Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

ảnh hưởng của các loại thức ăn đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng (litopenaeus vannamei) nuôi tại huyện phong điền tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 48 trang )

Luận Văn
Ảnh hưởng của các
loại thức ăn đến khả
năng sinh trưởng và
phát triển của tôm
chân trắng
(Litopenaeus
vannamei) nuôi tại
huyện Phong Điền
tỉnh Thừa Thiên Huế
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, song song với việc phát triển các ngành kinh tế
khác, nghề nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần nâng
cao đời sống và tạo việc làm cho người dân lao động. Trong đó tôm là mặt
hàng xuất khẩu quan trọng, được ưa chuộng trên thế giới.
Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) là đối tượng nhập nội, có nguồn
gốc từ châu Mỹ. Tôm chân trắng là đối tượng mới có triển vọng phát triển rộng
rãi ở nhiều nước châu Á. Ưu điểm của nó là thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng,
mau lớn, thích nghi được với biên độ nhiệt độ nước và độ mặn rộng.[4]. Trong
thời gian qua, Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản III đã nghiên cứu sản xuất
giống và nuôi khảo nghiệm tôm chân trắng, nhìn chung quản lý và phát triển
đúng hướng, cơ bản đảm bảo an toàn sinh học, trình độ kỹ thuật nhiều nơi được
cải thiện đã mở đường cho sự phát triển của tôm chân trắng.
Tôm chân trắng là loài có thể nuôi với mật độ cao, điều này đòi hỏi
người nuôi phải đầu tư đồng bộ về nhân lực cũng như khoa học kỹ thuật. Để
nâng cao năng suất và lợi nhuận, cần phải lựa chọn nguồn giống sạch bệnh,
chế độ chăm sóc quản lý chặt chẽ, kiểm soát tốt các yếu tố môi truờng và
quan trọng là phải sử dụng loại thức ăn phù hợp nhất.


Chi phí thức ăn trong quá trình nuôi tôm chiếm khoảng 40 – 70 % chi phí
của vụ nuôi. Tuy nhiên trong nuôi tôm, chi phí cho một kg thức ăn chưa quan
trọng mà vấn đề người nuôi tôm cần quan tâm nhất đó là chi phí cho một kg tôm
tăng trọng là bao nhiêu? Vì vậy ngoài việc sử dụng loại thức ăn nào có chất
lượng tốt để cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho tôm, giúp tôm tăng trưởng
nhanh, có sức khỏe tốt mà còn giảm được hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) đến mức
thấp nhất để góp phần hạ giá thành sản phẩm. Hiện nay ở thị trường Thừa Thiên
Huế có nhiều loại thức ăn của nhiều công ty trong và ngoài nước với chất lượng
và giá cả khác nhau. Do vậy nghiên cứu để tìm ra loại thức ăn phù hợp là một
trong những khâu quyết định đến hiệu quả kinh tế cả vụ nuôi.
2
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn kết hợp với nguyện vọng của bản thân.
Được sự đồng ý của trường Đại học Nông lâm Huế, khoa Thủy Sản và giáo
viên hướng dẫn, tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến khả
năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng (Litopenaeus
vannamei) nuôi tại huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế”
Mục tiêu của đề tài:
- Đánh giá ảnh hưởng của các loại thức ăn thí nghiệm đến khả năng
sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng. Trên cơ sở đó khuyến cáo với
người nuôi loại thức ăn tôm chân trắng mang lại hiệu quả kinh tế cao trong
nuôi tôm thâm canh
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Đặc điểm sinh học tôm chân trắng
2.1.1 Hệ thống phân loại
Tôm chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg shrimp) được định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda

Họ: Penaeidea
Giống: Litopenaeus
Loài: Litopenaeus vannamei, Boone 1931.
2.1.2 Đặc điểm phân bố và nguồn gốc.
Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích
đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh), phân bố chủ yếu ở
ven biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến miền trung
Pêru, nhiều nhất ở biển gần Ecuador . Hiện nay tôm thẻ chân trắng đã có mặt
hầu hết ở các khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung Quốc và các
nước ven biển thuộc khu vực Đông Nam Á[4].
2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng
Cũng như các loài tôm he khác, tôm chân trắng phát triển qua 4 giai đoạn
ấu trùng chính là Nauplius, Zoea, Mysis, Postlarvae
Giai đoạn Nauplius: Nauplius không cử động được trong khoảng 30
phút, sau đó bắt đầu bơi và rất dễ bị lôi cuốn bởi ánh sáng. Nauplius thay vỏ
cả thảy 4 lần ( N
1
đến N
5
) mỗi lần kéo dài 7 giờ ( theo các nhà sinh học Đài
Loan thì có đến 6 giai đoạn ). Trong thời kỳ này ấu trùng cứ bơi một đoạn
rất ngắn rồi lại nghỉ và lại tiếp tục bơi. Không cần cho Nauplius ăn, chúng tự
nuôi sống bằng noãn hoàng có sẵn.
Giai đoạn Zoea: sau N
5
ấu trùng chuyển sang giai đoạn Zoea, giai đoạn này
ấu trùng bơi liên tục, bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài, chủ yếu là thực vật phù
du. Zoea thay vỏ hai lần từ Z
1
tới Z

3
trong 5 ngày, mỗi lần kéo dài 36 giờ
4
Giai đoạn Mysis: thời kỳ này ấu trùng qua 3 giai đoạn (M
1
, M
2
, M
3
). Mỗi
giai đoạn kéo dài 24 giờ. Mysis ăn cả thực vật phù du lẫn động vật phù du.
Trong khi Nauplius có khuynh hướng bơi gần mặt nước thì Mysis bơi hướng
xuống sâu và bơi ngược, đuôi đi trước, đầu đi sau.
Giai đoạn Postlarvae: sau thời kỳ này thì tôm con đã có đủ các bộ phận,
chúng dần dần hướng ra biển, rời xa các cửa sông và trở thành Juvenile. Từ
đây tôm trưởng thành
Tôm nhỏ thay vỏ cần vài giờ, tôm lớn cần 1 - 2 ngày. Tốc độ lớn thời
gian đầu 3g/tuần lễ (mật độ nuôi 100 con/m
2
), tới cỡ 30g tôm lớn chậm dần
(1g/tuần lễ). Tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực. [4]
2.1.4. Tập tính sống
Tôm chân trắng sống ở vùng biển tự nhiên có các đặc điểm: đáy cát,
độ sâu 0 - 72m; nhiệt độ nước ổn định từ 25 - 32
0
C , độ mặn từ 28 - 34
0
/
00
,

