PH ẦN GIỚI THIỆU
1. L Í DO CH ỌN Đ Ề T ÀI
Từ lâu, thủy sản là loại thực phẩm phổ biến
được ưa chuộng ở nhiều quốc gia, nhất là các
quốc gia có biển hoặc có các thủy vực nội địa
lớn. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng
dân cư, nhu cầu về thủy sản ngày càng lớn để
đáp ứng thị hiếu tiêu dùng đa dạng từ cao cấp
đến bình dân. Ngoài ra, mức độ an toàn vệ sinh
thực phẩm của thủy sản cao hơn các loại thực
phẩm khác, trong khi dịch bệnh ở gia súc, gia
cầm có chiều hướng gia tăng và càng làm cho nhu cầu tiêu thụ thủy sản trên
thế giới tăng mạnh. Tăng trưởng tiêu dùng thủy sản không những diễn ra
mạnh mẽ ở các nước phát triển, mà còn ở các nước đang phát triển. Cùng
với xu thế tiêu thụ này thì việc trao đổi xuất nhập khẩu thủy sản giữa các
quốc gia được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
ngày càng sâu rộng đã tạo ra các thách thức to lớn cho các quốc gia cùng
với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới. Kể từ khi Việt
nam bắt đầu hội nhập kinh tế thế giới và chấp nhận những nguyên tắc của
thương mại quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đang phải
đối mặt với vô số những hàng rào thương mại phi thuế quan ở các nước
nhập khẩu nhằm bảo hộ, hạn chế tự do thương mại dưới nhiều hình thức
như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ… làm giảm đáng kể hiệu quả
của những nỗ lực tìm kiếm, mở rộng, xúc tiến thị trường và nâng cao năng
lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và khiến triển
vọng xuất khẩu trở nên bấp bênh,tiêu biểu đó là vấn đề xuất khẩu cá basa.
2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1/ Mục tiêu chung:
Khái quát được tình hình xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam trên thị trường
thế giới từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm góp phòng ngừa, hạn chế
các vụ kiện chống bán phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá ba sa
1
của Việt Nam sang các nước. Đ ồng thời mở rộng thị trưóng xuất khẩu cá
ba sa
2.2/ Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu và phân tích thực trạng xuất khẩu cá ba sa của
Việt Nam sang thị trường các nước.
- Tìm hiểu, đánh giá về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa
của Việt Nam ở thị trường Mỹ và tác động của nó tới tình hình xuất khẩu cá
ba sa của Việt Nam.
- Đưa ra giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá ba
sa, mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Phạm vi về thời gian
Thời gian thực hiện đề tài từ 26/04/2010 - 24 /05/2011.
Số liệu sử dụng trong đề tài lấy từ năm 1999 đến 2010
3.2. Phạm vi về nội dung
Tìm hiểu về vấn đề xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam ở thị trường các nư
ớc.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 / Phương pháp thu thập số liệu
Tổng hợp các thông tin, số liệu thứ cấp trên các phương tiện thông tin đại
chúng: Báo chí, thời báo kinh tế, các trang web có liên quan…
4.2/ Phương pháp phân tích
2
- Mục tiêu 1: Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả tình hình xuất
khẩu cá ba sa của Việt Nam
- Mục tiêu 2: Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá về vấn đề
xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam
- Mục tiêu 3: Từ mô tả và phân tích trên để đưa ra giải pháp đối với các
doanh nghiệp xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
* CƠ SỞ LÍ LUẬN
I.KHÁI NIỆM
1. ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Cá ba sa phân bổ ở một số nước Ðông Nam Á như Campuchia, Thái Lan,
Indonexia và Việt Nam, là loài cá nuôi có giá trị kinh tế cao. Cá basa được
nuôi phổ biến hầu hết ở các nước Ðông Nam Á, là một trong các loài cá
nuôi quan trọng nhất của khu vực này. Bốn nước trong hạ lưu sông Mê
Kông đã có nghề nuôi cá tra truyền thống là Thái Lan, Campuchia, Lào và
Việt Nam do có nguồn cá basa tự nhiên và phong phú.
Cá ba sa là các loài cá đặc hữu của vùng châu thổ sông Mê Kông thuộc
giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ Silurifornes - bộ cá gồm hơn 2.500
loài cá da trơn, phân bổ trên khắp thế giới. Cụ thể là:
- Đối với cá ba sa - tên khoa học Pangasius bocourti, tên thương mại
Ba sa, Bocourti, Bocourti fish, Ba sa catfish, Bocourti catfish.
