa, dịch vụ, sức lao động và vốn được di chuyển tự do giữa các quốc gia
thành viên và cùng thực hiện một chính sách thuế với các quốc gia nằm ngoài khối.
Đó là năm cấp độ liên kết kinh tế theo mức độ tăng dần và WTO là một dạng của
hình thức thứ 2 – Đồng minh thuế quan. Vì thế có thể nói mức độ hội nhập kinh tế của
Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay đang ở cấp độ liên kết thứ 2.
II. WTO- tổ chức thương mại thế giới
1. Lịch sử hình thành của WTO
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization) . WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều
chỉnh thương mại quốc tế của khung khổ tiền thân là GATT - Hiệp định chung về Thuế
quan Thương mại.

Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại
Quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến
chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm
tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kì đã không phê chuẩn
hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh
nghiệp Hoa Kì lo ngại rằng Tổ chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm
soát chứ không phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kì (Lisa
Wilkins, 1997).
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương mại
quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT
đóng vai trò là khung pháp lí chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần
50 năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, kí kết thêm
nhiều thỏa ước thương mại mới. Vòng đám phán thứ tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết
thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho
GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở
rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của một hiệp ước, WTO là một tổ chức,
có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng
1 năm 1995.
2. Chức năng của WTO
WTO có các chức năng sau:
- Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO
-Diễn đàn đàm phán về thương mại
- Giải quyết các tranh chấp về thương mại
- Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
- Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
Chương 2: Nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO
I. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam sau 6 năm gia nhập WTO
1. Tác động tích cực
1.1. Tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế

Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam luôn ở mức cao, bình quân 5 năm 2007 - 2011 đạt 7%/năm. Tổng số vốn
đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Quy mô
GDP năm 2011 tính theo giá thực tế đạt 119 tỷ USD, gấp 3,3 lần so với năm 2000, GDP
bình quân theo đầu người đạt 1.300 USD Đây là những kết quả đáng khích lệ trong
những năm đầu gia nhập WTO, là "bàn đạp” để kinh tế Việt Nam trỗi dậy, trở thành nền
kinh tế mạnh trong khu vực.
1.2. Tăng xuất khẩu
Sau 7 năm tham gia WTO, các hoạt động kinh tế đối ngoại là lĩnh vực đạt được
những bước phát triển mạnh mẽ nhất. Độ mở của nền kinh tế Việt Nam ngày càng rộng,
với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng năm gấp khoảng 1,5 lần GDP thông qua sự
"bùng nổ" về xuất khẩu.
Sau 7 năm tham gia WTO, các hoạt động kinh tế đối ngoại là lĩnh vực đạt được
những bước phát triển mạnh mẽ nhất. Độ mở của nền kinh tế Việt Nam ngày càng rộng,
với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng năm gấp khoảng 1,5 lần GDP thông qua sự
"bùng nổ" về xuất khẩu. Theo số liệu của Bộ Công Thương, tốc độ tăng của xuất khẩu
Việt Nam trung bình trong 5 năm ở mức 19,52%/năm. Đáng chú ý, dù kinh tế đất nước
gặp nhiều khó khăn nhưng trong năm 2010 xuất khẩu vẫn đạt 72,2 tỷ USD (tăng 26,4%)
và năm 2011 tăng lên 96,3 tỷ USD (tăng 33%), Tính chung cả năm 2012, kim ngạch hàng
hóa xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế
trong nước đạt 42,3 tỷ USD, tăng 1,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu
thô) đạt 72,3 tỷ USD, tăng 31,2%. Bên cạnh đó, thị trường thương mại được mở rộng,
đến năm 2010 đã có 19 thị trường Việt Nam xuất khẩu đạt từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó
đầu bảng là Mỹ, đạt 14, 2 tỷ USD, tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc
Tăng trưởng trong lĩnh vực xuất khẩu đã thúc đẩy các lĩnh vực dịch vụ phân phối,
bán lẻ phát triển mạnh. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã hình thành và khẳng định
tên tuổi trên thị trường quốc tế.