pH 7,7 - 8,3
Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển gần bờ, tôm con ưa sống ở
các khu vực cửa sông giàu sinh vật thức ăn. Ban ngày tôm vùi mình trong
bùn, ban đêm mới bò đi kiếm ăn. Tôm chân trắng có sự thích nghi rất mạnh
đối với sự thay đổi đột ngột của môi truờng sống. [4]
2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng
Tôm chân trắng là loài tôm ăn tạp. Giống như các loài tôm he khác, thức
ăn của nó cũng cần thành phần: protid, lipid, vitamin và muối khoáng thiếu
hay không cân đối đều ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ lớn của tôm. Khả
năng tiêu tốn thức ăn của tôm chân trắng rất cao, trong điều kiện nuôi lớn
bình thường, lượng cho ăn chỉ cần bằng 5% thể trọng tôm (thức ăn uớt).
Trong thời kỳ tôm sinh sản đặc biệt là giữa và cuối giai đoạn phát dục của
buồng trứng thì nhu cầu về lượng thức ăn hằng ngày tăng lên gấp 3 - 5 lần.
Thức ăn cần hàm lượng protein 35% là thích hợp, (tôm sú cần 40%, tôm
he Nhật Bản cần 60% protein). [4]
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những vùng
biển có độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26-28
o
C, độ mặn khá cao (35‰). Trứng nở
ra ấu trùng và vẫn sinh sống ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn Postlarvae,
5
chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Nơi đây
điều kiện môi trường rất khác biệt: thức ăn nhiều hơn, độ mặn thấp hơn, nhiệt
độ cao hơn Sau một vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng bơi ngược ra
biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm trọn chu kỳ.
* Cơ quan sinh dục.
Tôm chân trắng Litopenaeus vannmei trưởng thành phân biệt rõ đực cái
thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài.
Con đực: Giữa đôi mái chèo thứ nhất có một cơ quan gọi là petasmata.

Trong khi giao hợp petasmata sẽ chuyển tinh trùng sang thelycum của con cái.
Con cái: Con cái có một cơ quan gọi là thelycum để tiếp nhận tinh
trùng của con đực. Thelycum nằm ở phía bụng của phần ức, giữa cặp chân
đi thứ 4 và thứ 5.
Tôm chân trắng có thelycum mở khác với loại hình túi chứa tinh kín như
ở tôm sú và tôm he Nhật Bản. Trình tự của sinh sản mở là: (tôm mẹ) lột vỏ→
thành thục→ giao phối→ đẻ trứng→ ấp nở. Tôm cái sau khi thành thục sẽ đẻ
trứng trực tiếp vào trong môi trường nước, trong điều kiện nhiệt độ và độ mặn
thích hợp trứng sẽ nở thành ấu trùng.[13], [4]
2.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến khả
năng sinh trưởng và phát triển tôm chân trắng
2.2.1. Nhiệt độ
Tôm cũng như hầu hết các loài động vật sống dưới nước thuộc loại máu
lạnh, nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt độ môi trường, vì vậy nhiệt độ là yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của tôm. Nhiệt độ
ảnh hưởng tới nhiều phương diện trong đời sống của tôm: hô hấp, tiêu thụ
thức ăn, đồng hoá thức ăn, miễn nhiễm đối với bệnh tật, sự tăng trưởng [13]
Nhiệt độ thường thay đổi theo mùa, ngày đêm và mỗi vùng miền khác
nhau. Thông thường nhiệt độ nước trong ngày thấp nhất vào lúc 2 đến 5 giờ
sáng, cao nhất vào buổi chiều lúc 14 giờ đến 16 giờ chiều. Tôm có thể chịu
đựng sự thay đổi nhiệt độ 0,2
o
C/phút, nhưng khi nhiệt độ thay đổi đột ngột 3 –
4
o
C hoặc vượt quá sẽ gây sốc thậm chí còn gây chết. Nhiệt độ thích hợp cho
tôm loại Penaeus spp tại các ao hồ nhiệt đới khoảng 28 – 30
o
C. Các thí
nghiệm ở Hawaii cho thấy tôm chân trắng sẽ chết nếu nhiệt độ môi trường

6
nước thấp hơn 15
o
C, cao hơn 33
o
C trong 24 giờ hoặc lâu hơn nữa, tôm sẽ ngạt
nếu nhiệt độ khoảng 15 – 22
o
C và 30 – 33
o
C. Với tôm chân trắng nhiệt độ
chấp nhận được là 23 – 30
o
C, trong khoảng nhiệt độ này độ lớn của tôm cũng
tuỳ giai đoạn tăng trưởng của tôm. Thí nghiệm cho biết, lúc còn nhỏ (1gr) tôm
lớn nhanh hơn ở 30
o
C, khi tôm lớn hơn(12 – 18gr) tôm lại lớn nhanh nhất ở
nhiệt độ 27
o
C thay vì 30
o
C như lúc còn nhỏ. Khi tôm lớn hơn nữa mà nhiệt độ
lại cao hơn 27
o
C thì môi trưòng nước này hoàn toàn bất lợi cho sự tăng
trưởng[14][13].
2.2.2. Độ mặn
Đây là yếu tố mà chúng ta có thể điều chỉnh được nếu có nguồn nước
ngọt và nước mặn dự trữ. Độ mặn có thể nuôi tôm chân trắng từ 10 – 30 ppt,

tuy nhiên nếu độ mặn cao quá hoặc thấp quá cũng không tốt, nếu độ mặn cao
(>30ppt) thì tôm rất chậm lớn, vì độ mặn cao hàm lượng các khoáng cũng rất
cao, do đó sẽ làm cho quá trình lột xác của tôm gặp nhiều khó khăn, nếu tôm
đã tới chu kỳ lột xác mà không lột được thì sẽ không phát triển và chậm lớn.
Hơn nữa nước mặn là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các bệnh do
vi khuẩn vibrio gây ra, đặc biệt là bệnh phát sáng. Độ mặn tốt nhất cho sự
phát triển của tôm chân trắng từ 10 – 25 ppt
Nếu độ mặn thấp (< 10 ppt) cũng không tốt, dễ phát sinh bệnh, vì trong
nước ngọt thiếu các khoáng (Na, Ca, Cl, Fe, Cu, P, Mn…). Đây là những
khoáng chất cần thiết cho sự tạo vỏ của tôm, nếu thiếu chúng tôm sẽ không
tạo được vỏ.[7]
2.2.3. pH
pH của nước ao rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến
tôm nuôi và phiêu sinh vật. pH là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá chất lượng nuớc ao nuôi. Khi pH biến động thì sẽ ảnh hưởng tới các
quá trình sinh lý, sinh hoá trong cơ thể tôm, làm ảnh hưởng các yếu tố khác
trong ao như tảo, khí độc…pH phù hợp cho ao nuôi là 7.5 – 8.5, khoảng dao
động trong một ngày không được quá 0.5. [7]
Một vài chức năng của cơ thể tôm có thể bị ảnh hưởng trực tiếp do pH
quá cao hay quá thấp hay do sự biến động của nó, và như vậy, dĩ nhiên sẽ có
7
hại đến tôm. pH thấp thường làm tổn thương phụ bộ và mang cũng như gây
trở ngại cho việc lôt xác và làm cho tôm bị mềm vỏ
NH
3
và H
2
S là hai loại khí độc hoà tan trong nước. Các loại khí độc này
hiện diện trong ao dưới hai dạng: dạng khí có tính độc cao và dang ion thì ít
độc hơn. Tỷ lệ giữa dạng khí và dạng ion bị ảnh hưởng bởi độ pH. Khi pH

