ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRƯỜNG…
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG
Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,
Hà Nội, tháng 01 năm 2022
PHIẾU CHẤM ĐIỂM BÀI TIỂU LUẬN/BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: PHÁT TRIỂN VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG
Mã phách
Điểm, Chữ ký (Ghi rõ họ tên)
Điểm thống nhất
của cán bộ chấm thi
của bài tiểu luận
CB chấm thi số 1
CB chấm thi số 2
Bằng số
Bằng chữ
Trang này học viên đóng ở đầu của bài tập lớn (ngay sau trang bìa sau)
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
VĂN HĨA LÀ GÌ? ANH/CHỊ HÃY PHÂN TÍCH
I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA VĂN HĨA NHÀ
TRƯỜNG
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
Văn hố
Văn hố nhà trường
Các yếu tố cấu thành văn hóa nhà trường
Tầm quan trọng của việc phát triển văn hoá trường
PHÂN TÍCH CẤU TRÚC 3 TẦNG BẬC CỦA VĂN
HĨA NHÀ TRƯỜNG THEO E.H.SCHEIN. LIÊN HỆ
II.
VỀ 3 TẦNG NÀY TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM
GIANG, QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI
Phân tích cấu trúc 3 tầng bậc của văn hóa Nhà trường theo
2.1.
E.H.Schein
Liên hệ về 3 tầng này tại Trường Tiểu học Kim Giang,
2.2.
Quận Thanh Xuân, Hà Nội
ĐỂ XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG, HIỆU
TRƯỞNG CẦN TẬP TRUNG VÀO NHỮNG NỘI
DUNG NÀO? LIÊN HỆ VỚI NHỮNG NỘI DUNG CỤ
III.
THỂ CỦA KẾ HOẠCH XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ
TRƯỜNG TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM GIANG,
QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI
Để xây dựng văn hóa nhà trường, hiệu trưởng cần tập trung
3.1.
vào những nội dung nào
Liên hệ với những nội dung cụ thể của kế hoạch xây dựng
3.2.
văn hóa nhà trường tại Trường tiểu học Kim Giang, quận
Thanh Xuân, Hà Nội
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
2
2
2
2
3
4
7
7
11
15
15
19
21
22
MỞ ĐẦU
Giáo dục gắn liền với lịch sử loài người. Đối với nhân loại, giáo dục là
phương thức bảo tồn và bảo vệ kho tàng tri thức văn hoá xã hội. Nhân dân Việt
nam vốn có truyền thống hiếu học và một nền giáo dục lâu đời, trải qua các thời
kỳ lịch sử, cộng đồng người Việt đã tiếp thu và chọn lọc, hình thành nên đạo
đức, tư tưởng văn hóa Việt nam. Nền tảng văn hóa ấy đã tạo nên bản sắc về nhân
cách con người Việt nam.
Cũng như sự tồn tại của giáo dục, văn hoá xuất hiện từ khi có lồi người,
có xã hội. Văn hố tồn tại khách quan và tác động vào con người sống trong nó.
Nếu mơi trường tự nhiên là cái nơi đầu tiên ni sống con người, để lồi người
hình thành và sinh tồn thì văn hóa là cái nơi thứ hai giúp con người trở thành
“người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng
vươn tới chân - thiện - mỹ.
Trong một tổ chức nói chung cũng như một Nhà trường, văn hóa ln tồn
tại trong mọi hoạt động tổ chức đó. Vấn đề là con người có ý thức được sự tồn
tại của nó để quản lý và sử dụng sức mạnh của nó hay khơng. Bản thân văn hóa
rất đa dạng và phức tạp. Do đó, khi có những tiếp cận nghiên cứu khác nhau sẽ
dẫn đến có nhiều quan niệm về văn hóa, nhưng tựu chung lại, các nhà nghiên
cứu đều có một nghĩa chung căn bản: văn hóa là sự giáo hóa, vun trồng nhân
cách con người, làm cho con người và cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn.
Trong các nhà trường, xây dựng văn hóa nhà trường có vai trị đặc biệt quan
trọng, là cơ sở để các nhà trường có định hướng phát triển đúng đắn, hoàn thành
tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo.
1
NỘI DUNG
I. VĂN HĨA LÀ GÌ? ANH/CHỊ HÃY PHÂN TÍCH NHỮNG VẤN
ĐỀ CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG
1.1. Văn hố
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm văn hoá:
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO): Văn
hóa hiểu theo nghĩa rộng là một phức thể, tổng thể các đặc trưng diện mạo về
tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm khắc họa lên bản sắc của một cộng đồng,
gia đình, xóm làng, xã hội... Văn hóa khơng chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương
mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống
chính trị, những truyền thống tín ngưỡng.
Văn hoá hiểu theo nghĩa hẹp: Văn hoá là tổng thể những hệ thống biểu
trưng (kí hiệu) chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng khiến
cộng đồng ấy có đặc thù riêng…Văn hố bao gồm hệ thống những giá trị để
đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, có đạo đức hay vô đạo đức,
phải hay trái, đúng hay sai…) theo cộng đồng ấy [4, tr.190].
Tóm lại có thể hiểu: Văn hố là một tập hợp của những đặc trưng về tâm
hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã
hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
1.2. Văn hố nhà trường
Văn hóa nhà trường là một khái niệm mới xuất hiện trong những năm gần
đây, nhưng nội hàm của nó thì đã được đề cập đến từ lâu, trong nhiều tình huống
của giáo dục và đào tạo, nhất là ở thời kỳ đổi mới.
Có thể hiểu văn hóa nhà trường là một hệ thống phức hợp các giá trị, các
chuẩn mực xung quanh chức năng đào tạo con người của nhà trường, được chấp
nhận tự nguyện, được cam kết tơn trọng để theo đó mà các thành viên của nhà
trường cùng nhau thực thi các hoạt động dạy và học, nhằm hoàn thành ngày
càng tốt sứ mệnh cao cả của mình.
2
Các giá trị và chuẩn mực này phải tương đối bền vững, nghĩa là phải qua
trải nghiệm và thử thách của thời gian, phải biến thành niềm tin trong hành động
của mọi thành viên, và trở thành biểu tượng trong từng mặt hoạt động của nhà
trường. Do đó văn hóa nhà trường là sự thể hiện bản sắc tập thể, thơng qua đó
mà các thành viên của nhà trường được kết nối với nhau để phấn đấu cho mục
tiêu chung, trách nhiệm chung.