1.3. Góp phần thu hút vốn đầu tư
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng là lĩnh vực ghi nhận những thành tựu lớn.
Sau 7 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút mạnh mẽ FDI nhờ có môi trường ổn

định, minh bạch. Nếu như năm 2006, vốn FDI đăng ký đạt trên 10 tỷ USD thì tới năm
2008 đã tăng lên 64 tỷ USD, năm 2010 và năm 2011 và 2012 mức thu hút có giảm hơn
chủ yếu do tác động chung của khủng hoảng kinh tế toàn cầu với mức 18 tỷ USD năm
2010, 15 tỷ USD trong năm 2011 , 13 tỷ USD Năm 2012. Cùng với FDI, viện trợ phát
triển chính thức (ODA) cũng đạt tăng trưởng cao với mức giải ngân tăng nhanh.
1.4. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Bảng: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế giai đoạn 2005-2011
( Đơn vi%)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Sơ bộ 2011
Kinh tế Nhà nước 47.1 45.7 37.2 28.6 34.8 38,1 38,9
Kinh tế ngoài nhà nước 38.0 38.1 38.5 40.0 39.5 36,1 35,2
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 14.9 16.2 24.3 31.4 25.7 29.8 25,9
Nguồn: NGTK 2011
Tỷ trọng cơ cấu GDP trong thành phần kinh tế Nhà nước giảm, tuy nhiên kinh tế
Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo,thúc đẩy nền kinh tế chung của Việt Nam phát triển .Tỷ
trọng nghành kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng
tăng. Đặc biệt khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 11% từ năm 2005 (14,9%)
đến năm 2011 (25,9%)
1.5. Giảm tỷ lệ thất nghiệp và góp phần xóa đói giảm nghèo
Việc gia nhập WTO cũng đã và đang có những tác động mạnh mẽ đến vấn đề việc
làm, đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của Việt Nam. Theo đó, từ 2007 đến nay,
bình quân mỗi năm lao động nông nghiệp giảm 65.000 người. Lao động công nghiệp tăng
nhanh hơn, mỗi năm tăng 624.000 người (so với 548.000 người thời kỳ trước). Lao động
dịch vụ tăng 623.000 người. Năm 2012, cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 48,4% năm 2011 xuống 47,5% năm 2012;
khu vực công nghiệp và xây dựng giảm từ 21,3% xuống 21,1%; khu vực dịch vụ tăng từ
30,3% lên 31,4%.
Mỗi năm tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho gần 1,1 triệu người chuyển sang
làm công ăn lượng (so với mức 847.000 người trước WTO). Tỷ lệ lao động làm công ăn
lương tăng từ 20,4% (2002) lên 28% (2006) và đạt 35,3% (2011). Tỷ lệ lao động tự làm

và lao động gia đình giảm từ gần 80% (2002) xuống 71,5% (2006), giảm mạnh còn gần
62% (2011).
Đây là một trong những nền tảng để Việt Nam thực hiện tốt các chính sách giảm
nghèo. Năm 2011, theo chuẩn nghèo thời kỳ 2011-2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ
14,2% năm 2010 xuống còn 9,45%. Thu nhập bình quân của hộ nghèo đã tăng 2 lần: từ
184.300 đồng/người/năm (2006) lên 369.300 đồng/người/năm (2010). Mặc dù tình hình
kinh tế-xã hội năm 2012 gặp nhiều khó khăn nhưng công tác xóa đói giảm nghèo, bảo
đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Chính phủ, các cấp, các ngành, địa phương quan
tâm, chỉ đạo và thực hiện thường xuyên. Theo báo cáo của các địa phương, tổng kinh phí
phục vụ cho công tác an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo năm 2012 là 8,8 nghìn tỷ đồng,
bao gồm: 1,3 nghìn tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; gần 1 nghìn
tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 6,5 nghìn tỷ đồng dành cho cứu đói, cứu trợ xã hội khác.