cao, NH
3
dạng khí sẽ nhiều và ít H
2
S hơn. Khi pH thấp thì H
2
S dạng khí nhiều
và ít NH
3
dạng khí.[5]
2.2.4. Độ kiềm
Độ kiềm là số đo tổng của carbonate và bicarbonate. Chúng có tác dụng
quan trọng trong nước thông qua khả năng làm giảm sự biến động của pH,
hạn chế các chất độc có sẵn trong ao nhằm không gây sốc cho tôm. Độ kiềm
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lột xác của tôm, độ kiềm cao làm cho tôm
khó lột xác nhưng nếu độ kiềm nước ao thấp làm cho tôm khó cứng vỏ mỗi
khi lột xác. Trong nuôi tôm chân trắng, độ kiềm rất quan trọng vì chu kỳ lột
xác của chúng rất ngắn và thường xuyên, sau mỗi lần lột xác chúng sẽ hấp thụ
một lượng lớn độ kiềm trong nước để sử dụng trong việc kiến tạo vỏ mới, do
đó việc kiểm tra độ kiềm thường xuyên trong ao là rất cần thiết nhất là khi
tôm lớn. Độ kiềm thích hợp trong ao nuôi tôm từ 80 – 130 mg/l. [7], [14]
2.2.5. Oxy hòa tan (DO)
Hàm lượng oxy thích hợp là rất cần thiết cho một ao nuôi tốt ở cả hai hệ
thống nuôi năng suất thấp và cao. Tác hại do hàm lượng oxy thấp tuỳ thuộc
vào hàm lượng oxy có trong ao, thời gian và số lần tôm phải chịu đựng tình
trạng đó. Ở nồng độ oxy nhỏ hơn 4mg/l tôm vẫn bắt mồi bình thường nhưng
chúng tiêu hóa thức ăn không hiệu quả. Hàm lượng oxy thấp như thế có thể
ảnh hưởng đến tôm và dẫn đến tăng tính cảm nhiễm bệnh. Tỷ lệ chuyển hoá
thức ăn giảm và khả năng cảm nhiễm bệnh tăng sẽ làm giảm lợi nhuận. Nếu
hàm lượng oxy giảm thấp hơn nữa (2 – 3 mg/l) thì tôm sẽ ngừng bắt mồi và

yếu đi nhiều. Hàm lượng oxy thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển là
lớn hơn 5mg/l. [5], [14]
2.2.6. Độ trong
Độ trong của nước ở các ao nuôi chủ yếu phụ thuộc vào số lượng và đặc
tính khối chất cái bao gồm các sinh vật sống trong tầng nước và thể vẩn lơ
8
lửng. Giới hạn cho phép về độ trong từ 25 – 50 cm, nó thay đổi theo tuổi tôm,
khi mới thả tôm vào thì yêu cầu độ trong cao 40 – 50 cm, nhưng khi tôm lớn
độ trong sẽ thấp 25 – 30 cm. Độ trong quá lớn sẽ lập tức ảnh hưởng tới tôm,
khi đó tôm rất dễ bị sốc, tôm chậm lớn, phân đàn, ít ăn và dễ nhiễm bệnh,
đồng thời đáy ao dễ sinh lab lab. Nếu độ trong quá thấp (nước có màu đậm)
thì rất dễ ảnh hưởng đến hoạt động hô hấp của tôm nhất là vào ban đêm,
nguyên nhân chính là do tảo về ban ngày sẽ quang hợp nhưng về ban đêm
chúng sẽ hô hấp và làm giảm oxy trong nước. Độ trong thấp thì mang tôm rất
dễ bị tổn thương (đen mang, vàng mang) hay nhớt thân. Màu tảo đậm là
nguyên nhân làm dao động pH giữa ngày và đêm rất lớn. [7]
2.2.7. Các khí hoà tan
2.2.7.1. CO
2
Khí CO
2
đóng vai trò quan trọng trong đời sống của vùng nước. CO
2

bộ phận cơ bản tham gia vào sự tạo thành chất hữu cơ trong quá trình quang
hợp. Nếu CO
2
tồn tại dưới dạng khí tự do ở nồng độ cao sẽ không có lợi cho
tôm. Do chênh lệch giữa áp suất trong nước và trong máu tôm. [14]
2.2.7.2. Hợp chất của Nitơ

Gồm 3 chất chính: amonia (NH
4
+
), nitrite (NO
2
) và nitrate (NO
3
-
).
Amonia: Trong ao hồ, amonia xuất hiện như một sản phẩm do sự biến
dưỡng của động vật trong nước cũng như từ sự phân huỷ các chất hữu cơ với
tác dụng của vi khuẩn. Trong nước amonia được phân chia làm 2 nhóm:
nhóm NH
3
(khí hoà tan) và nhóm NH
4+
(ion hoá).
Chỉ có dạng NH
3
của amonia là gây độc cho tôm, NH
3
có tính độc cao
hơn NH
4+
từ 300 đến 400 lần. Sự phân chia này chịu ảnh hưởng của pH, nhiệt
độ và độ mặn nhưng pH ảnh hưởng quan trọng hơn cả. Nếu tăng 1 đơn vị pH
thì sẽ tăng 10 lần tỷ lệ của NH
3
. Độ độc của amonia gây ra không đáng ngại
lắm trong ao tôm vì thực vật phiêu sinh (phytoplankton) sẽ giữ cho độ độc

này ở mức thấp, tuy nhiên nếu ao hồ có mật độ cao quá thì mức NH
3
vẫn có
thể xuất hiện. Mức độ NH
3
thay đổi về ban đêm đáp ứng sự thay đổi của pH
và nhiệt độ. Dưới tác dụng của vi khuẩn, amonia sẽ bị biến đổi thành nitrite
(NO
2
) (bởi Nitrosomonas bacteria) rồi nitrate (NO
3
-
) (bởi Nitrobacter
bacteria)
9
Hình thức nitrate thường vô hại, nhưng trong môi trường nước mà lượng
chlorinity thấp thì nitrite sẽ gây độc cho tôm. Nitrite gây độc chính yếu là
tạo thành chất methemoglobin và giảm sự chuyển oxygen tới tế bào.[14]
2.2.7.3. Hydro sulfide (H
2
S)
Hydro sulfide là một chất khí, được tạo thành dưới điều kiện kỵ khí
(anaerobic condition). Cũng tương tự như amoni, hydro sulfide chia làm 2
nhóm: nhóm H
2
S (khí) và HS
-
(ion). Chỉ có dạng H
2
S là chất độc. pH rất có