1.3. Các yếu tố cấu thành văn hóa nhà trường
Văn hóa nhà trường thường được xem xét ở 2 cấp độ: vơ hình và hữu
hình. Các thành tố chủ yếu thường ở dạng tiềm ẩn trong nhận thức và tình cảm
của con người (thầy, trị, phụ huynh, nhân dân,...), chúng hình thành nên cấp độ
vơ hình của văn hóa nhà trường, khó nhận ra ngay. Chính hành động của con
người (chủ yếu là thầy và trò) trong hoạt động thực tiễn dạy và học đã biến các
thành tố vơ hình nói trên thành các biểu tượng và tạo nên cấp độ hữu hình của
văn hóa nhà trường. Nhìn từ phía khách quan, người ta dễ nhận ra cấp độ hữu
hình của văn hóa nhà trường, nhưng đó chưa phải là tồn bộ văn hóa nhà trường,
mà đó chỉ là biểu hiện bên ngồi của văn hóa nhà trường. Chẳng hạn, biểu tượng
về các chuẩn mực trong văn hóa nhà trường mà chúng ta thường thấy khi đến
thăm một nhà trường nào đó, chính là cấp độ hữu hình của văn hóa nhà trường,
như là: cảnh quan sư phạm, trang phục của thầy và trò, quan hệ giao tiếp trong
trường và giao tiếp với khách, nghi thức chào cờ đầu tuần, nghi thức chào đón
học trị đầu cấp và tiễn đưa học trò cuối cấp, nghi lễ ngày khai trường, ngày bế
giảng, ngày kỷ niệm thành lập trường, ngày Nhà giáo Việt Nam, nề nếp gặp mặt
và tặng quà các cựu giáo chức của trường nhân ngày 20/11, nề nếp gặp mặt và
giao lưu với học sinh cũ đã ra trường,...
Muốn nhận diện được đúng trình độ của văn hóa nhà trường thì phải có
cách đánh giá tồn diện, kết hợp được cả 2 cấp độ, không thể chỉ căn cứ vào cấp
độ hữu hình, nhưng cũng khơng thể chỉ qua đánh giá trình độ của cấp độ vơ hình
bằng suy diễn cảm tính.
3
1.4. Tầm quan trọng của việc phát triển văn hoá trường
Giáo dục - đào tạo là quá trình trao quyền và bồi dưỡng tri thức cho cá
nhân và cộng đồng của thế hệ đi trước cho các thế hệ đi sau, để từ đó họ có thể
tiếp nhận, rèn luyện, hòa nhập và phát triển trong cộng đồng xã hội. Cũng như
sự tồn tại của giáo dục, văn hoá xuất hiện từ khi có lồi người, có xã hội. Nếu
mơi trường tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, để lồi người hình
thành và sinh tồn thì văn hóa là “cái nơi thứ hai” giúp con người trở thành
“người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng
vươn tới Chân - Thiện - Mĩ [5, tr.120].
Trong nền kinh tế toàn cầu như hiện nay và nhất là khi Việt Nam đã gia
nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) với nhiều thời cơ và thách thức, mặt
trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập đã tác động lớn đến xã hội nói chung
cũng như giáo dục nói riêng, văn hố tổ chức cần được nhận diện như một tiêu
chí khi xây dựng hoạt động của các tổ chức mang tính chuyên nghiệp. Và hơn
bất cứ tổ chức nào hết trong xã hội, nhà trường phải là tổ chức có “hàm lượng”
văn hố cao nhất; là nơi hội tụ, kết tinh văn hoá để đào tạo ra những chuẩn mực
văn hoá cho xã hội.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI đã nêu: Đối với giáo dục phổ thơng, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện, chú
trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống; Nâng cao nhận thức về
vai trò quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lí giáo dục; người học là chủ thể trung tâm của q trình giáo dục; gia đình
có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách,
lối sống cho con em mình. Chính vì vậy, văn hóa nhà trường là một nội dung
quan trọng của quản lí và lãnh đạo nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ, giáo dục tư tưởng, tri thức, đạo đức, lối sống đúng đắn cho người học. Bài
viết đề cập một số vấn đề lí luận liên quan đến phát triển văn hóa nhà trường
hiện nay.
4
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng “Xây dựng văn hóa học đường là việc
cần thiết biết nhường nào: phải giáo dục nhân cách văn hóa, làm cho người học
được trở thành người có văn hóa” [1; tr.11]. Tác giả Nguyễn Khắc Hùng nhấn
mạnh “Sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh chịu ảnh hưởng rất
lớn của mơi trường văn hóa học đường, vì đây khơng chỉ là nơi các em lĩnh hội
kiến thức văn hóa, khoa học, nghề nghiệp mà cịn là một mơi trường xã hội thu
nhỏ, có ảnh hưởng rất lớn đến những gì xung quanh.
Một mơi trường văn hóa học đường thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các em
nhanh chóng trưởng thành, tạo nền tảng cơ bản vững chắc để các em có thể trở
thành người cơng dân tốt cho xã hội” [2, tr.156]. Phát triển văn hóa nhà trường
chính là một phần quan trọng trong việc phát huy tối đa hiệu quả các nguồn lực,
đồn kết nội bộ được duy trì, sức mạnh tập thể được phát huy, chất lượng các
mặt được nâng cao, các hệ giá trị của nhà trường được thiết lập, mục tiêu chất
lượng giáo dục toàn diện được đảm bảo.
Do vậy, sự cần thiết phải phát triển văn hóa nhà trường bắt nguồn từ
những lí do sau đây: Phát triển văn hóa nhà trường là sứ mệnh, mục tiêu định
hướng của mỗi nhà trường, là trách nhiệm, quyền lợi của mỗi cá nhân, tổ chức
trong nhà trường, là yêu cầu của xã hội; giúp các quyết định quản lí được thực
hiện nhanh chóng, thu hút sự được sự đồng thuận của các thành viên; giúp định
hình các giá trị văn hóa cốt lõi trong nhà trường, đồng thời xác định và xây dựng
các giá trị văn hóa phù hợp phục vụ cho sự phát triển chung của nhà trường; góp
phần phát huy tối đa hiệu quả các nguồn lực, đồn kết nội bộ được duy trì, sức
mạnh tập thể được phát huy, chất lượng các mặt được nâng cao; khuyến khích
mối quan hệ hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau giữa các giáo viên;
tạo bầu khơng khí tin cậy thúc đẩy giáo viên quan tâm đến chất lượng và hiệu
quả giảng dạy, học tập; tạo ra một môi trường học tập thân thiện với học sinh,
học sinh cảm thấy gắn bó với trường, lớp; góp phần hình thành nên những nét
phẩm chất, tính cách riêng, phù hợp và có giá trị cho học sinh của nhà trường.
Việt nam, với sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vào những năm gần đây, văn hoá tổ chức đã được nhận diện như một
5
tiêu chí khi xây dựng hoạt động của các tổ chức mang tính chun nghiệp. Điều
đó chứng tỏ khái niệm văn hố tổ chức tuy cịn mới mẻ đối với Việt Nam nhưng
các tổ chức đã ý thức được tầm quan trọng của văn hoá tổ chức. Và hơn bất cứ
tổ chức nào hết trong xã hội, Nhà trường phải là tổ chức có “hàm lượng” văn
hố cao nhất; là nơi hội tụ, kết tinh văn hoá để đào tạo ra những chuẩn mực văn
hố cho xã hội.