2. Tác động tiêu cực.
2.1. Tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu
Theo báo cáo Báo cáo “Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau năm năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư soạn thảo và được Viện Nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương tổ chức Hội thảo công bố tại Hà Nội…
Từ năm 2007 đến năm 2011, sau năm năm Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, tăng trưởng GDP chỉ đạt 7% không đạt được mục tiêu 7,5 - 8% kế hoạch năm năm đã đề ra. Mức tăng trưởng này thấp hơn trước khi gia nhập WTO 2002 -2006 (7,8%), và giai đoạn khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1996 - 2000 (7,0%). Nhưng con số trên vẫn được đánh giá là tăng trưởng cao so với nhiều nước trên thế giới, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Giai đoạn đầu, từ 2007 đến giữa năm 2008, các chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam đạt ở mức cao, tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,5%, cao nhất so với 10 năm trước đó, một phần nhờ các rào cản thương mại giảm nhiều khi hội nhập. Tuy nhiên, từ giữa năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm dần, ở mức bình quân 6,1% trong giai đoạn 2008 - 2011, năm 2009 thậm chí rơi xuống 5,3%. Nền kinh tế vừa mở cửa một năm đã gặp ngay những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế, suy thoái tài chính toàn cầu, khiến những yếu kém và hạn chế của nền kinh tế trong nước bộc lộ rõ nét hơn.
Chỉ có ngành nông, lâm, thủy sản tăng trưởng cao hơn chút ít so với mục tiêu với tăng trưởng bình quân từ năm 2007 đến 2011 là 3,4%/năm, vượt chỉ tiêu kế hoạch năm năm, nhưng thấp hơn năm năm trước 0,6% và tăng trưởng của ngành từ 1992 đến nay giảm dần.
Bảng: Tỷ trọng GDP phân theo ngành kinh tế (giai đoạn 2006-2010).
(Đơn vị:%)
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Nông nghiệp 20.4 20.34 22.21 20.91 20.58
Công nghiệp 41.54 41.48 39.84 40.24 41,64
Dịch vụ 38.06 38.18 37.95 38.85 37,78
Nguồn:NGTK
Mặc dù tốc độ tăng GDP trong nông nghiệp vượt kế hoạch, tuy nhiên tốc độ tăng đó trong giai đoạn 2006-2010 đạt 3,3%, thấp hơn 0,53% so với giai đoạn 2001-2005
Công nghiệp - xây dựng là lĩnh vực có ảnh hưởng lớn nhất đến tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế (chiếm tỉ trọng 40%), thế nhưng ngành này đã sụt giảm mạnh so với thời kì trước WTO, giai đoạn 2007 - 2011 tăng trưởng bình quân hằng năm 7,0%, thấp hơn nhiều so với mức 10,2%/năm giai đoạn trước. Các mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, như đưa nông lâm thủy sản chiếm 15, 16% GDP, công nghiệp - xây dựng lên 43 đến 44% GDP, dịch vụ 40 đến 41% GDP vào năm 2010 đều không thực hiện được.
Tăng trưởng kinh tế 6 năm sau WTO không chỉ kém 5 năm trước về tốc độ, mà chất lượng cũng giảm sút. Đặc biệt trong giai đoạn 2007-2010, hiệu quả kinh tế còn suy giảm mạnh
2.2. Tăng tỷ lệ làm phát
Trong giai đoạn 2005-2011,lạm phát đang trở thành vấn đề đề nan giải đối với Việt Nam, năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, thì năm 2006 chỉ tăng 6,6%; năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, năm 2009 chỉ tăng 6,52%; đến năm 2010 tăng 11,75%; năm 2011, tỷ lệ lạm phát 18,13%.