Cá basa còn có tên gọi là cá giáo, cá sát bụng, là loại cá da trơn có giá trị
kinh tế cao, được nuôi tập trung tại nhiều nước trên thế giới.
Theo hệ thống phân loại Tyson Roberts, cá basa thuộc họ Pangasiidae,
giống pangasius (Hamilton).
3
2. ĐỐI VỚI THẾ GIỚI
Tháng 5/2008, Quốc hội Mỹ đã thảo luận để thông qua “Đạo luật Nông
trại” (Farm Bill). Theo Farm bill 2008 thì cá ba sa Việt Nam có thể bị xếp
vào trong nhóm catfish của Mỹ.
3 KHÁI NIỆM XUẤT KHẨU
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất, nó
phản ánh quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi
khu vực và thế giới. Cùng với hình thức kinh doanh nhập khẩu, hình
thức kinh doanh xuất khẩu là hoạt động kinh tế cơ bản của một quốc gia,
nó là “chiếc chìa khóa” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho một
quốc gia, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu của một nước khi tham
gia vào hoạt động kinh tế quốc tế.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh
quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục
ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh của
mình.
Kinh doanh xuất nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau: Xuất khẩu
hàng hóa hữu hình, hàng hóa vô hình (dịch vụ); xuất khẩu trực tiếp do
chính các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhận;
xuất khẩu gián tiếp (hay ủy thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, tổ chức kinh doanh trung gian đảm nhận. Gắn liền với xuất khẩu
hàng hóahữu hình, ngày nay xuất khẩu dịch vụ rất phát triển
4.YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
-Mặc dù diện tích nuôi được mở rộng, năng suất, sản lượng và kim
ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm song nghề nuôi cá basa tại khu
vực Đồng Bằng Sông Cửu Long vẫn chưa thật ổn định và bền vững.
Trong sản xuất vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về ô nhiễm môi trường, biến
4
động về thị trường, giá cả. Có thể dẫn chứng điều này qua sự kiện năm
2005, do EU tăng cường các biện pháp kiểm soát việc sử dụng kháng
sinh trong thủy sản xuất khẩu của Việt Nam cộng tác động của vụ kiện
chống phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ khiến nguồn nguyên
liệu bị “dội chợ” làm cho không ít người nuôi lâm vào cảnh phá sản
-Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 2008, người nuôi cá tra và cá basa lại
đang đứng trước nguy cơ thua lỗ do chi phí sản xuất tăng ở mức 14.000-
15.500 đ/kg (tương đương với giá bán ở thị trường). Điều đáng nói là trong
chăn nuôi cá tra và cá basa, chi phí thức ăn chiếm tỷ trọng rất lớn, nhất là
trong giai đoạn trước khi thu hoạch. Chính vì vậy, dù Nhà nước đã “bơm”
1.000 tỷ đồng hạn mức tín dụng cho các DN thu mua nguyên liệu để giải
quyết đầu ra cho cá tra, cá basa nhưng khả năng thu mua hết sản lượng cá
nuôi trong dân là rất khó do bởi theo tính toán, nếu tất các các cơ sở chế
biến hoạt động hết công suất thì cũng chỉ tiêu thụ được khoảng 3.000
tấn/ngày. Như vậy mỗi tháng cũng chỉ tiêu thụ được gần 100 ngàn tấn
nguyên liệu
-Ngoài khó khăn do không dự báo được tình hình thị trường khiến hiện
tượng ùn tắc nguyên liệu xảy ra trong những tháng gần đây, hoạt động sản
xuất và tiêu thụ cá tra, cá basa vẫn còn những vấn đề cần sớm được giải
quyết như: tỷ lệ sản phẩm có giá trị gia tăng còn thấp, chủ yếu mới chỉ xuất
khẩu ở dạng fillet cấp đông đơn thuần nên giá xuất khẩu không cao (bình
quân 3USD/kg); thiếu kho chứa hàng, thiếu các chợ đầu mối thủy sản tập
trung để làm cầu nối ổn định giá cho cả người sản xuất và các nhà máy chế
biến; hệ thống xử lý nước thải và các công trình bảo vệ môi trường tuy đã
được đầu tư nhưng chưa thường xuyên được nâng cấp nên vẫn còn tình
trạng nước thải từ nhà máy đổ trực tiếp ra sông mà chưa qua xử lý; chưa
phổ biến rộng khắp quy trình sản xuất sạch theo tiêu chuẩn HACCP; vẫn
còn việc mua bán và sử dụng hóa chất, kháng sinh
5
Cá ba sa Việt Nam bị ''đòn hiểm'' của
giới nuôi catfish Hoa Kỳ
Số phận cá da trơn của Việt Nam trên thị trường Mỹ lại bị đe
doạ. Mấy năm trước, loại cá này chỉ được vào Mỹ sau nhiều cửa ải, và
với tên gọi "cá tra" hay "cá ba sa", chứ không được gọi là "catfish" vì
sợ lầm với cá nội địa của Mỹ. Bây giờ, chính các hiệp hội nuôi cá
catfish tại Mỹ lại nêu vấn đề về danh xưng và đòi cá Việt Nam cũng
phải được gọi tên là "catfish" ! Vì sao lại có chuyện rắc rối ấy ?
