Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận từ lý luận của triết học mác lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hãy xác định trong giai đoạn quá độ ở việt nam hiện nay cần làm gì để thúc đẩy nhanh sự phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.17 KB, 17 trang )

TRƯỜNG…


TIỂU LUẬN

TỪ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ
BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN
XUẤT HÃY XÁC ĐỊNH TRONG GIAI ĐOẠN QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY CẦN LÀM GÌ ĐỂ THÚC ĐẨY NHANH SỰ PHÁT TRIỂN
ĐẤT NƯỚC

Họ và tên:
Lớp:
Khóa học:

HÀ NỘI - 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI
I.
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
1.1.
1.2.

II.


2.1.
2.2.
2.3.
2.4.

Khái niệm
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất
TỪ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT HÃY XÁC
ĐỊNH TRONG GIAI ĐOẠN QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY CẦN LÀM GÌ ĐỂ THÚC ĐẨY NHANH SỰ
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
Xác định rõ vai trò và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế
thị trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa
Thúc đẩy cơng nghiệp hố và hội nhập tồn cầu

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
4

6


6
6
8
9
13
15


1
MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của
những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Mà lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất la hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại
không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển của xã hội.
Sự vận động, phát triển cùa lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Ngược lại, quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó là
động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, khi quan hệ sản
xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình độ phát
triển củ lực lượng sản xuất sẽ lại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Do đó, việc giải quyết mâu thẫu giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất không phải là đơn giản.
Việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại
lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vơ cùng to
lớn, đặc biệt là vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Từ lý luận của Triết học Mác - Lênin về mối

quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hãy xác
định trong giai đoạn quá độ ở Việt Nam hiện nay cần làm gì để thúc đẩy
nhanh sự phát triển đất nước” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.


2
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ
SẢN XUẤT
1.1. Khái niệm
* Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội
nhất định, ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ
tác động giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con
người và năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải
vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri
thức, phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ.
Trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể và
bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.
Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì nội
dung khái niệm lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất
mới và làm cho năng suất lao động tăng lên gấp bội. Năng suất lao động được
xem như là tiêu chí quan trọng trọng nhất để đánh giá trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và suy cho cùng cũng là yếu tố quyết định sự chiến thắng
của một trật tự xã hội này đối với một trật tự xã hội khác.
* Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái
sản xuất xã hội).
Trong quá trình sản xuất, con người khơng chỉ có quan hệ với tự nhiên,
tác động vào giới tự nhiên, mà cịn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau.
Hơn nữa, chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác
động vào tự nhiên và mới có sản xuất.


3
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan
hệ giữa con người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:
Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người
với con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con
người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động
cho nhau.
Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người
trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác
động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản
xuất thì giai cấp đó là giai cấp thống trị; giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý
sản xuất và sẽ quyết định tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mô thu
nhập. Ngược lại, giai cấp, tầng lớp nào khơng có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai
cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột vì buộc phải làm th và bị bóc lột dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng
có tác động trở lại quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó khơng phải là những quan

hệ ý chí, pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù,
quy luật kinh tế.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, khơng phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của con người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc
vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
* Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của cải
vật chất (tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại
và phát triển của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội
loài người.


4
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất đóng vai trị quyết định đối với tất cả các mặt của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của
các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài
người từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất và tác động qua lại giữa
lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất
* Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm
thay đổi quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức
sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một
cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (quy luật cơ bản nhất của sự vận
động, phát triển xã hội).
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay

đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra
đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển”
của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất
đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là,
nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư
liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng
của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” [1,


5
tr.310] của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu
cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển
mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
* Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự
phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản
xuất khơng hồn tồn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy
định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao
động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng
dụng khoa học và công nghệ... và do đó tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại
quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sử nhân
loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên
thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa
và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật
xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.