Vậy đâu là nguyên nhân sâu xa của tình trạng lạm phát tại Việt Nam trong những năm qua, trước hết chúng ta có thể thấy rằng lạm phát tại Việt Nam trong năm 2011 chỉ là hậu quả từ những bất ổn nội tại nền kinh tế trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn 2007 – 2010 và là hệ quả tất yếu của việc mất cân đối trong nền kinh tế vĩ mô

2.3. Nền kinh tế dễ bị tổn thương
Hậu WTO, cán cân thanh toán quốc tế có những diễn biến phức tạp, với quy mô
lớn hơn trong giai đoạn trước đó. Còn trong hệ thống ngân hàng, việc hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng hơn trong giai đoạn 2007- 2011 cũng làm rủi ro tài chính tăng lên đáng
kể. Áp lực tái cơ cấu hệ thống ngân hàng càng trở nên nghiêm trọng khiến Chính phủ
phải tái cơ cấu hệ thống này từ cuối năm 2011, mở đầu bằng việc sáp nhập 3 ngân hàng
SCB, Đệ nhất và Tín Nghĩa. Việt Nam trở thành nền kinh tế dễ tổn thương nhất trước các
cú sốc so với các nước Đông Á khác, cả cú sốc từ bên ngoài lẫn từ trong bên trong.
Đến 2013 - 7 năm sau gia nhập WTO, tình hình kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt
với nhiều áp lực, từ nợ xấu đến lạm phát., lạm phát năm 2013 khó giữ ở mức 6%. Tín
dụng tăng trưởng thấp nhưng cung tiền (tổng tiền gửi và tiền lưu thông trong nền kinh tế)
vẫn đang tăng rất cao, năm 2012 tăng 22% và 3 tháng đầu năm 2013 vẫn tăng 3,5%.
II. Những yếu kém còn tồn tại sau khi gia nhập WTO
Bên cạnh những thành công, thời gian 5 năm tham gia WTO cũng đặt ra nhiều vấn
đề đòi hỏi phải được quan tâm giải quyết. Trong đó có 3 vấn đề lớn mà Việt Nam chưa
chuẩn bị tốt đó là thể chế, nguồn lực và hạ tầng.
1. Thể chế
Bên cạnh những thành công, thời gian 5 năm tham gia WTO cũng đặt ra nhiều vấn
đề đòi hỏi phải được quan tâm giải quyết. Trong đó có 3 vấn đề lớn mà Việt Nam chưa
chuẩn bị tốt đó là thể chế, nguồn lực và hạ tầng.
Việc cải cách thể chế của Việt Nam theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư
vẫn chưa được thúc đẩy hiệu quả, thể hiện ở chỗ thiếu tính hệ thống, thiếu minh bạch và
thiếu ổn định. Chất lượng khung pháp lý và quy định ở Việt Nam còn thấp, dẫn tới các
cách hiểu và áp dụng khác nhau.
Rất nhiều doanh gia Việt Nam không am tường luật lệ và thủ tục (mới) của WTO.
Những luật lệ và thủ tục hiện hành của WTO còn thay đổi nhiều. Trong bước đầu hội
nhập WTO, giới kinh doanh Việt Nam gặp phải những cạnh tranh rất gay gắt vì giới quản
lý cũng như nhân viên phải cấp kỳ lãnh hội cách làm ăn mới để thích hợp với thương

trường WTO. Nhiều nguy cơ thua đậm trong những vụ tranh chấp pháp lý.
Sự thay đổi trong luật lệ kinh doanh là thử thách lớn cho khu vực dịch vụ Việt
Nam, không có vốn, không có công nghệ, và cũng chẳng có kinh nghiệm so với các đối
thủ quốc tế. Hệ thống phân phối hàng hóa trong nội địa của Việt Nam sẽ gặp phải những
cạnh tranh mãnh liệt của những công ty nước ngoài.
2. Nguồn lực
Bên cạnh đó, nguồn lực đã yếu lại đang bị lãng phí lớn, nhất là trong các lĩnh vực
tài chính ngân hàng, đầu tư công và DN Nhà nước. Hạ tầng thuộc mọi lĩnh vực đều kém
phát triển.