Theo tiết lộ của hãng tin Mỹ AP vào cuối tháng 06/2009, bộ trưởng Nông
Nghiệp Mỹ ông Tom Vilsack sắp ban hành quyết định về việc quy định loại
cá nào bán trên thị trường Hoa Kỳ phải được gọi là ''catfish''. Nội dung
quyết định này chưa rõ, nhưng một bản dự thảo mà hãng tin Mỹ đọc được
đã liệt loại cá ba sa pangasius của Việt Nam vào diện catfish.
Một khi bị xếp loại là catfish, cá ba sa nhập khẩu từ Việt Nam sẽ phải tuân
thủ một chế độ kiểm tra ngặt nghèo do bộ Nông Nghiệp Mỹ ấn định, chặt
chẽ hơn rất nhiều so với chế độ thông thường của Cơ quan Thực phẩm và
Dược Phẩm Mỹ FDA. Theo hãng AP, điều này sẽ trở thành một rào cản cực
kỳ kiên cố, chặn đứng đường vào thị trường Hoa Kỳ của cá Việt Nam vì
lẽ phiá Việt Nam phải thiết lập một hệ thống kiểm tra việc nuôi và xử lý cá
cực kỳ phức tạp, và chứng minh được là hệ thống này tương đương với
những gì hiện hành tại Mỹ. Để có được một hệ thống như vậy, theo AP,
Việt Nam sẽ phải mất rất nhiều năm.
Thế nhưng vì sao mà chính quyền Hoa Kỳ lại có thể có quyết định khắt khe
đối với cá nhập khẩu từ Việt Nam như vậy, nhất là khi việc xếp cá basa
Việt Nam vào diện ''catfish'' lại hoàn toàn trái ngược với quyết định vào
năm 2002, theo đó cá nhập từ Việt Nam không có quyền mang tên gọi
catfish ?
6
THỰC TRANG NUÔI TRỒNG,
CHẾ BIẾN, XUẤT KHẨU CÁ TRA,
BASA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP),
trong vòng 10 năm qua (1998-2008), cá basa đã nhanh chóng trở thành sản
phẩm chiến lược quốc gia. Trong đó, sản lượng tăng gấp 50 lần, vượt
ngưỡng 1 triệu tấn/năm; giá trị xuất khẩu tăng gấp 65 lần, đóng góp khoảng
2% GDP của cả nước. Tổng diện tích nuôi cá basa ở Đồng bằng sông cửu
long năm 2008 là 6.160 ha, với sản lượng 1.128.000 tấn, xuất khẩu đạt
640.829 tấn, chiếm 51,8% tổng sản lượng xuất khẩu thủy sản cả nước với
giá trị kim
ngạch 1,453
tỉ USD,
chiếm 32%
kim ngạch
xuất khẩu
của toàn
ngành thuỷ
sản. Thị
trường tiêu
thụ cá basa
đã được mở
rộng và có uy tín ở 130 nước và vùng lãnh thổ. Một số nước, khu vực nhập
khẩu lớn là Ukraine, Nga, EU, Bắc Phi, Trung Đông, Mỹ. Tại ĐBSCL vùng
nuôi cá tra, basa đã được Bộ NN&PTNT xác định ở 10 tỉnh, thành với diện
tích 6.000 ha ao nuôi, sản lượng 1,2- 1,5 triệu tấn/năm, trong đó 60- 70%
của doanh nghiệp sản xuất tập trung quy mô lớn, còn 30- 40% là quy mô
nông hộ. Đến năm 2010, diện tích nuôi toàn vùng đạt 8.600 ha, sản lượng
1,2 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu 1,3- 1,5 tỉ USD và đến năm 2020 diện
tích sẽ được nâng lên 13.000 ha. Nhóm sản phẩm cá tra, basa càng quan
trọng, bởi chỉ sử dụng một diện tích rất nhỏ bé để nuôi (khoảng 6.000 ha
mặt nước, bằng 1% diện tích nuôi tôm), có năng lực cạnh tranh trên thị
trường quốc tế, tạo việc làm cho hàng chục vạn công nhân, nông ngư dân,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là ở vùng nông thôn ĐBSCL.