Về góc độ tổ chức, văn hóa nhà trường được coi như một mẫu thức cơ
bản, tạo ra một môi trường quản lý ổn định, giúp cho Nhà trường thích nghi với
mơi trường bên ngồi, tạo ra sự hồ hợp mơi trường bên trong. Một tổ chức có
nền văn hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. Văn hóa nhà trường
sẽ giúp cho Nhà trường thực sự trở thành một trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi
hội tụ sức mạnh của trí tuệ và lịng nhân ái trong xã hội, góp phần quan trọng tạo
nên sản phẩm giáo dục toàn diện.
Đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên Nhà trường, văn hóa nhà trường thúc
đẩy sự sáng tạo cá nhân, tạo nên tình thương yêu chân thành giữa các thành viên
và đảm bảo cho sự hợp tác vì mục tiêu chung. Thày cơ giáo là người trực tiếp
tham gia hoạt động dạy học. Và hơn ai hết, chính Nhân cách Nhà giáo sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới nhân cách học trị. Vì vậy, chúng ta rất cần những Nhà giáo
ngồi kiến thức chun mơn, phải hiểu biết rộng về cuộc sống, có kiến thức sâu
sắc về văn hóa xã hội.
Đối với học sinh sinh viên, văn hóa tạo nên giá trị đạo đức và có vai trị
điều chỉnh hành vi. Khi được giáo dục trong một môi trường văn hóa và thấm
nhuần hệ giá trị văn hóa, học trị khơng những hình thành được những hành vi
chuẩn mực mà quan trọng hơn là ẩn chứa trong tiềm thức các em là niềm tin nội
tâm sâu sắc vào những điều tốt đẹp, từ đó, khao khát cuộc sống hướng thiện và
sống có lý tưởng. Đồng thời, Văn hóa Nhà trường cịn giúp các em về khả năng
thích nghi với xã hội. Một con người có văn hóa thì trong con người đó ln hội
tụ đầy đủ những giá trị đạo đức căn bản, đó là đức tính khiêm tốn, lễ độ, thương
yêu con người, sống có trách nhiệm với bản thân và xã hội... Do vậy, khi gặp
những tình huống xã hội phát sinh, dù là những tình huống mà các em chưa từng
6
trải nhưng nhờ vận dụng năng lực văn hóa để điều tiết hành vi một cách hài hịa,
các em có thể tự điều chỉnh mình phù hợp với hồn cảnh, ứng xử hợp lẽ, hợp với
lòng người và cuộc sống xung quanh.
II. PHÂN TÍCH CẤU TRÚC 3 TẦNG BẬC CỦA VĂN HÓA NHÀ
TRƯỜNG THEO E.H.SCHEIN. LIÊN HỆ VỀ 3 TẦNG NÀY TẠI
TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM GIANG, QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI
2.1. Phân tích cấu trúc 3 tầng bậc của văn hóa Nhà trường theo
E.H.Schein
Văn hóa nói chung có thể được phân tích ở các cấp độ (level) khác nhau.
Cấp độ ở đây được hiểu là mức độ mà người quan sát có thể thấy, từ những thứ
rất dễ thấy cho đến vô thức - các ngầm định được coi là DNA của văn hóa. Ở
giữa là các niềm tin, giá trị, chuẩn mực và các quy tắc hành xử được tuân theo
(espoused - từ này còn được dịch là “đồng thuận”, nhưng tơi dùng từ “tn theo”
bởi vì nó cịn được sử dụng cho 1 cá nhân, và khi đó từ “đồng thuận” sẽ thiếu
chính xác) mà các thành viên của nhóm sử dụng để mơ tả về mình (văn hóa
chúng tơi/ chúng ta là thế này thế kia… Chính vì cấp độ này được dùng để kể về
bản thân, nên bao gồm tồn thứ tốt đẹp)
Mơ hình ba cấp độ của văn hóa:
Các tạo tác (artifact)
Bao gồm:
Những cấu trúc và q trình có thể nhìn thấy và cảm thấy
Những hành vi có thể quan sát
Đặc điểm: Khó giải mã
Các niềm tin và giá trị tuân theo (espoused beliefs and values - EBV)
Bao gồm:
Lý tưởng, mục đích, giá trị, khát vọng
Hệ tư tưởng
Các lý giải (rationalization)
Đặc điểm: Có thể tương thích hoặc khơng tương thích với các hành vi và
các artifact khác (hành động khơng tương thích với tun bố)
7
Các ngầm định cơ bản (basic underlying assumptions)
Bao gồm: Các giá trị và niềm tin vô thức hiển nhiên đúng, không tranh cãi
Đặc điểm: quyết định hành vi, nhận thức (perception), suy nghĩ và cảm xúc
Phân tích cấp độ 1. Các tạo tác - những hiện tượng (phenomena) thấy
được và cảm được:
Ta hiểu tạo tác (artifact) là các hiện tượng, sự việc mà ta có thể nhìn,
nghe, cảm khi tiếp xúc một nhóm người của văn hóa lạ. Các artifact bao gồm
những sản phẩm có thể nhìn thấy được của nhóm, bao gồm kiến trúc, ngơn ngữ,
cơng nghệ, sản phẩm, các tác phẩm nghệ thuật, phong cách được thể hiện qua
trang phục, cách nói chuyện, cách thể hiện cảm xúc, những truyền thuyết và câu
chuyện họ kể về tổ chức của họ, danh mục các giá trị được công bố (ví dụ danh
sách Giá trị cốt lõi của tổ chức), các nghi lễ có thể quan sát.
Trong các artifact có cả “bầu khơng khí” (climate) của nhóm. Một số nhà
phân tích cho rằng climate chính là văn hóa, nhưng có lẽ nên hiểu climate là sản
phẩm của ngầm định, do đó chỉ là một biểu thị (manifestation) của văn hóa. Các
thành phần có tính cấu trúc như quy định, mơ tả chính thức về hoạt động của tổ
chức, sơ đồ tổ chức, v.v. cũng là artifacts.
Cấp độ 1 có đặc điểm là dễ nhìn thấy và khó giải mã (decipher). Ví dụ Ai
cập và Maya đều có kim tự tháp, nhưng ý nghĩa của chúng trong mỗi nền văn
hóa là khác nhau. Người quan sát có thể mơ tả mình nhìn thấy gì và cảm thấy gì,
nhưng khơng thể chỉ căn cứ vào đó mà luận ra ý nghĩa của nó với cộng đồng đó.
Rất nguy hiểm nếu tự suy ra những ngầm định mà chỉ dựa vào artifact, vì khi đó
dù khơng cố ý nhưng bạn sẽ để phơng văn hóa (cultural background) của chính
mình ảnh hưởng đến suy luận.
Nếu bạn ở lại nhóm đủ lâu, thì dần sẽ hiểu ý nghĩa của các artifact. Nếu
muốn nhanh, bạn sẽ phải hỏi những người đó “tại sao các bạn lại làm cái các bạn
làm?”. Khi đó, bạn sẽ nhận được các niềm tin và giá trị tuân theo, tức là cấp độ 2.
