Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Đánh giá chức năng vận động và nhận thức ở bệnh nhân cao tuồi có đái tháo đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.33 KB, 94 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HIỀN

ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG VÀ NHẬN THỨC
Ở BỆNH NHÂN CAO TUỔI CÓ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CHUYÊN KHOA II
KHÓA 2016 - 2018

HÀ NỘI – 2017


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HIỀN
ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG VÀ NHẬN THỨC
Ở BỆNH NHÂN CAO TUỔI CÓ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG


Chuyên ngành : Nội khoa
Mã số

: 60720140

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CHUYÊN KHOA II
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Vũ Thị Thanh Huyền

HÀ NỘI – 2017


3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADA
ADL
Anti GAD
BMI
CGA
ĐTĐ
EGS
GDS
IADL
ICA
IDF
MNA
MOCA
PACE
SDD

TUG
WHO

American Diabetes Association
(Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ)
Activities of Daily Living (Hoạt động sống hàng ngày)
Anti glutamic acid decarboxylase Antibodies
(Kháng thể kháng GAD)
Body mass index (Chỉ số khối cơ thể)
Comprehensive Geriatric Assessment
(Đánh giá lão khoa toàn diện)
Đái tháo đường
European Geriatrics Society (Hội lão khoa Châu Âu)
Geriatric depression Scale
(Thang điểm trầm cảm dành cho người cao tuổi)
Instrumental Activities of Daily Living
(Hoạt động sống hàng ngày có sử dụng dụng cụ phương tiện)
Islet Cell Antibodies (Kháng thể kháng tế bào tiểu đảo)
International Diabetes Federation
(Hiệp hội Đái tháo đường quốc tế)
Mini Nutritional Assessment (Đánh giá dinh dưỡng tối thiểu)
Montreal Cognitive Assessment
(Trắc nghiệm đánh giá nhận thức Montreal)
Program of All-Inclusive Care for the Elderly
(Chương trình chăm sóc tổng thể dành cho người cao tuổi)
Suy dinh dưỡng
Timed up and go (Trắc nghiệm hoạt động Timed up and go)
World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)



4

MỤC LỤC


5

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chức năng vận động và nhận thức là hoạt động thần kinh cao cấp chỉ có ở
con người. Theo từ điển y học Dorland 2000: “Nhận thức là hoạt động của trí
óc qua đó con người hiểu biết về sự vật hiện tượng được phản ánh trong suy
nghĩ. Nhận thức bao gồm tất cả các mặt của sự hiểu biết, suy nghĩ và ghi nhớ”.
Trên phương diện sinh lý thần kinh “ Nhận thức có thể hiểu là q trình tiếp
nhận, xử trí, lưu trữ, và sử dụng các thơng tin” có liên quan chặt chẽ với hoạt
động chức năng và giải phẫu của não. Chức năng nhận thức là các hoạt động
nhận thức như hoạt động trí nhớ, cảm giác, tri giác, chú ý định hướng tư duy…
Chức năng vận động và chức năng nhận thức liên quan đến khả năng
khái quát hóa, trừu tượng hóa, lập kế hoạch khởi đầu, thực hiện các bước tiếp
theo, theo dõi và ngừng một phức hợp các hoạt động. Khả năng khái quát hóa
được đánh giá bằng các yêu cầu người bệnh tìm những từ giống hay khác
nhau trong danh sách từ [1].
Suy giảm chức năng nhận thức là suy giảm khả năng khái quát hóa, trừu
tượng hóa biểu hiện là người bệnh khó khăn khi thực hiện một nhiệm vụ mới
và người bệnh tránh né các tình huống địi hỏi phải xử lý những thông tin mới
và phức tạp [2]. Suy giảm chức năng nhận thức cũng thể hiện ở sự giảm khả
năng chuyển trạng thái tâm trí, giảm khả năng cung cấp các thông tin mới
dưới dạng lời nói hoặc khơng và điều hành một chuỗi các hành động [1], [3].
Thay đổi trong chức năng điều hành có liên quan đến nguy cơ bị ngã cao [4].
Suy giảm chức năng vận động và nhận thức làm người bệnh tăng số lần nhập
viện, tăng tỷ lệ tử vong, còn là gánh nặng kéo dài đối với gia đình, người

chăm sóc và hệ thống y tế [5].
Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hóa glucid mãn tính, đặc trưng
bởi tình trạng tăng đường máu và các rối loạn chuyển hóa glucid, lipid, protid.
Do giảm tuyệt đối hoặc tương đối tác dụng của insulin và hoặc tiết insulin dẫn


6

đến sự phát triển của các bệnh liên quan và biến chứng như võng mạc, thận,
thần kinh ngoại vi, mất mát sự di chuyển của khớp và sức mạnh cơ bắp [2].
Chức năng vận động và nhận thức cũng bị suy giảm ở người bị đái tháo
đường [6]. Đặc biệt người cao tuổi bị đái tháo đường có hoạt động kém hơn
về chức năng di chuyển, nhiệm vụ kép và nhận thức dẫn đến sự suy giảm về
chức năng huy động và chức năng điều hành ở người cao tuổi, nguy cơ ngã
cao so với người cao tuổi không bị đái tháo đường [7]. Hậu quả tăng tỷ lệ tử
vong, nhập viện và tái nhập viện, dễ ngã giảm khả năng độc lập và giảm chất
lượng cuộc sống.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này, để
tăng cương chăm sóc bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi. Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá chức năng vận động và nhận thức ở bệnh
nhân cao tuồi có đái tháo đường”, với mục tiêu:
1.

Đánh giá chức năng vận động và nhận thức ở bệnh nhân cao tuổi có

2.

đái tháo đường.
Nhận xét một số yếu tố liên quan đến chức năng vận động và nhận
thức ở nhóm đối tượng trên.



7

Chương 1
TỔNG QUAN
1. Tổng quan về bệnh đái tháo đường.
1.1.

Định nghĩa bệnh đái tháo đường.
Theo Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (IDF) năm 2010, định nghĩa

đái tháo đường: “Đái tháo đường là nhóm những rối loạn khơng đồng nhất
gồm tăng đường huyết và rối loạn dung nạp glucose do thiếu insulin, do giảm
tác dụng của insulin hoặc cả hai. Đái tháo đường type 2 đặc trưng bởi kháng
insulin và thiếu tương đối insulin, một trong hai rối loạn này có thể xuất hiện
ở thời điểm có triệu chứng lâm sàng bệnh đái tháo đường” [9].
Hiện nay, theo Tổ chức Y tế Thế giới, “Đái tháo đường là một hội
chứng có đặc tính biểu hiện bằng sự tăng đường máu do hậu quả của việc
mất hoàn toàn insulin hoặc là do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết
hoặc hoạt động của insulin" [10].
1.2.