Tuy vậy, theo các chuyên gia về thuỷ sản thì việc nuôi, chế biến, xuất khẩu
7
cá basa của Việt Nam còn có nhiều yếu kém, bất cập, phát triển tự phát và
thiếu tính bền vững, cụ thể:
Thực trạng và nguyên nhân:
Công quản lý nhà nước trong sản xuất, tiêu thụ cá tra, basa hiện nay
còn nhiều bất cập: thiếu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, hệ thống thể
chế pháp lý để quản lý, thúc đẩy phát triển bền vững và xây dựng cơ sở
hạ tầng Do vậy sản xuất, tiêu thụ cá tra hiện nay mang tính tự phát
cao, khó quản lý, nhất là về diện tích, sản lượng, chất lượng, giá thức
ăn, con giống, thuốc thú ý, vệ sinh an toàn thực phẩm
Việc nuôi cá tra, basa gần đây phát triển với nhịp độ nhanh, diện tích
tăng đột biến. Năm 2006 diện tích nuôi cá tra toàn vùng chỉ vào khoảng
3.797 ha, đến năm 2007 đã tăng lên là 6.406 ha và năm 2008 là 6.160
ha. Trong 6 tháng đầu năm 2009, tổng diện tích thả nuôi cá tra của 10
tỉnh, thành vùng ĐBSCL khoảng 5.000 ha. Do vậy quy hoạch chưa theo
kịp hoặc không còn phù hợp với tình hình mới. Quy hoạch vùng nguyên
liệu cho phù hợp với từng thị trường còn quá nhiều bất cập, các doanh
nghiệp chế biến không có vùng nguyên liệu của mình, do đó việc thừa
thiếu nguyên liệu thường xuyên diễn ra. Doanh nghiệp thì không nắm
được sản lượng, người nuôi thì không có thông tin về thị trường. Hạ
tầng cơ sở, các công trình thủy lợi phục vụ nuôi cá basa chưa bảo đảm
để phát triển ổn định, bền vững.
Hệ thống tổ chức quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn tồn tại
nhiều vướng mắc như trong vấn đề chậm trễ cập nhật các văn bản pháp
quy để phù hợp với các thị trường xuất khẩu, hệ thống cán bộ phần lớn
chưa được đào tạo chuyên sâu, quản lý hàng thủy sản chưa được thực
hiện bài bản cũng tạo nhiều khó khăn, thách thức trong xuất khẩu.
¬- Tất cả các khâu của quá trình sản xuất cá tra, basa như: giống, thức
ăn, giá, vốn, nuôi, chế biến, thị trường…đều đang có quá nhiều bất cập,
hạn chế, phát triển không bền vững, cụ thể:
* Về giống:
Trong thời gian qua, để đáp ứng nhu cầu con giống theo đà tăng mạnh
về nhịp độ và diện tích nuôi, số lượng các cơ sở sản xuất giống cá basa
cũng tăng lên nhanh chóng. Đến nay, trong vùng đã có 217 cơ sở sản
xuất cá giống với tổng sản lượng khoảng 1,8 tỉ con, thừa khả năng đáp
ứng nhu cầu cá giống cho cả khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, trong thời
gian gần đây, khi phong trào nuôi cá basa trầm lắng, nhiều hộ nuôi “treo
ao” thì giá cá giống liên tục giảm, hiện nay chỉ còn 330 đồng/con kích
thước 1,7cm, 240 đồng/con kích thước 1,5cm, cá bột giá 0,5 đồng/con.