ảnh hưởng tới độ độc của H
2
S, ví dụ: Với ao hồ có pH = 5 và ở 24
0
C người ta
thấy 99,1% Hydro sulfide dưới dạng H
2
S, trong khi đó ở độ pH=8 với cùng
nhiệt độ 24
0
C lại chỉ có 8% lượng Hydro sulfide dưới dạng chất độc. [14]
2.3. Những nghiên cứu về dinh dưỡng tôm chân trắng
2.3.1. Protein
Protein là vật chất hữu cơ quan trọng, là nguyên liệu tạo các mô và các
sản phẩm khác trong cơ thể. Protein là chất xúc tác, thực hiện chức năng vận
chuyển, bảo vệ.
Trong tình trạng suy dinh dưỡng protein đóng vai trò quyết định, nếu cơ
thể tôm thiếu sẽ kéo theo thiếu các chất dinh dưỡng khác, thiếu protein kéo
dài sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm. Để thoả mãn nhu cầu
protein ở tôm, ta có thể sử dụng các acid amin tổng hợp để cân đối nhu cầu
acid amin hoặc phối hợp các nguyên liệu.
Tôm chân trắng không cần khẩu phần ăn có lượng protein cao như tôm sú.
Theo nghiên cứu của Colvin and Brand (1977) là 30%, Kureshy and Davis
(2002) là 32%. Trong đó, thức ăn có lượng protein 35% được coi như là thích
hợp hơn cả, trong đó khẩu phần ăn có thêm mực tươi rất được tôm ưa chuộng.
Men tiêu hoá protein của tôm chủ yếu ở dạng trypsine, không có pepsine
(Vonk, 1970). Ngoài ra trong dạ dày tôm có 85% số vi khuẩn tạo thành
chitinase. Ngoài việc cung cấp dinh dưỡng, quan trọng nhất là giúp tôm có
khả năng tiêu hoá chitinase một phức hợp của protein. [2]
2.3.2 Lipid

Trong thành phần thức ăn của tôm thì lipid chứa năng lượng cao nhất, nó
không chỉ là chất dự trữ mà còn là thành phần thiết yếu của các tổ chức trong
cơ thể. Nếu năng lượng của thức ăn quá thấp thì tôm sẽ sử dụng nguồn năng
10
lượng từ các dưỡng chất khác, như protein để thoả mãn nhu cầu về năng lượng,
làm nâng cao chi phí thức ăn. Nếu năng lượng trong thức ăn quá cao thì sẽ làm
giảm sự hấp thu thức ăn và chất đạm tiêu hoá không đủ để tôm phát triển.
Tỷ lệ lipid trong thành phần thức ăn của tôm không thể vượt quá 10%,
tốt nhất là 5-7%. [2]
2.3.3. Hydratcacbon.
Hydratcacbon là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể (khoảng
60% năng lượng cho hoạt động sống của động vật). Tuy khả năng sản sinh ra
nhiệt lượng của hydratcacbon kém hơn so với lipid, song hydratcacbon lại có
ưu thế hoà tan được, vì vậy quá trình tiêu hoá hấp thu dễ dàng.
Ở giáp xác có nhiều men tiêu hoá hydratcacbon như: amylaza, maltaza,
kitinaza, cellulaza (Kooiman, 1964), nhờ đó giáp xác có thể tiêu hoá một
thành phần cellulose nên chúng có thể ăn thực vật và rong tảo.
Thức ăn nhiều xơ sẽ đưa kết quả xấu vì cơ quan ruột, dạ dày của tôm
ngắn, thức ăn nhanh chóng đi qua và thời gian tiêu hoá bị hạn chế. Nhưng
chất xơ đóng vai trò là chất nền cho quá trình lên men của vi sinh vật sống
trong ống tiêu hoá, vì vậy trong thức ăn tôm người ta thường bổ sung khoảng
5% bột cỏ hoặc rong biển. Ngoài vai trò là chất nền trong chất xơ tồn tại một
lượng nước nhất định, chính lượng nước này có tác dụng duy trì dịch ruột làm
tăng quá trình hấp thu chất dinh dưỡng. [2]
2.3.4. Vitamin.
Vitamin là những chất hữu cơ có bản chất hoá học khác nhau, cơ thể
động vật có nhu cầu một lượng nhỏ trong thức ăn để đảm bảo sự sinh trưởng
và phát triển bình thường. Vitamin nhóm B, C và E được cho là cần thiết phải
cho vào thức ăn. Vitamin D, C khi dùng với số lượng nhiều đã cho thấy phản
ứng đối kháng, dẫn đến bệnh thừa vitamin. Trong thành phần các premix