Phân loại bệnh đái tháo đường
1.2.1. Đái tháo đường type 1.
Đái tháo đường type 1 chiếm tỷ lệ khoảng 5 - 10% tổng số bệnh nhân

đái tháo đường thế giới. Nguyên nhân do tế bào bê - ta bị phá hủy, gây nên
sự thiếu hụt insulin tuyệt đối cho cơ thể (nồng độ insulin giảm thấp hoặc mất
hoàn toàn). Các kháng nguyên bạch cầu người (HLA) chắc chắn có mối liên

quan chặt chẽ với sự phát triển của đái tháo đường type 1 [11].
Đái tháo đường type 1 phụ thuộc nhiều vào yếu tố gen và thường được
phát hiện trước 40 tuổi. Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và trẻ vị thành
niên biểu hiện nhiễm toan ceton là triệu chứng đầu tiên của bệnh. Đa số các
trường hợp được chẩn đoán bệnh đái tháo đường type 1 thường là người có
thể trạng gầy, tuy nhiên người béo cũng không loại trừ. Người bệnh đái tháo
đường type 1 sẽ có đời sống phụ thuộc insulin hoàn toàn.


8

Có thể có các dưới nhóm:
- Đái tháo đường qua trung gian miễn dịch.
- Đái tháo đường type 1 không rõ nguyên nhân.
1.2.2. Đái tháo đường type 2.
Đái tháo đường type 2 chiếm tỷ lệ khoảng 90% đái tháo đường trên
thế giới, thường gặp ở người trưởng thành trên 40 tuổi. Nguy cơ mắc bệnh
tăng dần theo tuổi. Tuy nhiên, do có sự thay đổi nhanh chóng về lối sống, về
thói quen ăn uống, đái tháo đường type 2 ở lứa tuổi trẻ đang có xu hướng
phát triển nhanh.
Đặc trưng của đái tháo đường type 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu
hụt tiết insulin tương đối [12]. Đái tháo đường type 2 thường được chẩn đốn
rất muộn vì giai đoạn đầu tăng glucose máu tiến triển âm thầm không có
triệu chứng. Khi có biểu hiện lâm sàng thường kèm theo các rối loạn khác về
chuyển hoá lipid, các biểu hiện bệnh lý về tim mạch, thần kinh, thận…,
nhiều khi các biến chứng này đã ở mức độ rất nặng.
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc đái tháo đường type 2 từ 80% đến 90% tổng
số bệnh nhân bị đái tháo đường và có thể phịng ngừa được nếu từ bỏ hoặc
giảm các yếu tố nguy cơ [13]. Do đó, trong khuôn khổ luận án này chỉ đề cập
bệnh tiền đái tháo đường - đái tháo đường type 2.

1.2.3. Đái tháo đường thai nghén.
Đái đường thai nghén thường gặp ở phụ nữ có thai, có glucose máu tăng,
gặp khi có thai lần đầu. Sự tiến triển của đái tháo đường thai nghén sau đẻ theo
3 khả năng: Bị đái tháo đường, giảm dung nạp glucose, bình thường [14].
1.2.4. Một số thể đái tháo đường hiếm gặp.
Nguyên nhân liên quan đến một số bệnh, thuốc, hoá chất.
- Khiếm khuyết chức năng tế bào bê - ta.


9

- Khiếm khuyết gen hoạt động của insulin.
- Bệnh tụy ngoại tiết: Viêm tụy, chấn thương, carcinom tụy…
- Các bệnh nội tiết: Hội chứng Cushing, cường năng tuyến giáp…
- Thuốc hoặc hóa chất.
- Các thể ít gặp qua trung gian miễn dịch.
1.3.

Chẩn đoán bệnh đái tháo đường.
Hiện tại, Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ đã đưa ra tiêu chuẩn chẩn

đoán bệnh Đái tháo đường mới nhất, cập nhật năm 2015. Theo đó có 4 tiêu
chuẩn sau để chẩn đốn [17]:
- Nồng độ HbA1C ≥ 6,5%.
Xét nghiệm này phải được thực hiện ở labo bằng phương pháp chuẩn
theo chứng chỉ NGSP và tiêu chuẩn để khảo nghiệm Kiểm soát tiểu đường và
các biến chứng có thể.
- Glucose trong máu lúc đói ≥ 126mg/dL hay 7,0 mmol/L
Lúc đói được xác định là khơng dung nạp calo trong vịng 8 giờ.
- Glucose huyết tương sau 2 giờ làm nghiệm pháp dung nạp 75g glucose

≥ 200 mg/dL hay 11,1 mmol/L.
Thực hiện như mô tả hướng dẫn của WHO, sử dụng đường có chứa
tương đương với glucose khan 75g hòa tan trong nước.
- Glucose trong máu bất kỳ thời điểm nào ≥ 200mg/dL hay 11,1 mmol/L
Áp dụng ở những người có triệu chứng tăng đường huyết hay tăng
đường huyết đột ngột.
Với nghiên cứu này, chúng tôi sửa dụng tiêu chuẩn trên của Hiệp hội
Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) năm 2015.
1.4.

Biến chứng của bệnh đái tháo đường.
Đái tháo đường nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời

bệnh sẽ tiến triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính.