6
II. TỪ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN
HỆ SẢN XUẤT HÃY XÁC ĐỊNH TRONG GIAI ĐOẠN QUÁ ĐỘ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY CẦN LÀM GÌ ĐỂ THÚC ĐẨY NHANH SỰ
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
2.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
Thắng lợi của đường lối đổi mới, thực hiện q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là một tất
yếu khách quan, là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của cách mạng
Việt Nam. Trong điều kiện nước ta, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, được vũ trang
bằng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp nhuần nhuyễn

tính giai cấp và tính dân tộc, trong việc hoạch định đường lối, chính sách và
trong tổ chức chỉ đạo thực hiện, tập hợp trong đội ngũ của mình hàng triệu
người con ưu tú của giai cấp công nhân và của dân tộc, gắn bó máu thịt với
nhân dân, “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, thực hiện “Đảngvới
Dân một ý chí”, “Đảng ta là đạo đức là văn minh”, là lực lượng duy nhất có
khả năng lãnh đạo nhân dân ta đi tới mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội [2, tr.259].
2.2. Xác định rõ vai trò và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
Quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ln gắn với xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Trong đó có một nội dung cơ bản là phải phân định rõ ràng
giữa Nhà nước và nền kinh tế theo hướng: cái gì của nền kinh tế, của thị trường
thì trả lại cho thị trường; cái gì thuộc chức năng và trách nhiệm của Nhà nước
phải nắm cho chắc và làm cho tốt; cơ sở để thực hiện được điều đó là phải xây
dựng hệ thống pháp luật, thể chế, nhất là bảo đảm tính hiệu lực và hiệu quả của
hệ thống này, xét cả hai mặt trên, quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam
trong hơn một thập kỷ qua tuy đạt được một số thành tựu, song diễn ra rất
chậm chạp, kết quả còn hạn chế.


7
Một sự thật đã đang và tiếp tục diễn ra, nền kinh tế thị trường với bản
chất đa dạng nó sẽ thúc đẩy xã hội phát triển đa dạng hơn, phong phú hơn.
Khu vực kinh tế tư nhân, cần được mở đường phát triển, cơ chế cạnh tranh thị
trường lành mạnh sẽ khuyến khích tất cả những ai có tài năng và tinh thần
dám chịu rủi ro, mạo hiểm để tạo nên sự nghiệp kinh doanh trong một môi
trường kinh doanh mới với mức độ cạnh tranh mang tầm khu vực và tồn cầu.
Tính đa dạng của quy mơ và của loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh,
hoạt động nghề nghiệp của dân cư sẽ ngày càng phát triển. Lúc đó Nhà nước
cần phải chuyển vai trị của mình từ một Nhà nước kiểm soát, “cho phép”
sang một Nhà nước “hỗ trợ, giám sát” [3, tr.120].

Mặt khác, sự phát triển ở bất cứ quốc gia nào cũng đòi hỏi phải có sự ổn
định nhất định. Tính đa dạng và tính năng động của kinh tế thị trường cũng
như của xã hội địi hỏi phải có một khung pháp luật đầy đủ, rõ ràng và hiệu
quả. Nghĩa là phải có một “luật chơi” bình đẳng cho tất cả mọi thành viên xã
hội. Một mặt, cần tạo ra sự tự do tối đa cho hoạt động kinh tế thị trường và
các hoạt động nghề nghiệp; mặt khác, phải bảo đảm tất cả các hoạt động ấy
tuân theo một khung khổ pháp lý thống nhất, bình đẳng và hiệu lực chung, tức
tạo ra sự tự do cho mỗi người trong sự tôn trọng tự do của tất cả mọi người
trong khuôn khổ luật pháp. Điều đó có nghĩa là, cần chuyển Nhà nước sang
Nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền không chỉ có ý nghĩa kinh tế là
giải phóng mọi lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển và
tăng trưởng kinh tế, mà nó cịn có ý nghĩa chính trị to lớn ổn định chính trị, ổn
định xã hội, nhờ khả năng thích ứng linh hoạt và tự điều chỉnh lẫn nhau của
các thành viên xã hội trong một khung khổ pháp luật có hiệu lực.
Song việc ban hành các quy định pháp luật tạo “luật chơi” cho kinh tế
thị trường là rất cần thiết, nhưng chưa đủ để cho nền kinh tế phát triển. Một
bằng chứng hiển nhiên là, trong thế giới đang phát triển với gần 200 quốc gia
hiện nay có nền kinh tế thị trường, nhưng số các nước vượt qua được ngưỡng
“đang phát triển” trở thành nước phát triển thật ít ỏi. Điều kiện để cho một
nền kinh tế phát triển, một thị trường vận hành tốt là các quy định pháp luật