vitamin dùng cho tôm luôn có vitamin A và K. [2]
2.3.5. Khoáng.
Khoáng là những nguyên tố hoá học cần thiết để xây dựng nên cơ thể và
tham gia vào quá trình trao đổi chất của động vật. Tôm có khả năng hấp thụ
muối khoáng từ môi trường nước nên nhu cầu muối khoáng của tôm thấp và
khác với động vật trên cạn. Shewbartetal (1973) cho rằng nhu cầu Ca, K, Na
11
và Cl của tôm có thể thoả mãn do áp suất thẩm thấu. Photpho trong nước biển
thấp nhưng trong thịt tôm lại có nhiều, nên cần thêm photpho vào trong khẩu
phần thức ăn tôm hỗn hợp khoáng từ 2-5%. [2]
2.4. Tình hình nuôi tôm chân trắng trên thế giới và Việt Nam
2.4.1. Tình hình nuôi tôm chân trắng trên thế giới
Trên thế giới, sản lượng tôm chân trắng đứng hàng thứ hai sau tôm sú
nhưng ở châu Mỹ sản lượng tôm chân trắng đứng hàng đầu, đạt 86.000 tấn
(1990), 132.000 tấn (1992), 191.000 tấn (1998) và đạt gần 200.000 tấn năm
1999.[4]
Ecuador coi nuôi tôm chân trắng là ngành sản xuất lớn, sản lượng tôm
nuôi chiếm 95% tổng sản lượng của khu vực châu Mỹ, năm 1991 là 103.000
tấn. Năm 1993, do gặp dịch bệnh hội chứng Taura (Taura Symdrome Virus)
sản lượng giảm còn 1/3, sau 2-3 năm khôi phục lại đạt 120.000 tấn (1998),
130.000 tấn (1999) rồi lại gặp đại dịch bệnh đốm trắng còn 35.000 tấn (2000).
[4]
Một số nước như Mexico, Panama, Eelize, Peru, Colombia… cũng có
tình hình phát triển tương tự Ecuador. Sau khi được nhiều nước Châu Mỹ
nuôi nhân tạo thành công và có hiệu quả cao, tôm chân trắng được di giống
sang Hawaii . Từ đây tôm chân trắng lan sang Châu Á, Đông Nam Á. Nhiều
nước Đông Nam Á đã nhập tôm chân trắng để nuôi như: Philippin, Inđônêsia,
Malaixia, Thái Lan, Việt Nam với hy vọng đa dạng hóa các sản phẩm tôm
xuất khẩu để nhằm tránh tình trạng chỉ trông cậy phần lớn vào tôm sú hiện
nay. Tôm chân trắng được nhập khẩu vào Châu Á vì người ta nhận thấy một số

loại tôm bản địa chủ yếu hiện đang được nuôi cho năng suất thấp, mức độ tăng
trưởng chậm và có khả năng mang bệnh, việc khoanh vùng nuôi tôm chân
trắng khép kín và sự phát triển của các dòng giống tôm chân trắng chọn lọc và
thuần hóa đã đưa tôm chân trắng trở thành đối tượng quan tâm lớn của ngành
nuôi tôm thời kỳ hiện nay. Trên phạm vi toàn cầu, tôm chân trắng đang chiếm
tới 2/3 tổng sản lượng tôm nuôi toàn thế giới. Ở châu Á, trong giai đoạn từ
2001-2006, tôm sú chỉ duy trì ở một sản lượng nhất định, thì tôm chân trắng
nhảy vọt lên 1,5-1,6 triệu tấn (năm 2006) và ước đạt 1,8 triệu tấn (2009). Đặc
biệt, việc gia tăng nhanh sản lượng tôm chân trắng là do các nước đã sản xuất
12
được tôm bố mẹ sạch bệnh và áp dụng các biện pháp khoa học công nghệ nâng
cao năng suất, chất lượng tôm. Đặc biệt ở Thái Lan trong năm 2004 sản lượng
tôm chân trắng đã đạt tới 300.000 tấn, chiếm tỷ lệ cao trong sản xuất tôm biển
với sản lượng chiếm xấp xỉ 80%. Khảo sát tại Thái Lan cho thấy, nước này đã
chuyển sang nuôi tôm chân trắng đời thứ 7, sạch bệnh. Người nuôi tôm ở Thái
Lan đã nuôi thành công tôm chân trắng cỡ lớn (vượt tôm sú), có ưu thế vượt
trội về năng suất, đạt 25-30 tấn/ha/vụ; lợi nhuận thu được cao gấp 2-3 lần so
với tôm sú. Dự báo sản lượng tôm nuôi của Thái Lan năm 2008 sẽ đạt 533.000
tấn, gồm 160.000 tấn tôm sú và 373.000 tấn tôm chân trắng. Còn tại
Philippines, Bộ Nông nghiệp nước này cũng đã dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu và
nuôi tôm chân trắng ở nước này sau những nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy việc
nuôi tôm chân trắng hiệu quả cao, lại không đe dọa môi trường, góp phần đa
dạng sinh học. Tôm chân trắng được thế giới công nhận là một trong ba loài
tôm he nuôi có nhiều ưu điểm và sản lượng cao nhất với nhiệt độ và độ mặn rất
rộng, có thể nuôi theo nhiều hình thức bán thâm canh, thâm canh và nuôi công
nghiệp trong các ao đầm nước mặn lợ. [18].
2.4.2 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tháng 9/2001 đơn vị đầu tiên được Bộ Thủy sản cho phép
đưa tôm chân trắng vào sinh sản nhân tạo để bán ra thị trường là công ty
Duyên Hải ở tỉnh Bạc Liêu. Tiếp đến tôm chân trắng được nuôi thử nghiệm ở