10

Bệnh nhân có thể tử vong do các biến chứng này.
1.4.1. Biến chứng cấp tính.
Biến chứng cấp tính thường là hậu quả của chẩn đốn muộn, nhiễm
khuẩn cấp tính hoặc điều trị khơng thích hợp. Ngay cả khi điều trị đúng, hôn
mê nhiễm toan ceton và hôn mê tăng áp lực thẩm thấu vẫn có thể là hai biến
chứng nguy hiểm.
Nhiễm toan ceton là biểu hiện nặng của rối loạn chuyển hóa glucid do
thiếu insulin gây tăng glucose máu, tăng phân hủy lipid, tăng sinh thể ceton
gây toan hóa tổ chức. Mặc dù y học hiện đại đã có nhiều tiến bộ về trang
thiết bị, điều trị và chăm sóc, tỷ lệ tử vong vẫn cao 5 - 10%.
Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu là tình trạng rối loạn chuyển hóa
glucose nặng, đường huyết tăng cao. Hơn mê tăng áp lực thẩm thấu chiếm 5

- 10%. Ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 nhiều tuổi, tỷ lệ tử vong từ 30 50% [11].
1.4.2. Biến chứng mạn tính.
1.4.2.1. Biến chứng tim – mạch.
Bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường là biến chứng thường
gặp và nguy hiểm. Mặc dù có nhiều yếu tố tham gia gây bệnh mạch vành,
nhưng các nghiên cứu cho thấy nồng độ glucose máu cao làm tăng nguy cơ
mắc bệnh mạch vành và các biến chứng tim mạch khác. Người đái tháo
đường có bệnh tim mạch là 45%, nguy cơ mắc bệnh tim mạch gấp 2 - 4 lần
so với người bình thường. Nguyên nhân tử vong do bệnh tim mạch chung
chiếm khoảng 75% tử vong ở người bệnh đái tháo đường, trong đó thiếu máu
cơ tim và nhồi máu cơ tim là nguyên nhân gây tử vong lớn nhất. Một nghiên
cứu được tiến hành trên 353 bệnh nhân đái tháo đường type 2 là người Mỹ
gốc Mêhicơ trong 8 năm thấy có 67 bệnh nhân tử vong và 60% là do bệnh
mạch vành [10].


11

Tăng huyết áp thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường, tỷ lệ mắc bệnh
chung của tăng huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường gấp đơi so với người
bình thường. Trong đái tháo đường type 2, 50% đái tháo đường mới được
chẩn đốn có tăng huyết áp. Tăng huyết áp ở người đái tháo đường type 2
thường kèm theo các rối loạn chuyển hoá và tăng lipid máu [18] [19].
Ngoài ra, tỷ lệ biến chứng mạch não ở bệnh nhân đái tháo đường gấp
1,5 - 2 lần, viêm động mạch chi dưới gấp 5 - 10 lần so với người bình
thường.
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Tạ Văn Bình, khoảng 80% bệnh
nhân đái tháo đường mắc thêm các bệnh liên quan đến tim mạch [10].
1.4.2.2. Biến chứng thận.
Biến chứng thận do đái tháo đường là một trong những biến chứng

thường gặp, tỷ lệ biến chứng tăng theo thời gian. Bệnh thận do đái tháo
đường khởi phát bằng protein niệu; sau đó khi chức năng thận giảm xuống,
ure và creatinin sẽ tích tụ trong máu.
Bệnh thận do đái tháo đường là nguyên nhân thường gặp nhất gây suy
thận giai đoạn cuối. Với người đái tháo đường type 1, mười năm sau khi biểu
hiện bệnh thận rõ ràng, khoảng 50% tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối và
sau 20 năm sẽ có khoảng 75% số bệnh nhân trên cần chạy thận lọc máu chu
kỳ. Khả năng diễn biến đến suy thận giai đoạn cuối của bệnh nhân đái tháo
đường type 2 ít hơn so với bệnh nhân đái tháo đường type 1, song số lượng
bệnh nhân đái tháo đường type 2 chiếm tỷ lệ rất lớn nên thực sự số bệnh
nhân suy thận giai đoạn cuối chủ yếu là bệnh nhân đái tháo đường type 2.
Để theo dõi bệnh thận đái tháo đường có thể định lượng microalbumin
niệu, đo mức lọc cầu thận, định lượng protein niệu/ 24 giờ. Ngày nay, nhiều
phòng xét nghiệm chọn phương pháp định lượng protein niệu trong mẫu
nước tiểu qua đêm.


12

1.4.2.3. Bệnh lý mắt ở bệnh nhân đái tháo đường.
Đục thuỷ tinh thể là tổn thương thường gặp ở bệnh nhân đái tháo
đường, có vẻ tương quan với thời gian mắc bệnh và mức độ tăng đường
huyết kéo dài. Đục thuỷ tinh thể ở người đái tháo đường cao tuổi sẽ tiến triển
nhanh hơn người không đái tháo đường.
Bệnh lý võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu của mù ở
người 20 - 60 tuổi. Bệnh biểu hiện nhẹ bằng tăng tính thấm mao mạch, ở giai
đoạn muộn hơn bệnh tiến triển đến tắc mạch máu, tăng sinh mạch máu với
thành mạch yếu dễ xuất huyết gây mù loà. Sau 20 năm mắc bệnh, hầu hết
bệnh nhân đái tháo đường type 1 và khoảng 60% bệnh nhân đái tháo đường
type 2 có bệnh lý võng mạc do đái tháo đường.

1.4.2.4. Bệnh lý thần kinh do đái tháo đường.
Bệnh thần kinh do đái tháo đường gặp khá phổ biến, ước tính khoảng
30% bệnh nhân đái tháo đường có biểu hiện biến chứng này. Người bệnh đái
tháo đường type 2 thường có biểu hiện thần kinh ngay tại thời điểm chẩn đoán.
Bệnh thần kinh do đái tháo đường thường được phân chia thành các
hội chứng lớn sau: Viêm đa dây thần kinh, bệnh đơn dây thần kinh, bệnh
thần kinh thực vật, bệnh thần kinh vận động gốc chi.
1.4.2.5. Một số biến chứng khác.
- Bệnh lý bàn chân: Bệnh lý bàn chân đái tháo đường ngày càng được quan
tâm do tính phổ biến của bệnh. Bệnh lý bàn chân đái tháo đường do sự phối
hợp của tổn thương mạch máu, thần kinh ngoại vi và cơ địa dễ nhiễm khuẩn
do glucose máu tăng cao. Một thông báo của WHO tháng 3 - 2005 cho thấy
có tới 15% số người mắc bệnh đái tháo đường có liên quan đến bệnh lý bàn
chân, 20% số người phải nhập viện do nguyên nhân bị loét chân. Bệnh nhân
đái tháo đường phải cắt cụt chi dưới nhiều gấp 15 lần so với người không bị
đái tháo đường, chiếm 45 - 70% tổng số các trường hợp cắt cụt chân [20].