Phân tích cấp độ 2. Các niềm tin và giá trị tuân theo (EBV):
Tất cả những điều mà nhóm học được rốt cuộc đều phản ánh niềm tin hay
giá trị ban đầu của ai đó - về việc các thứ phải thế nào thay vì đang thế nào. Khi
8
nhóm được thành lập hoặc khi gặp khó, sẽ có ai đó đề xuất lời giải, và lời giải đó
phản ánh giả định của tác giả - thế nào là đúng hay sai, cái gì sẽ đem lại kết quả.
Những người thường xuyên gây ảnh hưởng sẽ dần được công nhận là thủ lĩnh,
nhưng cả nhóm vẫn chưa có tri thức chung vì vẫn chưa có cùng cách làm.
Những gì được đề xuất vẫn chỉ được tiếp nhận như mong muốn của thủ lĩnh, cho
đến khi cả nhóm cùng hành động và cùng thấy kết quả.
Ban đầu, những gì thủ lĩnh đề xuất là các giá trị cần được chất vấn, tranh
cãi, thách thức và kiểm nghiệm. Nếu thủ lĩnh thuyết phục được nhóm hành động
theo ý mình, và thành cơng, thì giá trị được ghi nhận sẽ dần trở thành niềm tin
chung, rồi thành ngầm định (nếu các hành động liên tục đem lại kết quả). Nếu sự
biến đổi này xảy ra, nhóm sẽ dần quên rằng lúc đầu họ đã nghi ngờ và tranh cãi
về cách làm này.
Không phải niềm tin và giá trị nào cũng đi qua các biến đổi này. Chỉ
những thứ có thể kiểm nghiệm bằng cách nào đó, và cho kết quả lặp đi lặp lại
mới trở thành ngầm định. Một số lĩnh vực q bị ảnh hưởng bởi yếu tố bên
ngồi, hoặc có yếu tổ thẩm mỹ và đạo đức, thì khơng thể kiểm nghiệm mà chỉ có
thể đồng thuận (consensus) thơng qua thẩm định xã hội (social validation).
Thẩm định xã hội (social validation) nghĩa là có một số niềm tin và giá trị
chỉ có thể được đồng thuận nhờ trải nghiệm xã hội chung của nhóm. Ví dụ,
khơng nền văn hóa nào có thể chứng minh tơn giáo hay hệ giá trị đạo đức của
mình là vượt trội so với nền văn hóa khác, nhưng nếu các thành viên đều đồng ý,
thì chúng sẽ trở nên hiển nhiên không tranh cãi. Nếu ai khơng chấp nhận sẽ bị
loại bỏ khỏi nhóm.
Những niềm tin được tuân theo và các quy tắc đạo đức vẫn nằm ở mức ý
thức (không phải vô thức) và được truyền đạt rõ ràng, bởi chúng là chuẩn mực
mà các thành viên phải theo, và dạy cho thành viên mới. Thông thường chúng sẽ
được đưa vào hệ tư tưởng hay triết lý của tổ chức.
Nếu các niềm tin và giá trị khiến nhóm cảm thấy có ý nghĩa và thoải mái
lại khơng tương thích với các niềm tin và giá trị tạo ra kết quả (tức là thích nghi
bên ngồi mâu thuẫn với hội nhập bên trong), thì ta sẽ có hiện tượng các giá trị
9
đồng thuận phản ánh những hành vi mong muốn mà khơng phản ánh trong hành
vi quan sát được. Ví dụ cơng ty có thể tun bố giá trị cốt lõi là chất lượng cao,
nhưng thực tế lại không như vậy (nếu chỉ vài vụ việc thì dễ bị đổ tại tình thế,
nhưng nếu lặp đi lặp lại thì khơng phải do tình thế, mà thực sự có mâu thuẫn
giữa level 2 và 3).
Như vậy, khi phân tích các EBV, cần phân biệt cái gì tương thích với
ngầm định và tạo ra kết quả, cái gì là thành phần của hệ tư tưởng hay triết lý của
tổ chức, và cái gì là sự lý giải (rationalization) hay chỉ là mong muốn cho tương
lai. Thông thường, các EBV trừu tượng đến mức có thể mâu thuẫn nhau, ví dụ
cơng ty tun bố quan tâm như nhau đến cả cổ đông, khách hàng và nhân viên.
Các EBV thường khơng giúp ta giải thích được nhiều hành vi, khiến ta có cảm
giác chỉ hiểu được một phần chứ khơng phải tồn bộ văn hóa. Để hiểu sâu hơn,
giải mã được các pattern, và có thể dự báo chính xác các hành vi trong tương lai,
ta cần hiểu các ngầm định cơ bản.
Phân tích cấp độ 3. Các ngầm định cơ bản không tranh cãi:
Khi một giải pháp nào đó liên tục phát huy tác dụng, nó sẽ dần trở thành
được chấp nhận hiển nhiên. Lúc đầu chỉ là một giả thuyết, dựa trên linh cảm hay
giá trị nào đó, giờ đã thành hiện thực. Chúng ta dần tin rằng đó chính là cách mà
thế giới hoạt động, trở thành ngầm định.
Ngầm định khác với hệ giá trị chi phối (dominant value orientations), vì
hệ giá trị chi phối là thứ hay được lựa chọn nhưng các phương án khác vẫn ở đó
và mọi người ý thức được, và đơi khi chọn chúng. Cịn ngầm định là những thứ
đã được chấp nhận không bàn cãi đến nỗi khơng cịn phương án khác nào nữa,
tất cả thành viên đều làm theo. Nếu nhóm đã có một ngầm định, thì họ sẽ khơng
hiểu nổi những hành vi dựa trên ngầm định khác. Ví dụ, nếu nhóm có ngầm định
rằng cá nhân ln quan trọng hơn lợi ích chung của nhóm, thì sẽ khơng hiểu tại
sao cá nhân tự vẫn vì nhóm.
Ngầm định cơ bản cũng giống như “lý thuyết dùng thật” (theory-in-use)
của Argyris và Schon. Các ngầm định là miễn thắc mắc miễn tranh cãi, và do đó
rất khó để thay đổi, bởi vì việc đó làm đảo lộn thế giới quan của ta, khiến ta cảm
10
thấy vơ cùng bất an. Vì vậy, thay vì chịu đựng sự bất an ghê gớm đó, ta sẽ muốn
nhận thức các sự việc xung quanh là tương thích với với các ngầm định của
mình, kể cả nếu việc đó khiến ta phải bóp méo, phủ định hiện thực, tự lừa dối
bản thân. Q trình tâm lý này chính là sức mạnh khủng khiếp của văn hóa
(ngầm định của văn hóa cũng như bản tính của một người, rất khó thay đổi, như
trong câu “giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”).
Văn hóa với tư cách là tập hợp các ngầm định cơ bản sẽ hình thành tư duy
của ta về thế giới, “mơ hình trí tuệ” (mental map): cái gì cần chú ý, các thứ có ý
nghĩa gì, nên bày tỏ cảm xúc thế nào, v.v. Ta sẽ cảm thấy thoải mái với những
người có cùng văn hóa, và thấy lúng túng khi ở bên những người khác. Không
hiểu, hoặc tệ hơn - hiểu sai, các hành vi của họ. Văn hóa giúp mọi người xác
định họ là ai, hành xử với nhau thế nào, và khi nào thì cảm thấy dễ chịu. Do đó,
thay đổi văn hóa sẽ tạo ra bất an.