một số tỉnh miền Bắc và miền Trung. Nguồn tôm giống nhập ngoại chủ yếu từ
Trung Quốc, Đài Loan, Mỹ, trong đó nhiều nhất là Trung Quốc, chủ yếu nhập
qua đường tiểu ngạch, rất khó kiểm soát.
Tôm chân trắng được nuôi phổ biến trên cả nước tập trung tại các tỉnh
Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Thừa Thiên - Huế, Quảng Bình, Quảng
Trị, Hà Tĩnh… Nuôi tôm trên cát phát triển mạnh đến mức các Bộ, ngành và
chính quyền các cấp không thể kiểm soát được. Nếu như năm 2002, cả nước có
593,8 ha nuôi tôm trên cát thì đến năm 2003 tăng lên 1131 ha; đến hết năm
2005 diện tích nuôi tôm trên cát được các tỉnh miền trung đưa vào quy hoạch
hơn 20.000 ha.Theo thống kê của ngành Thủy sản, năm 2008 cả nước đạt sản
lượng 50.000 tấn tôm chân trắng. Năm 2009 sản lượng tăng lên gấp 10 lần.
Miền trung là khu vực có các điều kiện thích hợp cho tôm chân trắng phát triển.
13
Vùng sản xuất tôm giống lớn nhất ở miền Trung và cũng lớn nhất cả nước là
Tuy Phong tỉnh Bình Thuận, Cà Ná, Cam Ranh, Phan Rang, Ninh Tịnh, Ninh
Hòa, Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa. [17]
Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là tôm nuôi đều phát triển tự phát. Dân
các tỉnh nuôi rải rác ở các vùng cát cao triều, xen lẫn trong các đồng tôm sú ở
ven biển. Hầu hết các hồ nuôi nhỏ lẻ ở nhiều khu vực khác nhau và không có
bể xử lý nước, nên nguồn nước thải xả ra kênh, ra biển gây ô nhiễm môi
trường. Theo Cục Nuôi trồng Thủy sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn thì việc quản lý chất lượng giống tại các trại đang bị buông lỏng, tôm
giống kém chất lượng, không qua kiểm soát vẫn được lưu hành trên thị
trường. Bên cạnh đó, một lượng rất lớn giống tôm chân trắng đang tràn qua
biên giới Quảng Ninh vào Việt Nam bằng nhiều con đường nhưng không
được cơ quan có trách nhiệm ngăn chặn. Thời gian gần đây tình hình dịch
bệnh đã xảy ra trên các vùng nuôi tôm chân trắng ở các tỉnh miền Trung và
đồng bằng sông Cửu Long
2.4.3 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở Thừa Thiên Huế
2.4.3.1 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế là một trong những tỉnh có diện tích nuôi tôm chân rắng
lớn trên cả nước. Phong trào nuôi tôm diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh đặc
biệt là các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Phú Lộc, Phú Vang. Theo báo cáo
tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2009, huyện
Phong Điền là đơn vị có diện tích nuôi lớn nhất với 226ha, sản lượng đạt
2307,2 tấn.
Vùng nuôi tôm trên cát ven biển huyện Phong Điền đã được quy hoạch với
quy mô trên 1000 ha. Đến nay đã có 4 doanh nghiệp và 5 nhóm hộ dân đã
được cấp 351,38 ha đất để tổ chức sản xuất nuôi trồng thủy sản. Trong đó,
Công ty Trường Sơn: 133,5 ha, Công ty Đông Phương: 45,5 ha; Công ty
Trường Phú: 92,88 ha; Công ty Hawaii: 49 ha; các nhóm hộ dân: 30,5 ha.
Tuy nhiên việc nuôi tôm chân trắng trên đất cát ven biển đang phát triển tự
phát. Tất cả diện tích nuôi ở đây đều lấy nước từ biển rồi thải nước đã sử
dụng ra biển. Khi tôm bị dịch bệnh, người dân vẫn xả nước mà không xử lý
khiến mầm bệnh phát tán nhanh chóng. Nuôi tôm chân trắng không theo quy
14
hoạch đã phá hủy một diện tích lớn rừng phòng hộ tại các vùng ven biển tỉnh
Thừa Thiên Huế, đây là điều đáng lo ngại vì nó dẫn đến những hậu quả xấu
cho chính những người dân nuôi tôm, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
[16].
2.4.3.2 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở công ty Trường Sơn
Công ty cổ phần Trường Sơn là một trong những doanh nghiệp đầu tiên
nuôi tôm chân trắng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 2003, công ty
tiến hành đầu tư xây dựng khu nuôi tôm công nghiệp trên cát với 9 ha diện
tích mặt nước tại xã Điền Lộc, huyện Phong Điền. Đến năm 2009, diện tích
nuôi của công ty đã tăng lên 33 ha. Năm 2010 công ty triển khai xây dựng
khu nuôi tôm Điền Môn , nâng tổng diện tích nuôi lên tới 72 ha. Hiện nay,
công ty sử dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và đang triển
khai xây dựng phiên bản mới ISO 9001: 2008. Trong năm 2008, công ty được
Tổng cục Tiêu chuẩn chất lượng chọn là một trong số 20 doanh nghiệp trên

toàn quốc áp dụng thí điểm mô hình Quản lý chất lượng toàn diện (TQM). Tất
cả diện tích ao hồ đều được nuôi tôm chân trắng theo phương thức nuôi công
nghiệp, mật độ nuôi có thể lên tới 180con/m
2
, sử dụng thức ăn công nghiệp
100%. Tuy nhiên trong những vụ nuôi gần đây sản lượng nuôi có phần giảm
do thời tiết không ổn định, môi trường ngày càng xấu đi, dịch bệnh xuất hiện
trên một số ao nuôi. Hiện nay công ty đã xây dựng quy trình kiểm soát quá
trình nuôi tôm mới được quản lý chặt chẽ. Lựa chon con giống sạch bệnh, cải
thiện môi trường nước và lựa chọn loại thức ăn phù hợp là những việc cần
làm nhằm cải thiện năng suất, nâng cao lợi nhuận cho công ty. Trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và huyện Phong Điền nói riêng người dân
đang sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau để nuôi tôm chân trắng, chủ yếu là
thức ăn công nghiệp của các công ty trong và ngoài nước. Hiện nay công ty
Trường Sơn đang sử dụng hai loại thức ăn chính là Hipo của công ty CP và
thức ăn Nuri của công ty Uni - president. Trong khi đó một số hộ dân tại địa
phương lại sử dụng thức ăn Winner của công ty Grobest. Cho đến nay, hiệu
quả sử dụng các loại thức ăn này vẫn chưa được kiểm chứng rõ ràng. Việc
nghiên cứu để tìm ra loại thức ăn phù hợp là rất cần thiết cho công ty cũng
như người nuôi tôm trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
15
16
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 3 loại thức ăn khác nhau:
1. Thức ăn Hipo của công ty CP Việt Nam
2. Thưc ăn Nuri của công ty TNHH Uni – President
3. Thức ăn Winner của công ty TNHH Grobest & I-Mei Industrial Việt Nam
Khách thể nghiên cứu: tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei)

3.2. Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 6 tháng 1 năm 2010 đến ngày 9 tháng 5 năm 2010
3.3. Địa điểm nghiên cứu
Xí nghiệp nuôi trồng thủy sản, công ty cổ phần Trường Sơn nằm trên 4
xã Điền Hương, Điền Môn, Điền Lộc và Điền Hòa huyện Phong Điền tỉnh
Thừa Thiên Huế. Đây là các xã ven biển có điều kiện tự nhiên và xã hội thuận
lợi để phát triển nuôi tôm chân trắng
3.4. Nội dung nghiên cứu và chỉ tiêu theo dõi
3.4.1. Các yếu tố môi trường ao nuôi
Các chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm :
- Nhiệt độ
- Độ mặn
- Độ kiềm
- pH
- Oxy
- Độ trong
3.4.2. So sánh khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng
nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau
Các chỉ tiêu theo dõi :
- Tăng trưởng tương đối và tuyệt đối về chiều dài
- Tăng trưởng tương đối và tuyệt đối về khối lượng
- Tỷ lệ sống
17
3.4.3. Hệ số tiêu tốn thức ăn ( FCR )
- Tổng khối lượng tôm
- Lượng thức ăn sử dụng
- So sánh FCR giữa 3 công thức thí nghiệm
3.4.4 Hiệu quả kinh tế
Chỉ tiêu theo dõi:
- Tổng thu