8
Do vậy, các cơ sở sản xuất giống đang phải bán tháo cá bố mẹ và cá
giống vì làm ăn thua lỗ. Điển hình tại làng sản xuất cá tra, basa giống
Hồng Ngự/Đồng Tháp (nơi sản xuất giống lớn nhất ĐBSCL) trước đây
có hơn 70 cơ sở với đàn cá bố mẹ có tổng trọng lượng hơn 150 tấn (mỗi
con nặng từ 10kg đến 15 kg), hàng năm cung ứng cho thị trường hơn
năm tỉ con cá bột và trên một tỉ con cá giống thương phẩm. Tuy nhiên
hiện nay đã có 60 cơ sở sản xuất cá tra giống đã đóng cửa, kêu bán tháo
cá bố mẹ với giá: 13.000 đồng- 14.000 đồng/kg nhưng không có người
mua.
Đồng thời do không có chế tài nào nên nguồn cá bố mẹ chưa được quản
lý tốt vì vậy chất lượng con giống chưa đồng đều, một số cơ sở sản xuất
giống chưa đảm bảo chất lượng con giống cho nuôi cá thương phẩm.
* Về thức ăn:
Trong thời gian qua, giá thức ăn thủy sản liên tục tăng cao đã gây nhiều
khó khăn cho nghề nuôi cá basa. Năm 2008, giá thức ăn thủy sản tăng
trung bình khoảng 30% so với năm 2007 và giữ ổn định ở mức 9.500-
10.500 đồng/kg. Trong 6 tháng đầu năm 2009, giá thức ăn thủy sản có
giảm lại, dao động 6.500- 9.700 đồng/kg. Giá thức ăn tăng đã làm giá
thành sản xuất cá tra, basa tăng. Năm 2008, giá thành sản xuất trung
bình 01kg cá nguyên liệu khoảng 15.000- 16.000 đồng (tăng 40% so với
năm 2007), trong khi đó, giá bán cá tra, basa chỉ ở mức thấp, dao động
13.800- 15.500 đồng/kg dẫn đến người nuôi bị lỗ nặng. Riêng trong 6
tháng đầu năm 2009, giá thành sản xuất đã hạ xuống khoảng 13.500-
14.500 đồng/kg, nhưng giá cá chỉ có 12.500- 13.800kg, nên người nuôi
lại tiếp tục lỗ.
Hiện nay, các nhà máy sản xuất thức ăn thuỷ sản đều “kêu” bị lỗ và phải
tăng giá. Với những lý do như: giá nguyên liệu nhập khẩu tăng, nguyên
liệu nhập về cảng bị ứ đọng, hàng giải phóng chậm, hàng để trong cảng
bị mất mát nhiều nên phải nâng mức bảo hiểm Tất cả các khoản “thiệt
hại” trên họ đều tính hết vào giá thành sản xuất nên giá thức ăn thuỷ sản
cao là không có gì lạ. Tuy nhiên thực tế họ đều đua nhau tăng công suất
từ 15- 20% so với cùng kỳ năm ngoái, kể cả các cơ sở nhỏ cũng tăng từ
7- 10%. Do vậy các nhà sản xuất thức ăn hiện nay chỉ biết quan tâm đến
quyền lợi của mình, cứ đua nhau tăng giá, bất chấp quyền lợi của người
chăn nuôi, của cả chuổi sản xuất, chế biến, xuất khẩu cá basa thì trước
sau cũng sẽ gây ra khủng hoảng.
Nhiều hộ nuôi cá basa ở ĐBSCL đã chủ động nuôi giảm mật độ tới 50%
so với năm 2008 và hầu hết họ không còn nợ ngân hàng mà nợ cơ sở
9
bán thức ăn thủy sản với lãi suất cao.
Ngoài ra, có nhiều mẫu thức ăn không đạt hàm lượng đạm theo quy
định và nhiều cơ sở sản xuất giống kém chất lượng làm ảnh hưởng lớn
đến chất lượng sản phẩm cá tra, basa.