8
phải có hiệu lực, Nhà nước phải hiệu quả, trong sạch, có được sự tin cậy của
khu vực kinh doanh nói riêng và của tồn xã hội nói chung. Theo đó cần phải
có một bộ máy hành chính Nhà nước có hiệu quả. Việc xây dựng bộ máy
hành chính Nhà nước là một q trình lịch sử, có sự tiếp thu của q khứ, có sự
học hỏi từ bên ngồi và có sự sáng tạo mới địi hỏi phải tốn công sức của nhiều
thế hệ. Tương tự, xây dựng khung khổ pháp luật là một q trình lâu dài, khơng
thể có ngay “qua một đêm” “đầy đủ” các quy định pháp luật. Vấn đề là nội

dung của quy định pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu cả về phía người thực hiện và
người thuộc đối tượng điều tiết của luật; cần bắt đầu từ những quy định đơn
giản, quy mô hẹp dần tiến tới những quy định phức tạp tổng hợp hơn với phạm
vi điều chỉnh lớn hơn; bắt đầu từ những vấn đề nhỏ đến những vấn đề lớn hơn;
bắt đầu từ những việc dễ đến những việc phức tạp hơn [4, tr.83].
Trong q trình hồn thiện khung khổ pháp luật và bộ máy hành chính Nhà
nước đó, điều quan trọng là tạo được sự tin cậy của dân và các nhà đầu tư một
cách bền vững, tạo ra một sự hợp tác và mối quan hệ tốt đẹp giữa Nhà nước và
nhân dân với tư cách là một mối quan hệ xã hội cơ bản bảo đảm cho sự phát triển.
2.3. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị
trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa
Xuất phát từ đặc điểm trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
thời kỳ quá độ ở nước ta cịn ở trình độ thấp và phát triển không đồng đều
giữa các ngành, vùng, các thành phần. Đây chính là địi hỏi của quy luật kinh
tế khách quan.
Xuất phát từ yêu cầu của việc giải phóng và khai thác mọi tiềm năng
của toàn bộ nền kinh tế, nhằm phát triển nhanh và có hiệu quả nền kinh tế
hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đồng thời nhằm thực hiện
thắng lợi sự nghiệp q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng cơ sở
vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Vì chúng ta phải khai thác mọi tiềm năng của
toàn bộ nền kinh tế, kinh tế nhà nước còn yếu, xuất phát thấp, cốt thực hiện
thành cơng sự nghiệp q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, ngồi
kinh tế nhà nước, trong các lực lượng xã hội còn rất nhiều tiềm năng, để huy


9
động kinh nghiệm, vốn… nếu biết khơi dậy những tiềm năng đó thì nó sẽ tạo
sự phát triển chung của nền kinh tế.
Bản thân phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nó cịn là điều kiện
thực hiện dân chủ hố về kinh tế một cách thực sự, nó là cơ sở để thực hiện