13

Tỷ lệ cắt cụt của người bị biến chứng bàn chân đái tháo đường của Việt
Nam cũng khá cao, khoảng 40% tổng số người có bệnh lý bàn chân đái tháo
đường [21].
- Nhiễm khuẩn: Bệnh nhân bị đái tháo đường thường nhạy cảm với tất cả các
loại nhiễm khuẩn do có nhiều yếu tố thuận lợi. Có thể gặp nhiễm khuẩn ở
nhiều cơ quan như: viêm đường tiết niệu, viêm răng lợi, viêm tủy xương,
viêm túi mật sinh hơi, nhiễm nấm … [22].
Đánh giá bệnh nhân người cao tuổi đái tháo đường type 2
Một số khái niệm:
- Người cao tuổi: Theo quyết định của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban

2.
2.1.

hành số 39/2009/QH12 về luật người cao tuổi thì người cao tuổi được quy
định là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
- Q trình lão hóa: q trình lão hóa xảy ra trong tồn cơ thể với các mức độ
khác nhau làm giảm hiệu lực của các cơ chế tự điều chỉnh của cơ thể, giảm
khả năng thích nghi, bù trừ do đó khơng đáp ứng được những đòi hỏi của sự
sống. Nhưng thực trạng của một cơ thể già khơng phải là sự cộng lại máy
móc, giản đơn của tất cả các biến đổi nói trên. Đồng thời, cùng với sự giảm
hiệu lực của các chức năng, của mọi q trình chuyển hóa, xuất hiện những
cơ cấu thích nghi mới, đảm bảo tính ổn định nội môi, với một thế cân bằng,
nhịp đổi mới. Tốc độ lão hóa phục thuộc vào sự vận động của hai q trình
đó. Đặc tính chung nhất của sự lão hóa là tính khơng đồng thì và đồng tốc,
nghĩa là mọi bộ phận trong cơ thể không già cùng một lần và với tốc độ như
nhau, có bộ phận già trước, có bộ phận già sau, có bộ phận già nhanh, có bộ
phận già chậm.
- Chức năng nhận thức và vận động liên quan đến khả năng khái quát hóa, trừu
tượng hóa, lập kế hoạch khởi đầu, thực hiện các bước tiếp theo, theo dõi và
ngừng một phức hợp các hoạt động. Khả năng khái quát hóa được đánh giá
bằng các yêu cầu người bệnh tìm những từ giống hay khác nhau trong danh


14

sách từ [1].
- Suy giảm khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa có thể biểu hiện là người
bệnh khó khăn khi thực hiện một nhiệm vụ mới và người bệnh tránh né các
tình huống địi hỏi phải xử lý những thông tin mới và phức tạp. Suy giảm
chức năng điều hành cũng thể hiện ở sự giảm khả năng chuyển trạng thái tâm

trí, giảm khả năng cung cấp các thơng tin mới dưới dạng lời nói hoặc khơng
và điều hành một chuỗi các hành động [1]. Suy giảm chức năng nhận thức
cũng gây ảnh hưởng đến các hoạt động hàng ngày (ví dụ như làm việc, lập kế
hoạch, tính toán thu chi). Thay đổi trong chức năng điều hành có liên quan đến

2.2.1.

nguy cơ bị ngã cao [3], [6].
2.2.
Đánh giá người bệnh cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type 2
Suy giảm chức năng và khuyến tật ở bệnh nhân đái tháo đường
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy bệnh đái tháo đường có liên
quan đến suy giảm chức năng và khuyết tật, và điều này cũng có thể dẫn đến
bất lợi xã hội. Mức phổ rộng các biến chứng mạch máu, mất bù chuyển hóa
cấp tính, tác dụng phụ của thuốc, và các ảnh hưởng của các điều kiện về dinh
dưỡng và hành vi lối sống, tất cả có thể tạo ra các mức độ khác nhau suy
và/hoặc khuyết tật. Những thay đổi này có thể có tác dụng phục hồi bất lợi về
tính dễ tổn thương đến bệnh lý khác, khả năng độc lập và chất lượng cuộc
sống. Tuổi cao, bản thân nó ngay cả trong trường hợp khơng có điều kiện
chẩn đốn cụ thể, có liên quan với tình trạng khuyết tật cho thấy rằng khả
năng phịng ngừa bệnh hoặc cải thiện sẽ chỉ có hiệu lực một phần.
Trong một nghiên cứu kiểm tra mối quan hệ giữa các bệnh lý mãn tính
khác nhau và khuyết tật, một cuộc khảo sát từ Madrid, Tây Ban Nha năm
2002 [40], 1.001 đối tượng từ 65 tuổi trở lên sống ở nhà cho thấy rằng bệnh
đái tháo đường là một trong 4 bệnh mãn tính (bao gồm: đái tháo đường, bệnh
lý mạch não, trầm cảm, chứng rối loạn lo âu) và có mối liên quan mạnh mẽ với
tình trạng khuyết tật (OR: 2.18,1.24-3.83). Trong một nghiên cứu kết luận rằng


15


sức mạnh của nắm tay là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về tỷ lệ tử vong ở người
cao tuổi Mỹ gốc Mexico, sự hiện diện của bệnh đái tháo đường (cùng với tăng
huyết áp và ung thư) đã được tìm thấy là một yếu tố dự báo có ý nghĩa của tử
vong 5 năm [41]. Bệnh đái tháo đường là một trong nhiều yếu tố liên quan với
những kết quả chức năng tồi tệ hơn trong một nghiên cứu thuần tập tương lai
dựa vào dân số Group Health Cooperative Study từ Seattle, Hoa Kỳ với hơn
2.500 đối tượng từ 65 tuổi trở lên qua một thời gian theo dõi 3.4 năm.
Điều tra dinh dưỡng và sức khỏe Quốc gia lần thứ ba (NHANES III)
[43] là một nghiên cứu cắt ngang đại diện quốc gia của công dân Hoa Kỳ,
phát hiện rằng bệnh đái tháo đường là một nguyên nhân chính của tình trạng
khuyết tật về thể chất trong số các đối tượng độ tuổi từ 60 tuổi trở lên. Khuyết
tật ít nhất một trong những nhiệm vụ kiểm tra thể chất đã được báo cáo ở 63%
phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường (có kiểm sốt, 42%) và 39% nam giới mắc
bệnh tiểu đường (có kiểm sốt, 25%) với sự liên quan mạnh mẽ hơn giữa bệnh
đái tháo đường và các hình thức nghiêm trọng của khuyết tật. Bệnh đái tháo
đường đã được chứng minh làm tăng gấp 2-3 lần khả năng mắc một rối loạn vận
động, cùng với bệnh tim mạch trở thành mối nguy cơ lớn cho khuyết tật năng ở
cả hai giới, trong đó đột quỵ là một nguy cơ quan trọng của nam giới.
Nghiên cứu lão hóa và sức khỏe của phụ nữ (2002) [44] tại Hoa Kỳ đã
kiểm tra mối quan hệ giữa khuyết tật chi dưới và bệnh đái tháo đường ở 1.002
phụ nữ khuyết tật từ 65 tuổi trở lên. Sau khi điều chỉnh tuổi, phụ nữ mắc bệnh
đái tháo đường có tỷ lệ lớn hơn của rối loạn vận động (OR,1,85, 95% CI 1,123,06), khiếm khuyết các hoạt động sống hàng ngày (OR, 1,61, 1,06-2,43) và
hạn chế đi lại nặng (OR, 2,34, 1,56-3,50). Yếu tố góp phần giải thích một số
các liên quan này bao gồm bệnh động mạch ngoại biên, rối loạn chức năng
thần kinh ngoại vi và trầm cảm. Những yếu tố trung gian đáng kể khác của
mối liên hệ giữa bệnh đái tháo đường và các khuyết tật khác nhau bao gồm