* Về giá:
Trong 6 tháng đầu năm 2009, giá cá basa tiếp tục biến động. Vào đầu
tháng 3-2009 giá cá tăng lên 15.000-17.000 đồng/kg và người nuôi cá
lời 1.000- 2.000 đồng/kg, nhưng từ đó đến tháng 6/2009 giá cá giảm
mạnh chỉ còn từ 13.000- 14.000đ/kg. Hiện tại giá giảm mạnh là rất bất
hợp lý bởi lẽ thị trường cho cá basa đang mở rộng và hút hàng, trong
khi sản lượng cá nguyên liệu giảm tới 30% so với năm 2008. Theo quy
luật cung cầu: khi nguyên liệu thiếu hụt, thị trường mở rộng thì giá phải
tăng lên. Tuy nhiên giá thu mua cá nguyên liệu giảm mạnh và đang ở
mức thấp, do:
+ Các doanh nghiệp chế biến đang giảm mạnh nhu cầu mua vào vì
lượng cá tồn kho tương đối lớn. Họ đang đứng trước áp lực về vốn, lãi
suất, chi phí lưu kho nên phải đẩy hàng ra bằng mọi giá. Họ bán xong
hàng tồn kho rồi mới tiến hành thu mua cá mới.
+ Một số doanh nghiệp còn chào hàng ra thị trường nước ngoài với giá
thấp nên phải mua cá của người nuôi với giá thấp. Giá xuất khẩu vào
EU là trên 3USD/kg, nhưng họ giảm chỉ còn 2,47USD/kg. Do đó doanh
nghiệp phải giảm giá thu mua cá loại 1 còn 14.000đ/kg.
+ Nhiều doanh nghiệp chế biến đã chủ động nguồn nguyên liệu, họ tự
nuôi cá trên diện tích lớn, nên nhu cầu mua cá trong dân đang bị thu hẹp
lại. Theo thống kê của VASEP, hiện nay nguồn cá nguyên liệu từ các hộ
nuôi nhỏ lẻ chỉ còn chiếm khoảng 20%, 80% còn lại do các doanh
nghiệp tự cung cấp hoặc từ các trang trại lớn theo quy mô công nghiệp.
* Về vốn:
Thực tế ở ĐBSCL hiện nay, người nuôi cá không thể tồn tại nổi với
mức giá cá quá thấp, trong khi giá thức ăn tăng liên tục, ngân hàng
không cho vay vốn. Cá không thể bán nhưng càng nuôi, cá ăn càng
nhiều, càng lớn, càng khó bán và người nuôi càng lâm nợ. Do vậy có
gần 50% ao đã bán cá đều không thả lại.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản An
Giang (AFA), ở thời điểm này có tới 25- 30% số hộ nuôi cá tra, basa bị
phá sản, 40- 50% số hộ nuôi bị mất vốn, 70- 80% số hộ nuôi đang lâm
vào cảnh nợ nần chồng chất, 90% hộ nuôi cá đang nợ ngân hàng.
10
Đồng thời, người nuôi hiện nay rất khó tiếp cận vốn vay kích cầu của
Chính phủ so với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu, vì những quy
định của ngân hàng. Muốn được vay, người nuôi phải có xác nhận nuôi
trong vùng quy hoạch, có hợp đồng bao tiêu sản phẩm, có tài sản thế
chấp, phải trả dứt nợ cũ, nợ quá hạn… Trong khi đó, tài sản của người
nuôi chỉ có nhà ở và ao nuôi cá, trong đó có tới 90% người nuôi đã thế
chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà, đất cho ngân hàng để vay
vốn sản xuất.
Ngoài ra, nhiều người nuôi cá tra, basa tại An Giang, Đồng Tháp, Cần
Thơ đang bị các doanh nghiệp thu mua cá chiếm dụng vốn dưới nhiều
hình thức, trong đó chủ yếu là kéo dài thời gian thanh toán tiền mua cá
theo hợp đồng từ 15- 30 ngày. Mỗi người nuôi, khi bán cá trị giá vài tỉ
đồng, doanh nghiệp chỉ trả ban đầu khoảng 30% tiền mặt, số còn lại là
nợ hoặc trả dần. Do vậy, người nuôi rất khó thanh toán cho các chủ nợ
và đầu tư tái sản xuất.
* Về diện tích, sản lượng cá nuôi:
Hiện nay, diện tích thả nuôi cá tra, basa tại ĐBSCL thấp hơn cùng kỳ
năm 2008 đến 30% diện tích. Riêng tỉnh An Giang, có hơn 1.400ha ao,
hầm nuôi cá tra, basa, nhưng diện tích ao, hầm không nuôi đã lên đến
hơn 400ha, hiện toàn tỉnh chỉ còn khoảng 1.000ha nuôi cá. Diện tích
giảm, khiến sản lượng cá nguyên liệu cũng giảm. Trong 06 tháng đầu
năm 2009, thu hoạch cá tra, ba sa chỉ có 141.221 tấn, giảm 39.000 tấn
(tương đương 21,5%).