dân chủ về các quan hệ khác.
Thực hiện cơ chế thị trường nhằm kích thích phát triển lực lượng sản
xuất và định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước phải thực sự
tự mình lớn mạnh, trưởng thành và đóng vai trị định hướng chung cho nền
kinh tế.
Bên cạnh đó phải quan tâm đúng mức, có những giải pháp cụ thể, chặt
chẽ đối với thị trường bất động sản và đất đai.
2.4. Thúc đẩy cơng nghiệp hố và hội nhập tồn cầu
Cơng nghiệp hố là một q trình phát triển tất yếu của bất cứ quốc gia
nào. Do vậy, vấn đề chủ yếu và quyết định đặt ra cho mỗi quốc gia là xác định
được những chiến lược và sách lược, chính sách cụ thể cho phát triển công
nghiệp từng giai đoạn.
Sự can thiệp của Nhà nước đối với quá trình quá trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa là rất cần thiết, nhưng không được “lấn sân” và càng không thể
thay thế được thị trường. Theo đó thị trường giữ vai trị chủ yếu trong phân bổ
và sử dụng các nguồn lực. Bài học của quá khứ về kinh tế kế hoạch hoá tập
trung đã làm sáng tỏ luận điểm này. Nhà nước cần đóng vai trị địn bẩy, chất
xúc tác hỗ trợ cho q trình phát triển cơng nghiệp. Vì vậy, lý do quan trọng
nhất cho sự can thiệp này chính là cạnh tranh quốc tế và hội nhập quốc tế về
kinh tế, khơng thể phó mặc cho thị trường.
Nhà nước phải tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, mang tính cạnh tranh
lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các ngành cơng nghiệp, địi hỏi tài năng và
nghệ thuật lãnh đạo của Nhà nước đối với quá trình phát triển. Chính sách
cơng nghiệp khơng phải là một chính sách mang tính cố định mà phải linh
hoạt, nhạy bén hướng vào sự tăng trưởng thích ứng với sự chuyển đổi cơ cấu
kinh tế thế giới. Đây là tiền đề cơ bản cho việc xác định cơ cấu công nghiệp


10
của đất nước, việc xác định rõ ràng vai trò của các doanh nghiệp, trong đó có

doanh nghiệp Nhà nước là vấn đề rất quan trọng có ý nghĩa quyết định trong
q trình phát triển đúng định hướng.
Khuyến khích phát triển các giá trị phi thị trường, đầu tư lớn vào con
người, hoàn thiện hệ thống an ninh xã hội và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, quan hệ thị trường thơng qua tiền tệ
cịn có mặt tiêu cực như là mặt trái của nó. Đó là lẽ tự nhiên, vì chắc chắn
khơng thể có quan hệ trao đổi ngang giá bình đẳng tuyệt đối. Hơn nữa do bản
chất xã hội của chính con người, kết hợp với động lực lợi nhuận, những mục
tiêu ngắn hạn cục bộ, những nhận thức còn có giới hạn về tự nhiên, xã hội,
quan hệ thị trường có thể huỷ hoại trở lại, khơng những mặt tích cực của nó,
mà cịn cả những giá trị nhân bản phi thị trường.
Nhưng khơng phải vì mặt trái đó của kinh tế thị trường, để đi đến quyết
định cấm đốn, kìm hãm các quan hệ thị trường, vì đó là điều khơng tưởng.
Mà nếu có ý định cấm, kìm nó thì mặt tích cực kia của nó tự nhiên sẽ cũng
tiêu vong. Có thể ví giá trị nhân bản phi thị trường như là đất đai. “Đất đai đối
với con người sẽ khơng có ý nghĩa nữa khi khơng trồng được cây cối, không
thực hiện được các hoạt động sinh sống của người”. Ngược lại, phải nhận
thức mặt trái đó như một tất yếu, như cái phái sinh, phải chấp nhận và khống
chế nó, chúng là hai mặt đối lập nhau trong một sự thống nhất.
Như vậy, quan hệ thị trường là một quan hệ mang tính biện chứng, nội
sinh trong nó, hai mặt đối lập và nhờ hai mặt đối lập đó mà nó tiến hố, phát
triển. Tuy nhiên, sự đối lập giữa hai mặt đó, xét trong tồn bộ lịch sử, có xu
hướng tới một sự tối ưu động làm cho quan hệ thị trường phát triển từ những
trình độ thấp hơn lên những trình độ cao hơn, cả về lượng và chất. Khi đó
mâu thuẫn cũ được giải quyết, đồng thời sinh thành mâu thuẫn mới, cứ như
vậy, liên tục tiến triển. Trong bất cứ một cộng đồng nào dù nhỏ, dù lớn, trong
bất cứ một quốc gia, dân tộc nào và trong toàn bộ thế giới, từ cá nhân con
người đến cộng đồng người lớn hơn đều có những phản ứng hợp lý để cân
bằng chính mình, vượt lên chính mình để phát triển.