Các ngầm định về bản chất con người (lười biếng hay chăm chỉ, gian dối hay
trung thực) là cơ sở cho các thuyết về quản lý và kiểm soát người làm. Nếu mọi
người được đối xử dựa trên các ngầm định nào đó về họ, thì dần dần họ sẽ hành xử
theo đúng các ngầm định đó, để cảm thấy mọi thứ ổn định và có thể dự báo.
2.2. Liên hệ về 3 tầng này tại Trường Tiểu học Kim Giang, Quận
Thanh Xuân, Hà Nội
Trường Tiểu học Kim Giang được thành lập năm 1983 thuộc phường Kim
Giang quận Đống Đa. Lúc đó cơ sở vật chất chung với trường Trung học cơ sở
Kim Giang. Đến tháng 7-1992 trường được tách riêng thành Trường Tiểu học
Kim Giang theo Quyết định số 195QĐ/TCCQ ngày 28 tháng 7 năm 1992 của
Ủy ban nhân dân quận Đống Đa, nằm trên khuôn viên rộng hơn 5.986,6m 2, nay
thuộc phố Hoàng Đạo Thành-Kim Giang-Thanh Xuân-Hà Nội.
Trường được Bộ Giáo dục và đào tạo cấp bằng công nhận trường đạt
chuẩn quốc gia theo Quyết định số 4606/QĐ-BGD&ĐT-GDTH ngày 17/8/2004
của Bộ Giáo dục và đào tạo.
Từ năm 2004 đến nay, thực hiện sự chỉ đạo hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ
năm học của ngành; sự chỉ đạo hướng dẫn đầu tư của Ủy ban nhân dân quận và
11
các phòng chức năng, nhà trường đã xây dựng kế hoạch từng năm học và tổ
chức thực hiện kế hoạch hiệu quả, thiết thực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Khai thác hiệu quả các điều kiện đã được đầu tư đạt chuẩn và thường xuyên
nâng cấp cải tạo, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với nhu cầu thực tế. Do vậy
trường đã đạt được những kết quả cụ thể:
Chi bộ: Liên tục đạt Chi bộ trong sạch vững mạnh và vững mạnh xuất sắc.
Nhà trường: Liên tục đạt Tập thể lao động tiên tiến cấp quận; 05 năm đạt
“Tập thể Lao động Xuất sắc” cấp Thành phố. Năm học 2018 - 2019 được Bộ Giáo
dục và đào tạo tặng Bằng khen “Đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học”.
Cơng đồn: Liên tục đạt Cơng đồn vững mạnh; 04 năm đạt cơng đồn
vững mạnh Xuất sắc cấp Quận.
Chi đồn: Liên tục đạt Chi đoàn vững mạnh.
Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: Liên tục đạt “Đơn vị thi đua
xuất sắc” cấp quận. Năm học 2019-2020 được Trung ương đồn tặng bằng khen
“Có thành tích xuất sắc phong trào thiếu nhi”.
Liên tục đạt trường Tiên tiến xuất sắc về phong trào thể dục thể thao cấp
Thành phố và Tiên tiến xuất sắc về công tác Y tế - Chữ thập đỏ.
Được Sở Giáo dục và đào tạo tặng bằng khen “Trường học thân thiện Học sinh tích cực”.
Văn nghệ, thể dục thể thao: được tặng nhiều Huy chương vàng, bạc, đồng,
cờ thi đua, bằng khen, giấy khen cấp Quận, cấp Thành phố.
Để xây dựng văn hóa học đường, phải làm nhiều việc, bằng nhiều cách.
Phải bắt đầu từ các cấp quản lý ngành, lãnh đạo các trường có chủ trương, kế
hoạch triển khai, kiểm tra, nhắc nhở, đánh giá; đó là điều kiện tiên quyết. Tiếp
đến, đội ngũ nhà giáo phải chú ý giáo dục văn hóa, đây là nhân tố rất quan trọng.
Và tất nhiên, toàn trường, đến từng người học, ai cũng phải chú trọng đến hình
thành và phát triển nhân cách văn hóa. Để xây dựng văn hóa học đường theo
cấu trúc 3 tầng bậc của E.H.Schein tại Trường Tiểu học Kim Giang, Quận Thanh
Xuân, Hà Nội hiện nay cần làm tốt các nội dung sau:
12
Một là, Mỗi trường học phải có hệ giá trị làm chuẩn mực để lấy đó làm
mục tiêu phấn đấu, thước đo thành quả của trường Mỗi cấp học, bậc học có yêu
cầu, nội dung, biện pháp đặc thù. Một biện pháp cần thiết là Trường Tiểu học
Kim Giang cần xây dựng hệ giá trị làm chuẩn mực để mọi thành viên đồng
thuận, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo thành quả của bản thân, của lớp,
của trường, đặc biệt về mặt đạo đức xã hội, giá trị nhân cách - điều mà chúng ta
gọi là dạy người bên cạnh dạy chữ, dạy nghề. Việc làm này là động lực thúc đẩy
sự phát triển của nhà trường, làm cho học sinh, sinh viên nhận thức được giảng
đường, nơi mình học tập trở thành nơi phấn đấu, rèn luyện; nơi phụ huynh luôn
yên tâm về một môi trường đào tạo vừa hồng vừa chuyên.
Trường Tiểu học Kim Giang cần xây dựng các giải pháp phù hợp, loại bỏ
dần những hiện tượng vơ văn hóa, xây dựng hệ giá trị riêng làm chuẩn mực góp
phần thúc đẩy sự phát triển cho toàn ngành giáo dục. Trường Tiểu học Kim
Giang cần ban hành quy chế văn hóa học đường một cách rõ ràng, có tính khả
thi cao, đặc biệt có cam kết của các phòng ban, đơn vị trực thuộc, cá nhân… và
có kiểm tra, đánh giá thường xun. Ngồi ra, Trường Tiểu học Kim Giang cần
gắn việc giáo dục đạo đức văn hóa với đạo đức lối sống, lồng ghép chương trình
giảng dạy với các hoạt động dã ngoại cho học sinh, sinh viên như: thăm các di
tích lịch sử, học tập truyền thống cách mạng lịch sử hào hùng của dân tộc…, qua
đó khơi dậy lịng tự hào dân tộc, giúp các em có động cơ học tập tốt.