16


béo phì, suy giảm thị giác và bệnh tim mạch. Trong nghiên cứu thuần tập
quan sát dọc tại Mỹ trên phụ nữ da trắng ở cộng đồng độ tuổi từ 65-99 (trung
bình 71,7), bệnh đái tháo đường làm tăng 42% nguy cơ của bất kỳ khuyết tật
liên quan và tăng 53-98% nguy cơ các khuyết tật cho các nhiệm vụ cụ thể, ví
dụ như đi bộ 2-3 block trên mặt đất, hoặc làm việc nhà [45].
2.2.2.

Rối loạn chức năng nhận thức và bệnh đái tháo đường

Suy giảm chức năng nhận thức đã được chứng minh ở người cao tuổi mắc
bệnh đái tháo đường typ 2, nhưng các nghiên cứu nói chung không dựa trên
dân số, những đối tượng sa sút trí tuệ đã bị loại trừ, và thường được sử dụng
một loạt lớn các xét nghiệm để tìm ra các thiếu sót về nhận thức. Các nghiên
cứu dựa vào cộng đồng khác nhau đã cho thấy chức năng nhận thức tồi tệ hơn
ở bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi, sử dụng các bài kiểm tra đơn giản như
Folstein MMSE, thang điểm tâm thần rút gọn (Abbreviated Mental Score AMS), và các thử nghiệm đồng hồ (Clock Test). Nghiên cứu Zutphen (1995)
và nghiên cứu Kuopio (1998) [46] đã chỉ ra rằng giảm dung nạp glucose
(IGT) có liên quan đến rối loạn chức năng nhận thức, và tăng insulin huyết
thanh có thể được liên quan với giảm chức năng nhận thức và sa sút trí tuệ ở
phụ nữ. Nghiên cứu Rotterdam (1996) [47] cũng từng chỉ ra rằng bệnh đái
tháo đường typ 2 có thể phối hợp liên quan với cả bệnh Alzheimers và bệnh lú
lẫn não mạch, và nghiên cứu Rochester (1997) đã chứng minh rằng nguy cơ
sa sút trí tuệ tăng lên đáng kể ở bệnh đái tháo đường typ 2 cho cả nam và nữ.
Trong nghiên cứu theo dõi 7 năm Hisayama [48], Bệnh đái tháo đường typ 2
có liên quan với tăng nguy cơ phát triển chứng lú lẫn não mạch. Kiểm sốt
đường huyết kém có thể liên quan với suy giảm nhận thức và có thể phục hồi
sau khi được cải thiện kiểm soát đường huyết. Một nghiên cứu thuần tập
tương lai gần đây với 682 phụ nữ tự báo cáo bị đái tháo đường (tuổi trung
bình của dân số mẫu là 72 tuổi) theo dõi trong 6 năm đã chỉ ra rằng có sự gia



17

tăng gấp 2 lần nguy cơ suy giảm nhận thức và tăng 74% nguy cơ suy mòn
nhận thức [49]. Phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường trong thời gian dài hơn 15
năm có sự gia tăng gấp 3 lần suy giảm nhận thức ở mức cơ bản và tăng gấp
đôi nguy cơ suy mòn nhận thức.
Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng tăng huyết áp thực chất
có mối liên hệ nghịch với khả năng nhận thức, và nghiên cứu Honolulo-Asia
(1995) [50] đã chứng minh có mối liên quan giữa mức độ huyết áp giữa cuộc
đời và chức năng nhận thức ở cuối cuộc đời. Nghiên cứu Uppsala (1998) [51]
đã chứng minh rằng tăng huyết áp có liên quan đến suy mòn nhận thức ở 999
nam giới theo dõi 20 năm. Trong nghiên cứu Framingham (1997) [52], đái
tháo đường typ 2 và tăng huyết áp đã được tìm thấy là các yếu tố nguy cơ
quan trọng nhưng độc lập với hoạt động nhận thức kém (dựa trên bài kiểm tra
về tổ chức thị giác và trí nhớ) trong một mẫu nghiên cứu thuần tập tương lai lớn
theo dõi hơn 20 năm. Mối quan hệ giữa suy mòn nhận thức với sự hiện diện của
một trong hai bệnh đái tháo đường và cao huyết áp cũng được quan sát thấy
trong nghiên cứu nguy cơ xơ vữa động mạch trong cộng đồng ARIC (2011) [53]
được tiến hành trong 6 năm, theo dõi gần 11.000 người trong độ tuổi từ 47-70
tuổi tại thời điểm đánh giá ban đầu. Tăng insulin ở bệnh nhân tăng huyết áp cũng
đã được chứng minh có liên quan đến hoạt động nhận thức kém hơn.
Có một số lợi ích khác nhau từ việc phát hiện sớm suy giảm nhận thức
ở những người cao tuổi bị đái tháo đường trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng
của các bài kiểm tra về nhận thức là một phần của việc đánh giá chức năng ở
tất cả các bệnh nhân cao tuổi. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng, rối loạn
chức năng nhận thức ở bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi có thể có những tác
động kèm theo đáng kể trong đó bao gồm tăng nguy cơ nhập viện, giảm khả
năng tự chăm sóc, giảm khả năng theo dõi chuyên sâu và tăng nguy cơ phải

vào các cơ sở chăm sóc cộng đồng.