- Tổng chi: con giống, thức ăn, hóa chất…
- Lợi nhuận
- Hiệu quả đầu tư
- So sánh hiệu quả kinh tế giữa 3 công thức thí nghiệm
3.5. Phương pháp nghiên cứu
3.5.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên trên 9 ao, chia 3 nghiệm thức và lặp
lại 3 lần
Nghiệm thức 1 (thí nghiệm): sử dụng thức ăn Hipo của công ty CP, các
ao A1, A2,A3
Nghiệm thức 2 (thí nghiệm): sử dụng thức ăn Nuri của công ty TNHH
Uni – President các ao A4, A5, A6
Nghiệm thức 3 (đối chứng): sử dụng thức ăn Winner, của công ty
TNHH Grobest & I-Mei Industrial Việt Nam , các ao A7, A8, A9
Sơ đồ thí nghiệm :

A3 A8 A4
A6 A2 A9
A7 A5 A1
- Diện tích mỗi ao là 5000 m
2
, mật độ 100 con/m
2
- Nguồn giống CP, khối lượng khoảng 0,01gr/con, chiều dài khoảng 1cm
 Thức ăn CP sử dụng các loại:
18
• HI-PO 7701: dùng cho tôm từ 0,01 – 1gr/con
• HI-PO 7702: dùng cho tôm từ 1- 5gr/con
• HI-PO 7703: dùng cho tôm từ 5 - 7gr/con
• HI-PO 7703P: dùng cho tôm từ 7 - 10gr/con

• HI-PO 7704S: dùng cho tôm từ 10 – 20gr/con
Thành phần dinh dưỡng như bảng sau:
Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng thức ăn Hipo
Mã thức ăn
Thành phần
HI-PO
7701
HI-PO
7702
HI-PO
7703
HI-PO
7703P
HI-PO
7704S
Độ ẩm (%),
không lớn hơn
11 11 11 11 11
Protein thô (%),
không nhỏ hơn
41 41 40 40 39
Béo thô (%),
trong khoảng
6-8 6-8 6-8 5-7 5-7
Xơ thô (%),
không lớn hơn
3 3 3 4 5
Tro (%), không
lớn hơn
14 14 14 15 15

Bao gói ( kg ) 10 25 25 25 25
 Thức ăn Nuri của công ty TNHH Uni – President, hướng dẫn
sử dụng và thành phần dinh dưỡng như sau:
- Hướng dẫn sử dụng:
N310: dùng cho tôm 1 - 4 ngày tuổi, P10 - P15
N311: dùng cho tôm 5 - 14 ngày tuổi, P15 - P25
N312, N312A: dùng cho tôm 15 - 20 ngày tuổi, P25 - 1g
N313: dùng cho tôm 21 - 40 ngày tuổi, khối lượng 1 - 3g
N314: dùng cho tôm 41 - 60 ngày tuổi, khối lượng 3 - 7g
N315: dùng cho tôm 61 - 75 ngày tuổi, khối lượng 7 - 15g
N316: dùng cho tôm trên 75 ngày tuổi, khối lượng trên 15g
Bảng 2:Thành phần dinh dưỡng thức ăn Nuri
19
Mã số
thức ăn
N310 N311 N312 N312A N313 N314 N315 N316
Độ ẩm ,
≤(%)
11 11 11 11 11 11 11 11
Protein thô
≥(%),
42 40 40 40 40 37 37 36
Béo thô,
≥(%)
4 4 4 4 4 5 5 5
Xơ thô,
≤(%)
3 3 3 3 3 4 4 4
Tro,
≤(%)

13 13 13 13 13 13 13 13
Hình dạng Hạt Hạt Hạt Viên Viên Viên Viên Viên
Kích
thước
(mm)
40#↓ 18-40# 14-18# Ф1.2L2-4 Ф1.4L2-4 Ф1.7L2-4 Ф2.0L3-5 Ф2.3L4-6
Bao gói
(kg)
10 10 10 20 20 20 20 20

 Thức ăn Winner của công ty Grobest & I-Mei Industrial các mã số
No.1, No.2, No.2L, No.3, No.4, No.5, No.6. Hướng dẫn sử dụng và thành
phần dinh dưỡng như sau:
- Hướng dẫn sử dụng:
No.1: dùng cho tôm 1- 4 ngày tuổi
No.2: dùng cho tôm 5 - 22 ngày tuổi
No.2L: dùng cho tôm 23 - 31 ngày tuổi
No.3: dùng cho tôm 32 - 60 ngày tuổi
No.4: dùng cho tôm 61 - 80 ngày tuổi
No.5: dùng cho tôm 80 - 90 ngày tuổi
No.6: dùng cho tôm trên 90 ngày tuổi
20
Bảng 3: Thành phần dinh dưỡng thức ăn Winner
Thành phần
Mã số thức
ăn
Protein
thô ≥
(%)
Béo

thô

(%)

thô
≤(%)
Tro
thô
≤(%)
Độ
ẩm
≤(%)
Ca
≤(%)
P ≥
(%)
Ca/P
Bio
-
Pro
Organic
Se
No.1 40 6,0 3,0 14 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.2 40 6,0 3,0 14 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.2L 38 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.3 37 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.4 37 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.5 35 4,5 5,0 16 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.6 35 4,5 5,0 16 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
- Định kỳ xác định số lượng tôm và khối lượng tôm trong ao.

- Theo dõi cường độ bắt mồi của tôm hàng ngày và hàng cử cho ăn để
điều chỉnh kịp thời.
- Theo dõi sự lột xác của tôm để điều chỉnh giảm trong giai đoạn lột xác
và tăng sau khi tôm lột xong.
- Theo dõi sự biến động của thời tiết và môi trường để điều chỉnh tăng
giảm thức ăn.
- Theo dõi sức ăn của tôm, tình trạng sức khỏe, phát hiện kịp thời các dấu
hiệu bệnh lý. Cách cho ăn và số lần cho ăn theo từng giai đoạn phát triển của
tôm (xem chi tiết về quy trình nuôi tôm chân trắng ở phần phụ lục)
3.5.2. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường
- Nhiệt độ : đo bằng nhiệt kế thủy ngân
- Độ mặn: đo bằng khúc xạ kế
21
- Độ kiềm: đo bằng Ankality test kit
- Độ trong: đo bằng đĩa secchi
- pH: đo bằng pH test kit
- Oxy đo bằng DO test kit
Các thông số cần đo hằng ngày là nhiệt độ, pH, oxy. Ngày đo 2 lần, lần 1
khoảng 6-7 giờ sáng, lần 2 khoảng 15-16 giờ chiều.
Độ kiềm, độ mặn, độ trong 3 ngày đo một lần
- Các chỉ tiêu cần đo ở đáy ao nơi cho tôm ăn, đo 3 điểm khác nhau sau
đó lấy kết quả trung bình, các mẫu được phân tích ngay tại chỗ đảm bảo độ
chính xác cao. Số liệu được tập hợp và xử lý theo từng đợt, mỗi đợt 15 ngày.
3.5.3. Phương pháp theo dõi khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm
chân trắng nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau
Sau 20 ngày kể từ khi thả giống, dùng sàng ăn, sau 30 ngày kết hợp giữa
sàng ăn và chài tôm để xác định tỷ lế sống và lấy mẫu để xác định khối lượng
và chiều dài. Định kỳ 10 ngày lấy mẫu kiểm tra tăng trưởng một lần
3.5.3.1. Theo dõi khối lượng
- Chài tôm, đếm số tôm trong chài, cân tổng khối lượng tôm chài được từ