Theo Bộ NN- PTNT, nhiều hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL đã chủ động nuôi
giảm mật độ tới 50% so với năm 2008, nên sản lượng có thể sẽ sụt giảm
khoảng 200.000 tấn so với kế hoạch.
Tuy vậy, hiện ĐBSCL còn khoảng 120.000 tấn cá nguyên liệu tới kỳ thu
hoạch, trong đó cá phải thu hoạch gấp khoảng hơn 100.000 tấn, nhưng
các doanh nghiệp lại không thu mua và đang “làm giá” với người nuôi.
Trong thời gian tới người nuôi khó khôi phục lại diện tích và mật độ thả
nuôi vì họ đang nợ ngân hàng và khó tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ của
Chính phủ. Vì vậy chuyện thiếu nguyên liệu trong dịp cuối năm và
người nuôi lại “làm giá” với doanh nghiệp là không thể tránh khỏi.
Đồng thời, việc các doanh nghiệp đang tạm ngưng thu mua cá nguyên
liệu để “bán tháo” cá tồn kho đã làm cho hàng chục nghìn công nhân
mất việc. Hiện ở ĐBSCL có trên 100 nhà máy chế biến thuỷ sản với
công suất thiết kế 2,5 triệu tấn cá nguyên liệu/năm, nhưng với sản lượng
11
thu hoạch như hiện nay, các nhà máy chỉ hoạt động chưa được 50%
công suất.
Vấn đề thừa, thiếu cá tra, basa nguyên liệu tại ĐBSCL trong thời gian
qua giống đã đem lại nhiều hậu quả khó lường. Khi thừa nguyên liệu
doanh nghiệp ép giá người nuôi và ngược lại, cả người nuôi và doanh
nghiệp đều có lúc làm ăn thua lỗ, phá sản. Nguyên nhân chính dẫn đến
thừa, thiếu nguyên liệu là doanh nghiệp phát triển mà không gắn với
việc tạo nguồn nguyên liệu ổn định, còn người nuôi thì không nắm được
thông tin thị trường. Vì vậy, nghề sản xuất cá tra, basa không thể phát
triển bền vững nếu tình trạng thừa, thiếu nguyên liệu, người nuôi và
doanh nghiệp cứ “ép giá” tiếp tục tái diễn.
* Về thị trường: mất cân đối giữa cung và cầu.
Hiện nay, chế biến xuất khẩu cá basa cũng đang gặp một số khó khăn do
các nước có xu hướng dựng lên rào cản kỹ thuật nhằm hạn chế nhập
khẩu để bảo hộ nền sản xuất thủy sản trong nước.
Thông tin thị trường thiếu và nắm không chắc, do vậy việc thừa, thiếu
cá nguyên liệu thường xuyên diễn ra. Vào thời điểm cuối năm 2008, hầu
hết các thị trường đều đóng cửa, trong đó có thị trường lớn nhất là Nga,
nhưng trước đó người nuôi lại ồ ạt tăng diện tích và sản lượng nên cho
đến nay chuyện thừa nguyên liệu, dẫn đến giá giảm, người nuôi lỗ nặng
là điều tất nhiên. Từ nay đến cuối năm thị trường mở rộng nhưng người
nuôi đã giảm diện tích và mật độ nuôi, do đó vào thời điểm giữa cuối
năm 2009 chắc chắn lại xảy ra tình trạng thiếu nguyên liệu.