Các nhà máy Việt Nam có chất lượng thấp, kỹ thuật lạc hậu, giá thành cao, hệ
thống phân phối kém, thiếu hiểu biết về hệ thống pháp luật. Khi trở thành thành viên
WTO, ngay lúc đầu giới kinh doanh Việt Nam sẽ mất thị trường và phải bước vào đoạn
điều chỉnh cấp thời.
Việc áp dụng công nghệ mới cần phải thay đổi hơn rất nhiều máy móc hiện tại để
đồng bộ, và vì vậy nhu cầu vốn là rất lớn trong khi các DN lại gặp khó khăn về vốn kinh
doanh.
Với các yếu kém này dẫn đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá nước ta ở cả 3 cấp
quốc gia, ngành hàng, doanh nghiệp còn kém, thể hiện là giá thành còn cao, phẩm cấp
thấp so với chuẩn quốc tế, chất lượng phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Đội ngũ cán bộ quản
lý vĩ mô, quản trị sản xuất kinh doanh và thực hành trong nhiều lĩnh vực, nhiều địa
phương còn bất cập so với yêu cầu trình độ khu vực và quốc tế. Trước tình huống phải
thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong nước, việc thua trên sân nhà là khó tránh.
3. Hạ tầng
Các công ty nhà nước vẫn giữ vai trò thống lĩnh trong khu vực cơ sở hạ tầng. Đặc
biệt trong các lĩnh vực cơ bản, như điện lực, Điện lực Việt Nam (EVN) vẫn giữ vai trò
thống trị, phần nào gây ra những cản trở cho việc đầu tư trong lĩnh vực này.
Các nước vẫn chưa công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường thật sự, ít
nhất là mãi cho đến năm 2018.
Việt Nam vẫn còn là một nước nhập siêu, hàng năm Việt Nam cần phải nhập
khoảng 2 triệu tấn thép thanh, chiếm hơn 80% nhu cầu hàng năm của quốc gia.

Xét về một số chỉ số tài chính, Việt Nam vẫn là một môi trường đầu tư khá liều lĩnh
cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng và cho sự vận hành tài chính của dự án.
Một điểm yếu khác là khả năng tự vệ thương mại của Việt Nam còn yếu kém. Việt
Nam nhập siêu nhiều mà chưa có khả năng kiểm soát và hạn chế. Việc xây dựng hàng rào
kỹ thuật để quản lý nhập khẩu chặt chẽ, không trái với định ước quốc tế là điều chúng ta
chưa làm được.
Tất cả những xí nghiệp nội địa phải cạnh tranh ở mức cao hơn. Các xí nghiệp này
phải tự chỉnh đốn để sản xuất hàng chất lượng và có dịch vụ tốt hơn, hay phá sản. Những
khu vực yếu kém trong cạnh tranh như dịch vụ, sản xuất sắt thép, lắp ráp xe hơi và nông
nghiệp sẽ bị đe dọa trầm trọng.
Khu vực trước đây thuộc độc quyền kinh doanh của nhà nước như điện lực, viễn
thông, sẽ bị áp lực nặng nề để mở cửa cho tư doanh. Nhiều công ty Việt Nam có khả
năng bị công ty ngoại quốc nuốt chửng.
III. Giải pháp
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, nhằm hình thành nhanh
và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các
cam kết. Trước hết tập trung vào soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực thi các luật mới
ban hành, bảo đảm cụ thể, công khai, minh bạch phù hợp với nội dung của luật;
Xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị
trường cho mọi loại hàng hoá và dịch vụ. Đối với những mặt hàng hiện còn áp dụng cơ
chế nhà nước định giá, phải xác định lộ trình thực hiện nhanh giá thị trường để các doanh
nghiệp tính toán lại phương án sản xuất kinh doanh;
Xây dựng các biện pháp hỗ trợ đối với một số lĩnh vực, sản phẩm đi đôi với việc
loại bỏ các hình thức trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp gắn với tỷ lệ nội địa hoá phù hợp với
các cam kết của ta trong Tổ chức thương mại thế giới;
Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp
để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu
chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm phù hợp với Hiệp định TBT và SPS để bảo vệ thị
trường nội địa và người tiêu dùng;

Kết hợp chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ, sử dụng linh hoạt các công cụ
lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ giá để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nâng cao chất lượng
của công tác thông tin, dự báo về thị trường, giá cả, quan hệ cung cầu để xác định các cân
đối lớn.