18

Bảng 1.2: Lợi ích của việc phát hiện sớm suy giảm nhận thức ở bệnh nhân
đái tháo đường
- Định hướng các bác sĩ lâm sàng để xem xét sự hiện diện của bệnh mạch máu
não và xem xét các yếu tố nguy cơ tim mạch khác.
- Có thể là một dấu hiệu dự báo sớm của bệnh Alzheimers và cung cấp thêm lí do
sớm để điều trị thuốc.
- Cho phép các bệnh nhân và gia đình được hưởng lợi ích sớm với kế hoạch tài
chính và xã hội, đồng thời giúp tiếp cận thơng tin về các nhóm hỗ trợ và tư vấn.
- Tạo cơ hội để xem xét can thiệp suy giảm nhận thức liên quan đến bệnh đái tháo
đường: kiểm soát đường huyết tối ưu, kiểm soát huyết áp và mỡ máu.
Chức năng nhận thức bị suy yếu có thể dẫn đến việc tuân thủ kém với
điều trị, kiểm soát đường huyết kém hơn do thất thường của chế độ ăn và
thuốc men và làm tăng nguy cơ hạ đường huyết nếu bệnh nhân quên rằng
mình đã dùng thuốc hạ đường huyết và lặp đi lặp lại các liều.
2.2.3.

Trầm cảm và bệnh đái tháo đường
Bệnh đái tháo đường liên quan có ý nghĩa với trầm cảm, độc lập với

tuổi tác, giới tính, hay sự hiện diện của các bệnh mãn tính trong một số
nghiên cứu. Trong khi ở các nghiên cứu khác, sự hiện diện của bệnh đái tháo
đường làm tăng gấp đôi tỷ lệ trầm cảm đang phát triễn [54]. Phát hiện trầm
cảm là dấu hiệu riêng dự báo quan trọng nhất của tử vong đến sau ở nhóm các
bệnh nhân đái tháo đường nhập viện. Thất bại trong việc nhận ra trầm cảm có
thể nghiêm trọng vì nó là một mối đe dọa tính mạng trong thời gian dài, khó

kiểm sốt bệnh tật và tác động đáng kể đến chất lượng cuộc sống [55]. Trầm
cảm có thể liên quan với kiểm soát bệnh đái tháo đường ngày càng kém và
giảm tuân thủ điều trị. Trong dự án dịch tễ học Baltimore (1996), sau 13 năm
theo dõi hơn 3.400 cư dân trong hộ gia đình (khoảng 1 trong 7 người từ 65


19

tuổi trở lên), bệnh đái tháo đường typ 2 được xác nhận là nguy cơ gây rối loạn
trầm cảm nặng với OR sau điều chỉnh là 2,23 [56].
Đánh giá chức năng ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi

2.2.4.

Đánh giá về tình trạng chức năng cần có một cách tiếp cận đa ngành và
bao gồm ít nhất ba lĩnh vực chính để đo lường, đó là: chức năng thể chất, tinh
thần và xã hội. Tuy nhiên, đánh giá thêm với các biện pháp khả năng tự chăm
sóc và kỹ năng sống độc lập (thường được đánh giá bởi các hoạt động sống hàng
ngày - ADL) cũng được yêu cầu. Những lợi ích của việc đánh giá chức năng nói
chung và trong bệnh đái tháo đường được chỉ ra trong bảng 1.4 và 1.5:
Bảng 1.3: Lợi ích của đánh giá chức năng ở người cao tuổi
- Đánh giá tác động của bất kỳ vấn đề kinh tế-xã hội.
- Cung cấp các đánh giá chức năng thể chất và nhận thức hàng ngày, và khả
năng tự chăm sóc.
- Đánh giá khả năng di chuyển, cân bằng và nguy cơ té ngã.
- Đo lường khả năng hiểu biết và giao tiếp.
- Có thể được kết hợp với các kết quả lâm sàng để cải thiện.
Bảng 1.4: Lợi ích của Đánh giá chức năng liên quan bệnh Đái tháo đường
- Đo lường khả năng tuân thủ mục tiêu điều trị và tuân thủ lời khuyên dinh
dưỡng.

- Đánh giá khả năng tự chăm sóc và khả năng áp dụng nguyên tắc trong
những ngày ốm.
- Đánh giá tác động của biến chứng mạch máu của bệnh đái tháo đường, ví
dụ: bệnh mạch máu ngoại biên hoặc thần kinh.
- Đánh giá khả năng có thể có lợi từ can thiệp giáo dục.
- Đánh giá nhu cầu hỗ trợ chăm sóc.
- Xác định bất kỳ vấn đề phát sinh về chất lượng cuộc sống liên quan đến
bệnh hoặc quá trình điều trị của bệnh.


20

Một tình trạng chức năng cao hơn dường như có một giá trị tiên đoán để
cải thiện chất lượng cuộc sống, và tăng cường tuổi thọ. Khi đánh giá một cách có
cấu trúc, nó như là mục tiêu, đo lường, dễ làm theo, và có khả năng phân biệt
thích hợp giữa các đối tượng dựa trên các nền tảng căn cứ riêng biệt.
Bảng 1.5: Các phương pháp đánh giá chức năng ở bệnh nhân đái tháo
đường typ 2 cao tuổi
Danh mục đánh giá chức năng
ADL
Chức năng tổng

IADL

thể/thể chất
Nhiệm vụ
Có than phiền về
trí nhớ
Khơng có than
Chức năng nhận

thức

phiền về trí nhớ
Chức năng tình
cảm
Mức độ tồn tại
các bệnh khác
nhau(Comorbidit

Phương pháp/cơng cụ
Chỉ số Barthel/Katz
- ADL mở rộng [57]
- Chỉ số Lawton và Brody [58]
- ‘Get Up and Go Test’ [59]
- Lower extremity Function
- Thang điểm đánh giá tâm thần tối
thiểu (MMSE) [60], Mini Cog [61]
- Thử nghiệm đồng hồ (Clock Test)
- SPMSQ [62]
Thang điểm trầm cảm dành cho
người cao tuổi – GDS (15 mục) [63]