Hai là, Trường Tiểu học Kim Giang cần xây dựng môi trường giáo dục an
tồn, thân thiện, hiệu quả Mơi trường giáo dục phải xây dựng thật trong lành,
văn hóa. Văn hóa thể hiện ở giáo viên và học sinh qua hành động, cử chỉ, ngôn
ngữ giao tiếp hàng ngày. Môi trường xung quanh học đường là ý thức của giáo
viên và học sinh khi bỏ rác đúng nơi quy định, không bẻ cây, khạc nhổ, vẽ bậy
lên tường, bàn học, khơng nói tục, chửi thề…
Những việc làm tưởng chừng rất nhỏ đó chính là nền tảng hình thành
chuẩn mực đạo đức ban đầu của mỗi một con người. Văn hóa học đường chính
là văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử của giáo viên và học sinh. Giáo viên phải là
tấm gương tốt cho học sinh noi theo, phải xây dựng mối quan hệ tốt giữa thày và
13
trò một cách đúng mực, nghiêm túc, thân mật, giản dị và chân thành. Giáo viên
phải xác định đúng vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với việc dạy chữ và dạy
người, có ý thức trau dồi chun mơn, làm cho học sinh thấy được cái hay, cái
đẹp trong kiến thức được lĩnh hội, truyền cho các em niềm say mê về nghề
nghiệp, phát huy tính tích cực, tự giác làm cho các em trân trọng, yêu quý nghề
của mình lựa chọn.
Trường Tiểu học Kim Giang phải phát động những phong trào thi đua,
văn hóa văn nghệ, hoạt động ngoại khóa, biến mỗi mái trường trở thành ngơi
trường thân thiện, mỗi học sinh trở thành người học tích cực.
Ba là, Phối hợp gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục văn hóa học
đường. Gia đình là cái nôi sinh thành, dưỡng dục, là nơi định hướng các giá trị
đạo đức, nhân cách của học sinh. Gia đình cũng là nơi gìn giữ những
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Sự kết hợp giữa gia đình với
nhà trường thể hiện trong việc thường xuyên có sự trao đổi từ hai phía. Nhà
trường thơng báo kết quả học tập, văn hóa đạo đức trường học của học sinh cho
gia đình. Gia đình cung cấp đầy đủ thơng tin cá nhân, trình bày rõ tính
cách, năng lực của học sinh tạo điều kiện để nhà trường có biện pháp
giáo dục, quản lý. Gia đình cũng phải chu cấp đầy đủ về vật chất, quan tâm,
động viên các em cố gắng học tập, rèn luyện. Thực tế cho thấy, khá nhiều gia
đình do bận mải mà bỏ bê khơng quan tâm đến con cái, phó mặc cho nhà trường.
Cần khẳng định rằng trách nhiệm giáo dục con cái phải được bắt đầu từ gia đình
và khơng một chính sách giáo dục nào có thể thay thế được sự chăm lo, săn sóc
của bố mẹ đối với các em.
Về mặt xã hội, định hướng thị hiếu văn hóa là nhiệm vụ hết sức quan
trọng của các cơ quan chức năng. Giáo dục văn hóa phải gắn với nhiều hoạt
động của đời sống xã hội. Các đoàn thể tổ chức xã hội như khối xóm nơi có học
sinh ở phải thường xuyên kiểm tra nếp sống văn hóa, tăng cường tuần tra, kiểm
tra các hiện tượng phản văn hóa để kịp thời thơng báo với nhà trường có biện
pháp xử lý. Có những hình thức xử lý thích đáng với những bộ phận, những đối
tượng có mục đích lợi dụng học sinh về cả tâm hồn và thể xác. Hạn chế những
14
tụ điểm ăn chơi (nhà hàng, nhà nghỉ, quán karaoke, dịch vụ cầm đồ…) chung
quanh địa bàn các trường học.
Một mơi trường văn hóa học đường được tạo dựng từ sự kết hợp giữa gia
đình, nhà trường và xã hội sẽ có sức đề kháng với những mầm bệnh, loại trừ
được những biểu hiện văn hóa khơng lành mạnh nảy sinh từ bên trong, góp phần
xây dựng mơi trường văn hóa học đường ngày càng hồn thiện, trong sáng. Đây
là vấn đề đáng suy ngẫm, bởi hơn lúc nào hết, văn hóa học đường phải nhận
được sự quan tâm của mỗi gia đình, nhà trường và của tồn xã hội.
Tóm lại, để xây dựng văn hóa học đường theo cấu trúc 3 tầng bậc của
E.H.Schein tại Trường Tiểu học Kim Giang, Quận Thanh Xuân, Hà Nội hiện
nay đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp quản lý và đặc biệt là sự chủ động,
quyết tâm và cầu thị của nhà trường. Và hơn bao giờ hết, chúng ta đang rất cần
những nhà giáo chân chính, những con người có bản lĩnh và cái tâm trong sáng
trong cuộc chiến chống nạn “xâm lăng văn hóa”. Dân tộc Việt nam là một đất
nước ngàn năm văn hiến, nhân dân Việt nam vốn có truyền thống hiếu học và
tơn trọng đạo lý. Chúng ta hãy chung tay góp sức phát huy truyền thống dân tộc,
giữ gìn bản sắc văn hóa của nhân cách con người Việt nam.
III. ĐỂ XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG, HIỆU TRƯỞNG
CẦN TẬP TRUNG VÀO NHỮNG NỘI DUNG NÀO? LIÊN HỆ VỚI
NHỮNG NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA KẾ HOẠCH XÂY DỰNG VĂN HÓA
NHÀ TRƯỜNG TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM GIANG, QUẬN THANH
XUÂN, HÀ NỘI
3.1. Để xây dựng văn hóa nhà trường, hiệu trưởng cần tập trung vào
những nội dung nào
Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn
trên mọi lĩnh vực. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, ngành giáo dục đã
đạt được những thành tựu cả về quy mô lẫn chất lượng. Tuy nhiên trong những
năm gần đây, đời sống văn hóa của học sinh có những biến đổi theo nhiều chiều
hướng khác nhau. Nền kinh tế, văn hóa, khoa học phát triển tạo điều kiện cho
học sinh được tiếp cận với nhiều kênh thơng tin, nhiều mơ hình học tập tiên tiến,
15
do đó đạt nhiều thành tích trong học tập và nghiên cứu khoa học. Ở thời điểm
này, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều biểu hiện chưa chuẩn về đạo đức
lối sống trên bình diện xã hội nói chung, học đường nói riêng.
Văn hóa học đường đang là một vấn đề thời sự nổi cộm không chỉ trong
các nhà trường mà trong cả toàn xã hội chúng ta hiện nay. Các nhà trường Việt
Nam đã kiên trì xây dựng văn hóa học đường từ năm này qua năm khác, từ thế
hệ này qua thế hệ khác và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên,
cho đến nay, thực tế biểu hiện của văn hóa học đường đang còn nhiều vấn đề
bức xúc, cần phải suy ngẫm. Hiện tượng học sinh, sinh viên có những hành vi lố
lăng, kệch cỡm, đánh mất vẻ đẹp văn hóa ở trường lớp, nơi công cộng, ký túc
xá… là khá phổ biến. Thực trạng này có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhưng chắc chắn có một nguyên nhân do văn hóa học đường chưa được đưa vào
phạm vi quản lý của nhà trường.