Đẩy mạnh cải cách tiền lương, chế độ bảo hiểm; sớm nghiên cứu hình thành quỹ
bảo hiểm thất nghiệp, và các chính sách an sinh xã hội
2. Thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính
Bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không thực sự cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành
lập doanh nghiệp và tham gia thị trường, đưa nhanh hàng hoá và dịch vụ vào kinh doanh.
Việc quản lý xuất nhập khẩu các mặt hàng quản lý chuyên ngành chỉ căn cứ vào tiêu
chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, điều kiện hành nghề, không dùng giấy phép
làm công cụ để hạn chế thương mại.
Công bố công khai quy trình tác nghiệp, thời gian giải quyết công việc, người chịu
trách nhiệm ở tất cả các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước và các đơn vị cung ứng dịch vụ
công để mọi công dân, mọi doanh nghiệp biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện. Công
khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý là một trong những tiêu chí của xã hội
"công bằng, dân chủ, văn minh" và là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Điều này không những là tiền đề của chống tham nhũng mà còn là điều kiện để tạo
ra thị trường cạnh tranh, giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp và công dân, là điều
kiện bảo đảm hiệu quả của tăng trưởng. Phải làm việc này một cách đồng bộ và kiên
quyết. Loại bỏ khỏi bộ máy nhà nước những công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân
dân và doanh nghiệp, những người thiếu trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ.
3. Sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước theo yêu cầu quản lý đa ngành, đa lĩnh
vực
Làm việc này không phải là để tinh gọn tổ chức một cách giản đơn. Làm việc này
là tạo ra tiền đề tổ chức để bảo đảm sự đồng bộ, tầm nhìn liên ngành, khắc phục sự chồng
chéo, kém hiệu quả trong việc xây dựng và thực thi các thiết chế quản lý.
Trên cơ sở sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước và cải cách thủ tục hành
chính để xây dựng lại hệ thống phân cấp theo những tiêu chí khoa học, bảo đảm tính
tương thích, sự đồng bộ và tính mục tiêu trong các lĩnh vực đã phân cấp. Quan điểm nhất

quán ở đây là: bảo đảm tính thống nhất quản lý và mục tiêu phát triển, phân cấp mạnh
cho địa phương và cơ sở. Vấn đề sẽ được giải quyết ở cấp nào mà ở đó có đầy đủ thông
tin và khả năng thực hiện công việc tốt nhất. Gắn phân cấp với kiểm tra, giám sát.
4. Đổi mới để phát triển mạnh nguồn nhân lực
Chúng ta thường nói và người nước ngoài cũng nói: nước ta có nguồn nhân lực dồi
dào, lao động trẻ chiếm 70% lực lượng lao động. Người Việt Nam cần cù, chịu khó học
tập, nhận thức nhanh. Đây là một lợi thế cạnh tranh. Điều đó đúng nhưng chưa phản ánh
đầy đủ thực trạng nguồn nhân lực nước ta.
Hiện tại, chúng ta chỉ có lợi thế cạnh tranh thực tế trong những ngành nghề đòi hỏi
sử dụng nhiều lao động với kỹ năng trung bình và thấp. Những lĩnh vực có giá trị gia tăng
lớn, đòi hỏi trình độ cao, chúng ta đang rất thiếu và do đó làm hạn chế khả năng thu hút
đầu tư vào những lĩnh vực này như cơ khí chế tạo, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao,
tư vấn thiết kế, tạo mẫu và trong các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao Hạn chế này
là do những yếu kém, bất cập trong hệ thống giáo dục của ta, cần phải nhanh chóng tìm
ra các giải pháp để khắc phục.