Chỉ số Charlson

y level)
Người cao tuổi
Tình trạng dinh
dưỡng

khơng yếu

Người cao tuổi
yếu/nằm viện

Bảng danh sách kiểm tra nhận thức
cộng đồng hoặc phương pháp tương
tự phù hợp; MNA
Công cụ đánh giá tình trạng dinh

dưỡng rút gọn, MNA
Các trợ giúp xã hội
Bộ 3 câu hỏi
2.2.5. Cách đánh giá chức năng nhận thức và chức nặng vận động
2.2.5.1. Đánh giá chức năng nhận thức


21



Đánh giá suy giảm nhận thức của bệnh nhân bằng thang điểm MOCA
(Montreal Cognitive Assessment).
Trắc nghiệm đánh giá nhận thức MOCA được thiết kế từ năm 1996 nhằm
mục đích sàng lọc sa sút trí tuệ đặc biệt là phát hiện sa sút trí tuệ giai đoạn
sớm và suy giảm nhận thức nhẹ. MOCA là một bộ trắc nghiệm 30 điểm, thực
hiện trong khoảng 10 phút. MOCA đánh giá được nhiều lĩnh vực chức năng
nhận thức, gồm 7 mục:
Phương pháp thực hiện bao gồm:

-


Thị giác không gian/ Chức năng điều hành: Yêu cầu đối tượng nối các số và
chữ theo thứ tự nhất định, vẽ lại hình lập phương, và vẽ đồng hồ . Điểm tối

-

đa: 5 điểm.
Gọi tên: Yêu cầu đối tượng nhìn hình vẽ ba con vật ( chó, mèo, trâu) và gọi

-

tên. Điểm tối đa: 3 điểm.
Trí nhớ: Đọc năm danh từ (vẻ mặt, vải nhung, nhà thờ, hoa cúc, màu đỏ) và
yêu cầu đối tượng nhớ. Đến cuối bài trắc nghiệm sẽ hỏi lại. Điểm tối đa 5

-

điểm.
Chú ý: Kiểm tra chức năng chú ý của đối tượng với các dãy số, dãy chữ cái và

-

làm phép tính trừ liên tiếp. Điểm tối đa: 6 điểm.
Ngơn ngữ: Yêu cầu đối tượng nhắc lại câu nói, kể ra các từ bắt đầu bằng chữ

-

cái L. Điểm tối đa: 3 điểm.
Tư duy trừu tượng: Hỏi đối tượng điểm chung giữa hai đồ vật. Điểm tối đa : 2

-


điểm.
Định hướng: Hỏi đối tượng về thứ (trong tuần), ngày, tháng, năm, địa điểm và
tỉnh/thành phố. Điểm tối đa: 6 điểm
- Lưu ý: Nếu số năm đi học ≤ 12 năm thì cộng thêm 1 điểm cho bệnh
nhân.
Điểm cắt được đề nghị là 26. Từ 26 điểm trở lên là bình thường, dưới 25
điểm sẽ được coi là có suy giảm chức năng nhận thức. Trắc nghiệm MOCA từ
2005 đã được chứng minh giá trị trong phát hiện suy giảm nhận thức nhẹ và


22

bệnh Alzheimer giai đoạn sớm, và ngày càng được khẳng định trong nhiều
nghiên cứu. Kết quả là MOCA đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được ứng
dụng tại nhiều đơn vị lâm sàng trên thế giới. MOCA được khuyến cáo sử
dụng bởi Viện Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ, Mạng lưới Đột quỵ Canada và
Hướng dẫn Đồng thuận Canada về Chẩn đốn và Điều trị Sa sút trí tuệ đối với
phát hiện suy giảm nhận thức nhẹ và bệnh Alzheime [64], [65], [66].


Sử dụng thang điểm đánh giá trầm cảm ở người cao tuổi (Geriatric

-

Depression Scale/GDS)
Cách tiến hành: phỏng vấn đối tượng nghiên cứu lần lượt từng câu hỏi trong

-


15 câu hỏi của thang điểm GDS, mỗi câu hỏi có đáp án “Có” hoặc “Khơng”.
Với các câu 2,3,4,6,8,9,10,12,14,15 sẽ có đáp án là “Có” và những câu
1,5,7,11,13 sẽ có đáp án là “Khơng”. Mỗi câu trả lời được tính là 1 điểm.
- Đánh giá:
o Từ 0 đến 5 điểm: ít khả năng bị trầm cảm
o Từ 6 đến 9 điểm: có thể bị trầm cảm
o Từ 10 đến 15 điểm: nhiều khả năng là trầm cảm.
Đánh giá chức năng vận động:
 TUG hoạt động :

2.2.5.2.

Chúng tôi sử dụng ghế bành chiều cao ghế trung bình là 46 cm, đồng
hồ bấm giờ và thẻ để viết kết quả, Bệnh nhân đi giày thường xuyên của mình.
Trước khi bắt đầu thử nhiệm bệnh nhân đã nhận được thông tin về thực hiện
kiểm tra, chỉ dẫn bệnh nhân, đưa bệnh nhân ngồi lên ghế bành với lưng của họ
được hỗ trợ ở lưng và chân họ song song với mặt đất, sau đó người tham gia
đứng lên khỏi ghế đi bộ khoảng cách 3m và đi bộ trở lại ghế trong thời gian
ngắn nhất. Nếu bệnh nhân thực hiện bài test nhiều hơn 20 giây thì là phụ
thuộc vào chức năng di động và ngược lại.


Bảng đánh giá hoạt động hàng ngày (Activity Dailly Living/ADL)
- Cách tiến hành:


23

Phỏng vấn bệnh nhân hoặc người chăm sóc về các hoạt động sinh hoạt
hàng ngày của bệnh nhân theo 6 câu hỏi về các hoạt động: ăn uống, đi vệ

sinh, mặc quần áo, chăm sóc bản thân, đi lại, tắm rửa.
Bệnh nhân/người chăm sóc trả lời từng câu theo cách chấm điểm tương
ứng với tình trạng của bệnh nhân (1 hoặc 0 điểm).
-

Đánh giá kết quả:
Điểm tối đa đối với một người bình thường khỏe mạnh là 6 điểm; dưới

6 điểm là có suy giảm chức năng hoạt động hàng ngày. Điểm càng thấp tương
ứng với khả năng tự chủ của bệnh nhân càng thấp và người chăm sóc phải
phục vụ bệnh nhân nhiều hơn.