Chưa vội nói đến việc xây dựng cơ sở vật chất trường học khang trang,
đạt chuẩn (vì điều kiện kinh tế cịn nhiều khó khăn) mà hãy nói tới hai vấn đề:
xây dựng môi trường giáo dục và xây dựng văn hóa ứng xử, giao tiếp - những
nội dung khơng cần nhiều tiền cũng có thể làm tốt được. Bất cứ ai quan tâm đến
giáo dục cũng có thể chỉ ngay ra được những nơi chưa tốt về mơi trường giáo
dục. Các hiện tượng nói xấu người khác, dối trá, nói tục, chửi thề, cãi vã với cha
mẹ, người trên, vô lễ với thày cô giáo, xả rác bừa bãi, phá hoại mơi trường, tiêu
pha lãng phí, trộm cắp, đánh nhau, sống thử, coi thường pháp luật… diễn ra
ngày càng nhiều trong các nhà trường. Có thể nói, bộ phận học sinh, sinh viên
có những biểu hiện thiếu văn hóa ngày càng tăng dần.
Ngày nay, với những biến động mạnh mẽ của xã hội, những giá trị chuẩn
mực, nếp sống văn hóa học đường của học sinh có những thay đổi trong nhận
thức, thái độ, hành vi và thói quen ứng xử hàng ngày. Những tác động tiêu cực
đa chiều đã dẫn đến tình trạng bạo lực học đường, vi phạm pháp luật, phạm pháp
hình sự ngày một tăng. Tác động của kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ
đến thanh thiếu niên, nhất là học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao
16
đẳng. Vì vậy, thực trạng học sinh vơ lễ, trộm cắp, bỏ học, sa vào các tệ nạn xã
hội ngày càng trở thành vấn đề nóng.
Mối quan tâm của dư luận đến văn hóa học đường khơng phải là chuyện
ngẫu nhiên. Văn hóa học đường thực sự là yếu tố quan trọng quyết định tương
lai của đất nước và vận mệnh của cả dân tộc.
Trong trường tiểu học, hiệu trưởng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
quản lý mọi hoạt động của nhà trường. Phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống
của người hiệu trưởng ảnh hưởng đến sự phát triển chung và bản sắc văn hóa
riêng của nhà trường”. Vai trị hiệu trưởng trong phát triển văn hóa nhà trường
thể hiện trên các nội dung sau:
Định hướng các giá trị văn hóa. Hiệu trưởng quyết định việc hình thành
các chuẩn mực, giá trị cốt lõi, niềm tin trong nhà trường. Sự quan tâm, chú ý của
hiệu trưởng vào các vấn đề sẽ ảnh hưởng chi phối văn hóa nhà trường. Để phát
triển bản sắc văn hóa nhà trường, hiệu trưởng vừa thực hiện vai trò của một nhà
quản lý vừa thực hiện vai trò của một nhà lãnh đạo. Với vai trị lãnh đạo nhà
trường, hiệu trưởng chính là người định hướng và là tiêu biểu cho văn hóa nhà
trường, là tâm điểm thống nhất các giá trị trong trường học. Qua quá trình xây
dựng và lãnh đạo nhà trường, hệ tư tưởng, tính cách và những niềm tin, hoài bão
lớn lao của người hiệu trưởng sẽ định hình trong triết lý nghề nghiệp và nó được
phản chiếu lên văn hóa nhà trường.
Mỗi nhà trường đều có lịch sử tồn tại và phát triển. Sự tồn tại và phát triển
qua thời gian đã tạo ra những giá trị văn hóa nhất định. Do đó, hiệu trưởng cần
phải nhận ra đâu là những giá trị văn hóa đích thực, cốt lõi, có giá trị đặc trưng
của nhà trường tạo nên sự khác biệt về bản sắc với các trường khác để ni
dưỡng, vun trồng. Sự lựa chọn đó phản ánh kinh nghiệm, tài năng, cốt cách văn
hóa, cá tính và những triết lý, tầm nhìn riêng của người đứng đầu.
Trong q trình phát triển văn hóa nhà trường, việc nêu gương, tuân thủ
các giá trị chung của hiệu trưởng có vai trị vơ cùng quan trọng. Hiệu trưởng trở
thành một biểu tượng nhân cách văn hóa tiêu biểu trong việc thực hành các giá
17
trị văn hóa nhà trường để mọi thành viên tin tưởng đi theo con đường đã được
lựa chọn.
Động lực để đổi mới giáo dục. Văn hóa nhà trường là một vấn đề trong
quản trị chiến lược. Bên cạnh việc quyết định và xây dựng hệ giá trị văn hóa nhà
trường, hiệu trưởng phải là người đi đầu trong việc thực hiện mục tiêu đã đề ra,
chứng minh tính hiệu quả để làm động lực gắn kết mọi thành viên trong nhà
trường cùng thực hiện và noi theo.
Để xây dựng văn hóa nhà trường trong điều kiện phát triển xã hội hiện
nay, trước hết hiệu trưởng phải là tấm gương sáng về đạo đức văn hóa nhà giáo,
đồng thời cần phải hướng tới những giá trị văn hóa có tính biểu tượng, thể hiện
mục tiêu khát vọng mà tập thể nhà trường hướng tới.
Hiệu trưởng nhà trường là người xác định sự nghiệp của mình là hoạt động
và phát triển giáo dục. Việc tập trung thời gian, cơng sức, trí tuệ vào hoạt động
giáo dục, phát triển nhà trường trở thành niềm đam mê của họ và họ cảm thấy
được thỏa mãn và hạnh phúc lớn lao khi được cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Đó là động lực lớn để người hiệu trưởng hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình.
Trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế, người đứng đầu cần phải xây
dựng hệ thống quản lý theo phương thức hiện đại trên cơ sở quy trình hóa và
tiêu chuẩn hóa để có thể kiểm sốt được quá trình và chất lượng đầu ra. Hiệu
trưởng phải là người có khả năng nhạy bén, phản ứng nhanh và thích nghi với sự
đổi thay của mơi trường trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Hiệu trưởng ngày
nay phải thiết lập mối quan hệ với cộng đồng thông qua truyền thông và các mối
quan hệ xã hội, từ đối tượng người học, các đối tác, cơ quan quản lý, mọi cộng
đồng xã hội liên quan.
Để xây dựng văn hóa nhà trường trong điều kiện xã hội hiện nay, trước
hết hiệu trưởng phải là tấm gương sáng về đạo đức văn hóa nhà giáo, đồng thời
cần phải hướng tới những giá trị văn hóa có tính biểu tượng, thể hiện mục tiêu,
khát vọng mà tập thể nhà trường hướng tới.