11
Sở dĩ quan hệ thị trường tồn tại một cách rộng rãi, được đa số người
chấp nhận một cách tự nhiên, chính là vì nó dựa trên bản chất phi thị trường,
xuyên suốt trong toàn bộ sự phát triển của kinh tế thị trường, dù người ta có ý
thức được nó hay khơng ý thức được nó. Đó là những giá trị mang tính nhân
bản về tình thương u giữa người và người, về sự gắn bó giữa cá nhân và gia
đình, cộng đồng, dân tộc và thời đại để tồn tại, tiến hoá và phát triển.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, những giá trị nhân bản đó của xã hội
loài người được phát triển và làm giàu thêm. Trên nền đó mà các giá trị thị
trường được nảy nở cùng với quá trình phát triển hệ thống tư bản cơng nghiệp
hố (tức hệ thống kinh tế thị trường). Hệ thống kinh tế thị trường là một thành
quả, một sáng tạo chung của lồi người trong q trình phát triển của mình.
Nó khơng của riêng ai, của riêng quốc gia nào, dân tộc nào.
Song nếu có ai đó cho rằng: kinh tế thị trường là cái cứu cánh duy nhất
bảo đảm cho tăng trưởng và phát triển thì sẽ rơi vào phiến diện, dẫn tới sai lầm,
khi tự mình đánh mất đi cái nền tảng của mình. Nhưng phủ nhận giá trị thị
trường, nhất là phủ định tuyệt đối mang tính cơ học như trong cơ chế kế hoạch
hố, tập trung thì thật ngây thơ trước sự phát triển của xã hội loài người đang
ngày càng trở nên năng động hơn, đa dạng và phong phú hơn. Cần phải có quan
điểm thực tiễn, tồn diện, lịch sử, biện chứng đối với các mơ hình phát triển, các
học thuyết và đối với các hệ giá trị. Vì vậy, các giá trị chung của lồi người, các
giá trị văn hố truyền thống dân tộc trước hết với tính cách là cái nôi cho sự phát
triển, cái nôi cho thai nghén và nuôi dưỡng các giá trị thị trường ngày nay. Các
giá trị thị trường này với ý nghĩa đầy đủ và đúng đắn, được phát triển hợp lý, hài
hồ chính là sự làm giàu hệ giá trị của mỗi dân tộc nói riêng và của lồi người
nói chung. Ngược lại các giá trị chung phi thị trường được làm giàu lên đó, có
sức sống mãnh liệt có thể điều hướng giá trị thị trường và làm cho chúng nhân
bản hơn.
Đầu tư lớn vào con người nghĩa là thứ nhất về mặt Nhà nước phải có

đường lối, chiến lược và chính sách của mình phải phải xuất phát từ con
người, hướng vào mục đích con người, chứ khơng từ quyền lực và vì quyền