Hướng chính ở đây là:
Chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ thuật - công
nghệ và dạy nghề để huy động các nguồn lực nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đào
tạo gắn liền với việc thực hiện đầy đủ cơ chế thị trường trong việc trả lương cho người
lao động.
Từ quan điểm hệ thống và bảo đảm tính liên thông trong hệ thống giáo dục - đào
tạo từ phổ thông - đại học và dạy nghề, giải quyết trước việc cải cách giáo dục đại học và
dạy nghề
Khẩn trương xây dựng chiến lược cải cách giáo dục từ nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy, chế độ thi cử ở tất cả các cấp đào tạo.
5. Tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng
Phát triển cơ sở hạ tầng là yêu cầu bức xúc của các địa phương, các vùng kinh tế.
Khi nhu cầu lớn, nguồn lực có hạn, để thoả mãn được nhiều đối tượng dễ dẫn đến cách
phân bổ phân tán, dàn trải. Kết quả là thời gian thi công kéo dài, nợ đọng lớn, không ít
công trình hiệu suất sử dụng thấp, hiệu quả không cao xét trên yêu cầu phát triển tổng thể

của nền kinh tế. Phải kiên quyết khắc phục tình trạng này.
Nguyên tắc chỉ đạo ở đây là cái mà chúng ta lựa chọn và quyết định là cái tốt nhất
có thể chứ chưa phải là cái mà chúng ta mong muốn. Cái tốt nhất có thể là cái mà nếu
được lựa chọn sẽ có hiệu suất sử dụng cao nhất. Trong phát triển cơ sở hạ tầng (các tuyến
đường, bến cảng) đó là những vùng đã và sẽ có trong tương lai gần dung lượng lưu thông
hàng hoá lớn, từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ yêu cầu
này mà xử lý mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng về vốn. Điều chỉnh lại việc phân cấp
đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung cao hơn. Người có quyền ra quyết định đầu tư
phải kiên quyết thực hiện bằng được yêu cầu này.
Huy động mọi nguồn lực kể cả các nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào
việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng.
6. Phát triển các loại hình dịch vụ
Lĩnh vực dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nền kinh tế.
Các nước công nghiệp phát triển trình độ cao, dịch vụ chiếm từ 60 - 70%. Quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá và sự phân công lao động gắn với công nghiệp hoá, hiện đại
hoá vừa đặt ra nhu cầu vừa tạo khả năng phát triển dịch vụ. Ngược lại sự phát triển dịch
vụ sẽ làm giảm chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, phải hết sức coi
trọng phát triển tất cả các ngành dịch vụ.
Tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao: dịch vụ tài
chính, ngân hàng với nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ du lịch, các
loại dịch vụ tư vấn để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân lập doanh nghiệp, lựa chọn phương án
kinh doanh, các dịch vụ nghề nghiệp như kế toán, kiểm toán để đánh giá chính xác hiệu
quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm công khai, minh bạch về tình trạng tài chính của
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán. Nhanh chóng xây
dựng hệ thống mã số các loại dịch vụ theo phân loại của Tổ chức thương mại thế giới.
Trên cơ sở đó, có định hướng đúng đắn chiến lược phát triển dịch vụ.
7. Phát triển những lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng mở rộng
thị trường.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, thế giới đã diễn ra hai mô hình công
nghiệp hoá. Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đi liền với chế độ bảo hộ mậu dịch. Mô

hình này khá phổ biến và đã thành công trước những năm 80. Khi chế độ bảo hộ mậu
dịch giảm dần, sự phân công lao động quốc tế sâu rộng hơn, các nước chuyển sang mô
hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu trên cơ sở lợi thế so sánh. Từ nửa sau thập kỷ
90 của thế kỷ trước, toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu thế. Hàng rào bảo hộ bị cắt giảm
thông qua việc ký kết các hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực và việc hình
thành Tổ chức thương mại thế giới, ranh giới kinh tế giữa các quốc gia bị giảm thiểu; sự
phát triển của vận tải đa phương thức và dịch vụ logistic đã làm chi phí lưu chuyển hàng
hoá giữa các quốc gia giảm mạnh, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài gần
như thông nhau.