Người hiệu trưởng cần có tính quyết đốn, độc lập, khơng thể lệ thuộc,
không thể chờ vào sự hướng dẫn của người khác để do dự, thụ động mà chỉ có
18
thể tham khảo mọi ý kiến, tư vấn để đưa ra quyết định một cách tự tin. Phải có
bản lĩnh thì mới đưa ra được quyết định chiến lược, các phương án hoạt động,
các mục tiêu dài hạn, ngắn hạn để lãnh đạo tổ chức đi đến thành công.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết thống nhất là nhân tố quyết định thắng lợi
của tập thể nhà trường. Trong môi trường sư phạm, giá trị của sự đoàn kết hết
sức quan trọng. Nó tạo ra bầu khơng khí vui vẻ, thoải mái, kích thích sự khám
phá, sáng tạo trong giảng dạy và nghiên cứu, đồng thời tạo ra môi trường thi đua
lành mạnh, phát huy được khả năng của các cá nhân và sức mạnh của tập thể,
cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Chính vì vậy, người đứng đầu nhà trường
phải ý thức và nêu gương về tinh thần đoàn kết, thân ái.
Lãnh đạo của trường, yếu tố hàng đầu của các hiệu trưởng là cải thiện quá
trình học tập của học sinh. Vì vậy việc nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên
được đặt ở vị trí hàng đầu của danh sách ưu tiên. Nhưng trước khi tìm hiểu qua
các số liệu và điều chỉnh các hoạt động của trường, hiệu trưởng nên nhớ rằng
một nền văn hóa trường học tích cực có thể có một tác động đáng kể đến sự
thành công của nhà trường.Hiệu trưởng sẽ khuyến khích nỗ lực và năng suất
cao hơn, cải thiện sự hợp tác trong trường học, hỗ trợ những nỗ lực cải tiến, đổi
mới và đổi mới thành công, xây dựng cam kết giữa học sinh và giáo viên trong
trường học, tăng động lực của giáo viên và học sinh.
3.2. Liên hệ với những nội dung cụ thể của kế hoạch xây dựng văn
hóa nhà trường tại Trường tiểu học Kim Giang, quận Thanh Xuân, Hà Nội
Lập kế hoạch kết nối giữa học sinh mới và giáo viên. Mỗi năm trường đều
đón những học sinh mới và cả những giáo viên mới. Trường tiểu học Kim Giang
phải lập kế hoạch một cách cụ thể để giúp những người mới hịa nhập vào văn
hóa của trường. Tại trường đều có chương trình học chuyển tiếp vào cuối năm
(ví dụ học sinh tiểu học sẽ có 1 tuần học tại trường trung học cơ sở) trong đó có
nội dung về chương trình của các mơn học và cả việc giới thiệu về văn hoá của
trường trước ngày khai trường. Mỗi học sinh đều phải tham dự các lớp học như
vậy để gặp giáo viên và các bạn mới của mình và tham gia vào các trải nghiệm
19
học tập. Tương tự như vậy, ở một số trường, học sinh tham gia một chương trình
dài hơn để hồn thành một dự án học tập để sẵn sàng cho các dự án đầu tiên khi
học sinh bắt đầu năm học. Những kinh nghiệm sâu sắc này cho phép giáo viên
và học sinh mới cảm thấy một cảm giác thuộc về một cộng đồng vào ngày đầu
tiên của năm học.
Luôn nhấn mạnh vào tầm nhìn và sứ mệnh của nhà trường. Trường tiểu
học Kim Giang phải đặt các mục tiêu tồn trường ở một nơi dễ nhìn để tồn bộ
cộng đồng trường học cảm thấy được chia sẻ ý thức về mục đích chung. Hiệu
trưởng cũng có thể nhắc lại tuyên bố về tầm nhìn sứ mệnh của nhà trường trong
các buổi sinh hoạt toàn trường và đưa ra các ví dụ về những học sinh hoặc lớp
học đang đại diện cho các giá trị đó. Khi nền văn hóa trường học mang tính tích
cực được tạo dựng, ngay cả những trường học mà các giáo viên và học sinh
không đủ trình độ nhưng họ vẫn có khả năng vượt qua hồn cảnh khó khăn đạt
được thành cơng trong học tập.
Tổ chức các buổi họp hoặc sinh hoạt toàn trường. Trường tiểu học Kim
Giang thường xuyên tổ chức buổi sinh hoạt tồn trường để tơn vinh những thành
tựu và nhấn mạnh đến kỳ vọng về hành vi trên quy mô toàn trường. Những buổi
lễ này thường bao gồm một bài hát của trường, thông báo của học sinh về các sự
kiện sắp tới, và đôi khi giới thiệu ngắn về cơng việc của học sinh. Ngồi xây
dựng tinh thần học tập và đồn kết, một thói quen hàng ngày như thế này giúp
hiệu trưởng tập trung vào bức tranh toàn cảnh với tư cách là một nhà lãnh đạo
Tạo động lực cho một trường học là một nỗ lực kéo dài suốt cả năm. Bằng cách
tập trung vào văn hoá trường học tích cực, hiệu trưởng có thể quản lí và điều
hành nhà trường thành công.
20
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế toàn cầu như hiện nay và nhất là khi Việt nam đã gia
nhập WTO với nhiều thời cơ và thách thức, mặt trái của nền kinh tế thị trường
và hội nhập đã tác động lớn đến xã hội nói chung cũng như giáo dục nói riêng,
nó làm cho bộ mặt văn hóa của xã hội dần bị biến dạng, và đã có nhiều biểu hiện
xuống cấp, tha hóa.
Hiện nay, một bộ phận khơng nhỏ thanh thiếu niên đua đòi ăn chơi, sa vào
các tệ nạn xã hội, thực trạng bạo lực học đường đến mức báo động; đạo đức nhà
giáo thì xuống cấp nghiêm trọng, tình trạng thiếu cơng bằng, gian lận trong thi
cử, chuyện mua bán các kết quả học tập khơng cịn là xa lạ...
Từ thực trạng trên, việc xây dựng văn hóa nhà trường là vô cùng cần thiết
trong bối cảnh hiện nay. Nó địi hỏi sự vào cuộc của các cấp quản lý và đặc biệt là
sự chủ động, quyết tâm và cầu thị của các trường. Và hơn bao giờ hết, chúng ta
đang rất cần những nhà giáo chân chính, những con người có bản lĩnh và cái tâm
trong sáng trong cuộc chiến chống nạn “xâm lăng văn hóa” [3, tr.80]. Dân tộc Việt
nam là một đất nước ngàn năm văn hiến, nhân dân Việt nam vốn có truyền thống
hiếu học và tôn trọng đạo lý. Chúng ta hãy chung tay góp sức phát huy truyền
thống dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa của nhân cách con người Việt Nam.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Hạc (2013), Giáo dục giá trị xây dựng văn hóa học đường.
Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 17, tr 5-12.
2. Nguyễn Khắc Hùng (2012), Giáo dục văn hóa học đường - Yếu tố quan
trọng rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, sinh viên, Tạp chí Khoa học Giáo
dục, số 81, tr 43-44.
3. Nguyễn Quốc Nam (2014), Sự cần thiết xây dựng mô hình văn hóa nhà
trường trung học phổ thơng theo hướng đổi mới giáo dục hiện nay, Tạp chí Quản
lí Giáo dục, số 65, tr 34-37.1.
4. Phạm Quang Thắng (2016), Văn hóa tổ chức - hình thái cốt lõi của văn
hóa nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Vinh (2017), Văn hóa tổ chức và lãnh đạo, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
22