đó xác định khối lượng trung bình của tôm, chài 3 điểm bất kỳ trong ao rồi
lấy kết quả trung bình
- Khối lượng được cân bằng cân bàn (g)
- Tốc độ tăng trưởng khối lượng (g/con/ngày)
12
12
w
TT
WW
G


=
-
21
,WW
là khối lượng trung bình của tôm ở lần đo thứ nhất và thứ hai
- T
1
, T
2
là thời gian của lần đo thứ nhất và thứ hai
- G
w
là tốc độ tăng trưởng về khối lượng
3.5.3.2. Theo dõi chiều dài
- Dùng thước có chia vạch (mm) đo chiều dài của 30 con tôm sau đó lấy
kết quả trung bình
- Tốc độ tăng trưởng chiều dài (cm/con/ngày).
12

12
TT
LL
G
L


=
-
21
,LL
là chiều dài trung bình của tôm ở lần đo thứ nhất và thứ hai
22
- T
1
, T
2
là thời gian của lần đo thứ nhất và thứ hai
- G
L
là tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài
3.5.3.3 Tỷ lệ sống.
Xác định tỷ lệ sống dựa vào sàng ăn và số tôm thu được trong mỗi lần
chài tôm. Công thức tính tỷ lệ sống theo số tôm chài được như sau:
TLS (%) =
Số tôm trong chài x diện tích ao
x 100
Diện tích chài x số tôm ban đầu
3.5.4. Phương pháp tính toán và so sánh hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR)
- Theo dõi, tính toán lượng thức ăn sử dụng và khối lượng tôm theo từng

thời gian nuôi khác nhau từ đó so sánh FCR giữa 3 công thức thí nghiệm theo
từng tháng và cả vụ nuôi
3.5.4.1. Khối lượng tôm
Công thức tính khối lượng tôm trong ao như sau:
Khối lượng đàn tôm (g) = Tỷ lệ sống x Số lượng tôm giống thả ban đầu
x Khối lượng trung bình (g/con)
3.5.1.2 Lượng thức ăn sử dụng:
Lượng thức ăn sử dụng(kg/ngày) =
% cho ăn x khối lượng đàn tôm (g)
1000
3.5 1.3. Hệ số tiêu tốn thức ăn
- Công thức tính hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) như sau:
FCR tháng 1 =
Lượng thức ăn sử dụng tháng 1
Tổng khối lượng tôm sau tháng đầu tiên
FCR tháng 2 =
Lượng thức ăn sử dụng tháng 2
Tổng khối lượng tăng lên từ tháng 1 đến hết tháng 2
FCR tháng 3 =
Tổng lượng thức ăn sử dụng tháng 3
Tổng khối lượng tôm tăng lên từ tháng 2 đến hết tháng 3
23
FCR cả vụ =
Tổng tượng thức ăn sử dụng cả vụ nuôi
Tổng khối lượng tôm khi thu hoạch
3.5.5. Hiệu quả kinh tế
Lợi nhuận = Tổng thu – Tổng chi
Tổng thu = Tổng khối lượng tôm x đơn giá tại thời điểm thu hoạch
Tổng chi = Tiền con giống + thức ăn + thuốc, hóa chất + nhân công +
khấu hao tài sản + chi phí khác

Lợi nhuận
Hiệu quả đầu tư =
Tổng chi
3.5.6. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel 2003 với các hàm:
- Average (n
1
:n
i
): tính trung bình (X) của các chỉ tiêu theo dõi về yếu tố
môi trường, tăng trọng, chiều dài, hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR)
- Stdev (n
1
:n
i
): tính độ lệch chuẩn (δ) của các chỉ tiêu theo dõi về yếu tố
môi trường, tăng trọng, chiều dài.
- Min (n
1
:n
i
) : tính giá trị nhỏ nhất của các yếu tố môi trường
- Max (n
1
:n
i
) : tính giá trị lớn nhất của các yếu tố môi trường
- Phân tích ANOVA một yếu tố để so sánh mức độ sai khác giữa các
công thức thí nghiệm đối với các chỉ tiêu nghiên cứu về tăng trọng, tăng
trưởng chiều dài và hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR)

24
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả theo dõi các yếu tố môi trường
Kiểm soát các yếu tố môi trường là một trong những việc quan trọng
không thể thiếu trong quá trình nuôi tôm. Điều kiện cần thiết cho một ao nuôi
có thể đạt năng suất cao đó là môi trường nước phải phù hợp với sự phát triển
của tôm nuôi. Sự thay đổi đột ngột của một yếu tố môi trường có thể làm thay
đổi các yếu tố khác. Môi trường xấu tôm sinh trưởng chậm và nếu vượt quá
sức chịu đựng thì sẽ gây sốc, đây là một trong những nguyên nhân làm giảm
năng suất tôm nuôi. Trong thời gian thí nghiệm, chúng tôi cố gắng điều chỉnh
môi trường ao nuôi ở mức phù hợp nhất. Các ao trong các nghiệm thức được
chuẩn bị giống nhau về mọi khía cạnh như diện tích, độ sâu, chất đất, nguồn
nước…cùng với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, chế độ chăm sóc quản
lý như nhau đối với tất cả các ao nuôi. Điều này rất quan trọng và cần thiết để
điều chỉnh môi trường ao nuôi ở các nghiệm thức đến mức đồng đều nhất có
thể nhằm đảm bảo mức độ chính xác của thí nghiệm khi so sánh các loại thức
ăn với nhau. Lịch trình theo dõi, kiểm soát môi trường phụ thuộc vào từng
yếu tố nhất định. Các yếu tố quan trọng và có mức độ biến động lớn như nhiệt
độ, oxy, pH được đo 2 lần hằng ngày trong suốt quá trình nuôi tôm. Độ mặn,
độ kiềm và độ trong được đo 3 ngày một lần. Kết quả theo dõi môi trường
được tổng hợp theo từng yếu tố và có những biến động khác nhau
4.1.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố rất quan trọng, có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến đời sống của động vật thủy sản nói chung và của tôm nói riêng. Sự
biến động nhiệt độ trong các ao nuôi được trình bày ở bảng 4
25

×