12
lực, hướng vào cái lâu dài, bền vững chứ không phải hướng vào cái ngắn hạn
thiểu cận trong giải quyết các vấn đề xã hội. Khi đó con người thực sự là
trung tâm và là chủ thể của quá trình phát triển. Thứ hai: cấu trúc tổ chức xã
hội và nền kinh tế phải rõ ràng, minh bạch: Nhà nước ra nhà nước, thị trường
ra thị trường , trò ra trị, trường ra trường, lớp ra lớp, cơng dân và pháp luật,
trong điều kiện cho phép của đất nước. Đây là vấn đề chiến lược vì nếu tổ
chức xã hội và nền kinh tế rối loạn, ắt sẽ dẫn đến hệ giá trị chuẩn mực xã hội
rối loạn; không rõ thật, giả, không rõ tốt và xấu, không rõ thiện hay ác, khơng
rõ đúng và sai, từ đó dẫn đến mất niềm tin, từ mất niềm tin ở phạm vi nhỏ, đối
với một sự việc nhỏ dẫn đến mất niềm tin lớn hơn, toàn diện hơn đối với xã
hội và cuối cùng khi con người buộc phải đánh mất niềm tin vào chính mình,
đó là lúc xã hội suy tàn. Ngược lại nếu đầu tư lớn, có chiến lược từ q trình
giáo dục, đào tạo, sử dụng, bố trí con người, nâng cao chất lượng đồng bộ các
mặt, các yếu tố để nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển,
sẽ là chiến lược phù hợp với xu thế vận động phát triển của xã hội loài người,
mà trước mắt đáp ứng sự nghiệp q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế hàng hố nhiều thành phần, quan tâm đầu tư giải quyết các chính
sách, thực hiện chiến lược con người, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển cả
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất khi nền kinh tế đang có xu hướng như:
nền kinh tế tri thức như hiện nay.


13
KẾT LUẬN
Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này, đến ngày nay đã trải qua 5

phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong
kiến, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội. Tư duy nhận thức của con người
không dừng lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển hoàn thiên hơn. Từ đó kéo
theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất. Từ
hái lượm săn bắt để duy trì cuộc sống đến trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu,
đến ngày nay trình độ khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản
xuất xã hội chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất, như Mác và Ănghen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động khơng chỉ tới một hình
thái kinh tế xã hội nào đó, mà tác động tới tồn bộ lịch sử phát triển của nhân
loại. Ở Việt Nam, việc duy trì tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu
khách quan trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung trước đây chúng ta đã khơng có được sự nhận thức đúng
đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm
hãm lực lượng sản xuất, kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất đã làm cho mâu thẫu giữa chúng trở nên gay gắt. Điều
đó khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải ở trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ
một thời gian dài. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thể hiện
chủ trương đúng đắn của nhà nước là đa dạng hoá các loại hình sở hữu, cải
thiện căn bản quan hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát
triển. Điều này phù hợp với quá trình đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn của
Việt Nam. Chúng ta đã vận dụng hợp lý quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào thực tại ở
Việt Nam.


14

Từ quan điểm này của chủ nghĩa Mác xít, Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn từ đổi
mới đến nay. Tuy vậy, thực tế đặt ra vấn đề nan giải là làm thế nào để có thể
phát triển trình độ lực lượng sản xuất ở Việt Nam bắt kịp với các nước trên
thế giới? Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi Việt Nam đi từ một nước phong
kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, mà
thiếu cái “cốt vật chất” hiện đại của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa,
trong khi đó các nước khác phải mất hàng chục thậm chí hàng trăm năm phát
triển mới có được lực lượng sản xuất hiện đại. Mấu chốt ở đây là các biện
pháp, thủ tục hành chính, các điều kiện, hành lang pháp lý thuận lợi cho các
hoạt động giao lưu, hội nhập với kinh tế thế giới. Mong rằng với những nỗ lực
và quyết tâm đúng hướng của mình, Đảng ta sẽ sớm đưa được con tàu đất
nước đến cái đích dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
thwucj hiện thắng lợi q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.


15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
2. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.
3. Lê Bá Ngàn (2015), Sự phát triển hợp quy luật của lực lượng sản xuất ở
nước ta thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Thế Vinh, Thành tựu của công cuộc đổi mới ở nước ta từ
năm 1986, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2015.




×