Bảng đánh giá hoạt động hàng ngày có sử dụng phương tiện, dụng cụ
(Instrument Activity Dailly Living/IADL)
- Cách tiến hành:
Phỏng vấn bệnh nhân/người chăm sóc theo 8 câu hỏi về các hoạt động
sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân khi sử dụng các dụng cụ phương tiện: sử
dụng điện thoại, mua bán, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, giặt quần áo, sử dụng
phương tiện giao thông, sử dụng thuốc, khả năng quản lý chi tiêu.
Bệnh nhân/người chăm sóc trả lời từng câu theo cách chấm điểm tương
ứng với tình trạng của bệnh nhân (1 hoặc 0 điểm).
-

Đánh giá kết quả:
Điểm tối đa đối với một người bình thường khỏe mạnh là 8 điểm; dưới

8 điểm là có suy giảm chức năng hoạt động hàng ngày có sử dụng dụng cụ,
phương tiện. Điểm càng thấp tương ứng với sự phụ thuộc của bệnh nhân càng
cao và người chăm sóc phải phục vụ bệnh nhân nhiều hơn.

2.2.6. Các yếu tố liên quan đến chức năng nhận thức và chức năng vận động
-

Tuổi: Người cao tuổi quá trình lão hóa xảy ra trong tồn cơ thể với các mức
độ khác nhau làm giảm hiệu lực của các cơ chế tự điều chỉnh của cơ thể,


24

giảm khả năng thích nghi ,bù trừ do đó khơng đáp ứng được những đòi hỏi
của sự sống. Nhưng thực trạng của một cơ thể già không phải là sự cộng lại
máy móc, giản đơn của tất cả các biến đổi trên. Đồng thời, cùng với sự giảm
hiệu lực của các chức năng, của mọi q trình chuyển hóa trong cơ thể, xuất
hiện những cơ cấu thích nghi mới, đảm bảo tính ổn định nội mơi, với một thế
cân bằng, nhịp đổi mới. Tốc độ lão hóa phụ thuộc vào sự vận động của hai
q trình đó. Đặc tính chung nhất của sự lão hóa là tính khơng đồng thì và
đồng tốc, nghĩa là mọi bộ phận trong cơ thể không già cùng một lần và với tốc
độ như nhau, có bộ phận già trước, có bộ phận già sau, có bộ phận già nhanh
-

có bộ phận già chậm.
Trắc nghiệm MOCA: MOCA dưới 26 điểm là có suy giảm nhận thức.
ADL/IADL (Activity Dailly Living/ADL, Instrument Activity Dailly
Living/IADL) thang điểm thấp đánh giá có sự suy giảm chức năng hàng ngày
có nghĩa là khả năng tự chủ của bệnh nhân càng thấp và sự phụ thuộc của
bệnh nhân càng cao cần phải có người hỗ trợ chăm sóc nhiều hơn dẫn đến ảnh

-

hưởng chức năng di động.

GDS thang điểm càng cao thì khả năng bị trầm cảm tăng theo dẫn đến chức

-

điều hành suy giảm.
Glucose máu, HbA1c tăng đường huyết mạn tính góp phần vào sự phát triển
rối loạn chức năng não, thể hiện như một sự giảm tổng thể, hiệu quả về tinh
thần. Các bệnh nhân tiểu đường gây tổn hại đáng kể đến vận tốc thông tin như
bộ nhớ làm việc và mơt số khía cạnh của sự chú ý dẫn đến ảnh hưởng đến
chức năng di động.

2.3.

Mối liên quan của chức năng nhận thức và chức năng vận động với bệnh
nhân đái tháo đường cao tuổi.

2.3.1. Ảnh hưởng của tuổi trên chức năng nhận thức và vận động
Sự tăng trưởng của dân số cao tuổi là một hiện tượng được quan sát
thấy ở hầu hết các nước [67]. Ở Việt Nam khơng nằm ngồi quy luật đó.


25

Người cao tuổi có những thay đổi về cấu trúc và chức năng của não
trong hệ thống thần kinh trung ương chạy ra trong q trình lão hóa [68]. Lão
hóa người cao tuổi dẫn đến suy giảm chức năng điều hành và chức năng di
động dẫn đến nguy cơ ngã tăng cao.
2.3.2. Ảnh hưởng của đái tháo đường cao tuổi đối với chức năng nhận thức và
vận động
- Bệnh tiểu đường là một hội chứng của nhiều nguyên nhân kết quả từ

sự thiếu hụt insulin và hoặc khơng có tác dụng của hóc mơn này đến đến sự
phát triển của các bệnh liên quan và các biến chứng của bệnh như võng mạc,
bệnh thận, bệnh thần kinh ngoại biên, mất khả năng di chuyển của khớp và
sức mạnh của cơ bắp. Hơn nữa chức năng nhận thức này có vẻ bị thay đổi ở
những người bị đái tháo đường[69], [70].
Người cao tuổi đái tháo đường typ 2 thường có biểu hiện thiếu thốn về
nhận thức hơn so với những người cao tuổi không bị đái tháo đường [72].
Cùng với những thay đổi cấu trúc và chức năng trong hệ thống thần kinh
trung ương xảy ra do q trình lão hóa, cấu trúc của vỏ não và não có thể thay
đổi thêm do sự thay đổi trong quá chuyển hóa. Thói quen học tập và thâm hụt
trí nhớ ở những người này có thể là do sự tương tác giữa thay đổi trong
chuyển hóa liên quan đến bệnh đái tháo đường.
Sự trao đổi chất liên quan đến bệnh tiểu đường, trong đó sự thay đổi
mức đường trong máu nhanh chóng ảnh hưởng đến chức năng của não. Tuy
nhiên những thâm hụt có thể chỉ giới hạn trong các quy trình phức tạp hơn
liên quan trực tiếp đến thùy trán là chức năng hành pháp, có nghĩa là khả năng
hoạch định chiến lược để giải quyết vấn đề và để thực hiện các mục tiêu [73,
74].
Trong nhiều hoạt động sinh hoạt hàng ngày mọi người cần phải thực
hiện nhiều nhiệm vụ cùng một lúc. Ví dụ: đi bộ trong khi giao tiếp với người


×