Cái gọi là công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu không còn nguyên nghĩa như khái niệm ban đầu của nó. Một sản phẩm cạnh tranh
được trên thị trường trong nước cũng có khả năng cạnh tranh trên thị trường nước ngoài
và ngược lại.
Đi đôi với việc phát triển một số ngành, sản phẩm theo các tiêu chí nêu trên cần
hết sức coi trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp nền tảng cho
công nghiệp hoá.
8. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
Như trên đã nói, chủ thể của tiến trình hội nhập và cạnh tranh là nhà nước và
doanh nghiệp. Trong đó doanh nghiệp trực tiếp cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài
trên thị trường trong và ngoài nước. Có thể thấy rõ 4 điểm yếu của doanh nghiệp nước ta:
số lượng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất kinh doanh nhìn
chung lạc hậu; khả năng quản trị doanh nghiệp còn yếu kém. Những hạn chế này có
nguyên nhân khách quan của một nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp, đang trong
quá trình chuyển đổi. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải nhận thức được các hạn
chế yếu kém đó, có kế hoạch để khắc phục các yếu kém đó.
Muốn vậy, các doanh nghiệp phải xác định được chiến lược mặt hàng và chiến
lược thị trường đúng đắn. Trên cơ sở lựa chọn đúng chiến lược thị trường, chiến lược mặt
hàng mà đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý; áp dụng các tiêu chuẩn ISO,
hoàn thiện phương thức kinh doanh; tạo ra bản sắc riêng có, những nét độc đáo riêng có
của doanh nghiệp mình thông qua đó mà thu hút khách hàng, phát triển thị trường, xây

dựng thương hiệu. Phải tăng cường liên kết hợp tác theo chiều dọc và chiều ngang; xác
lập quan hệ bạn hàng và nhanh chóng hình thành hệ thống phân phối. Cần nhận thức rằng
cạnh tranh và hợp tác luôn song hành trong hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị
trưởng
Phần 3: Kết luận
Cách đây 6 năm - ngày 1-1-2007, Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đó là thành công lớn sau hơn 11 năm kiên trì
trên hành trình này, dấu mốc quan trọng nhất trong lộ trình hội nhập quốc tế.
7 năm qua, dù tình hình biến động phức tạp khó lường, đặc biệt là hứng chịu cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế vĩ mô Việt Nam cơ bản ổn
định, duy trì tốc độ tăng trưởng, tiềm lực và quy mô kinh tế tăng lên. Việt Nam đã ra khỏi
tình trạng nước kém phát triển.
Thành quả do việc gia nhập WTO chưa được như mong muốn. Nguyên nhân sâu
xa là cơ thể kinh tế nước ta vẫn còn yếu kém, chưa thể hấp thụ, chuyển hoá những cơ
may thành hiện thực, trong khi đó chưa đào thải hết khó khăn do hội nhập mang vào.
Thời gian tới, Việt Nam sẽ thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2011 - 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, với mục tiêu thực
hiện những đột phá về cải cách thể chế; tăng cường tính công khai, minh bạch của hệ
thống pháp luật, chính sách, quy hoạch, chiến lược phát triển; phát triển kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, cũng như đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế.
Đồng thời, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ hơn các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế trong khuôn khổ WTO, khu vực và song phương. Một số các cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế mới quan trọng như Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu,
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương cũng sẽ được đàm phán, kí kết và thực thi, với
phạm vi rộng hơn và mức độ cam kết mở cửa cao hơn.

×