Ngoài ra, việc nuôi, chế biến, xuất khẩu cá basa chưa đáp ứng theo nhu
cầu thị trường, đến nay nghề sản xuất cá tra, basa vẫn trong tình trạng
làm ra cái có thể làm chứ chưa làm ra cái mà thị trường cần. Do vậy
việc tồn hàng và thừa nguyên liệu là tất yếu. Chẳng hạn, thị trường
Châu Âu, Mỹ… tiêu thụ các loại cá chất lượng tốt, thịt trắng và chiếm
thị phần không cao, nhưng người nuôi và doanh nghiệp luôn hướng tới
thị trường thị này. Trong khi các thị trường Nga, Đông Âu, Trung Đông,
Mexico lại chuộng loại cá thịt đỏ, chất lượng thấp hơn và đây là thị
trường chiếm thị phần lớn thì hầu như người nuôi và doanh nghiệp chưa
thật sự quan tâm. Năm 2006, diện tích nuôi cá tra của ĐBSCL chỉ 3.797
ha, năm 2008 đã tăng lên đến 5.700 ha. Diện tích đã thu hoạch đến ngày
19/6/2009 là 1.133 ha, với sản lượng 312.337 tấn, năng suất bình quân
240 tấn/ha. Không tính lượng cá tồn đọng gần 7.000 tấn, sản lượng đến
kỳ thu hoạch tính đến nay đã gần 120.000 tấn. Hiện tại đang khủng
12
hoảng thừa, nhưng đến cuối năm lại khủng hoảng thiếu. Tình trạng này
chủ yếu là do không nắm chắc thông tin thị trường, sản xuất tự phát,
không theo quy luật cung cầu.
- Mối liên kết 4 nhà chưa chặt chẽ, gồm: nhà sản xuất giống, nhà sản
xuất thức ăn và thuốc thủy sản, người nuôi, thương lái và nhà chế biến
vẫn chưa có sự liên kết chặt chẽ mang tính bắt buộc, họ vẫn thường
cạnh tranh không lành mạnh, ép giá lẫn nhau vì lợi ích riêng của mình
mà không biết chia sẻ lợi ích để cùng tồn tại, phát triển. Trong đó chủ
yếu chưa có sự gắn kết giữa nông dân với doanh nghiệp, giữa các doanh
nghiệp với doanh nghiệp và giữa nông dân với nhau.
Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trong nước cạnh tranh không lành
mạnh, mạnh ai nấy làm, chưa thống nhất với nhau về giá nên ai cũng hạ
giá bán nhằm tranh giành khách hàng. Sự cạnh tranh không lành mạnh
đã đây các doanh nghiệp quay lại ép giá người nuôi và gian lận thương
mại, buông lỏng yếu tố chất lượng và gây hưởng đến uy tín sản phẩm cá
tra, basa Việt Nam.
Với kiểu làm ăn cá thể nhỏ lẻ, thậm chí còn cạnh tranh không lành
mạnh, người nuôi không chỉ mất tiếng nói chung, sức mạnh chung mà
còn tự làm suy yếu nhau. Khi bị thương lái hoặc các công ty chế biến
xuất khẩu ép giá, họ không có công cụ và giải pháp nào để khắc phục
nếu không có sự tư vấn, can thiệp của các cơ quan chức năng và các tổ
chức phi chính phủ. Đồng thời tổ chức VASEP là tổ chức của các công
ty chế biến xuất khẩu thuỷ sản, chỉ bảo vệ quyền lợi của các thành viên
của họ, chứ không phải tổ chức nhằm liên kết và bảo vệ quyền lợi của
người nuôi. Quyền lợi của các thành viên VASEP nhiều khi xung đột
với quyền lợi người nuôi cá. Do vậy dẫn đến tình trạng bất ổn, không
bền vững trong nuôi, chế biến và xuất khẩu cá tra, basa hiện nay.
- Môi trường nuôi xuống cấp do ô nhiễm, do đó
chất lượng nguyên liệu không đồng nhất, còn
phát sinh nhiều dịch bệnh, chưa truy xuất được
nguồn gốc thủy sản trước chế biến.
- Chi phí sản xuất và rủi ro trong sản xuất cá tra,
basa ngày càng tăng, người nuôi và doanh
nghiệp thiếu vốn đầu tư, trong khi tín dụng bị
siết chặt, lãi suất ngân hàng cao.
13
Công nghiệp hoá ngành nuôi, chế biến cá tra, basa chưa được quan tâm
đúng mức, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ cao trong nuôi
và chế biến, xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Thực trạng là vẫn còn sản
xuất tự phát, thủ công, lấy công làm lời…
GIẢI Pháp cho thực trạng cá basa khi
xuất khẩu tại Việt Nam và trên toàn thế
giới
Tăng cường công tác quản lý con giống, thức ăn và các chất xử lý cải tạo
môi trường nuôi; nâng cao vai trò của hiệp hội để gắn kết các doanh nghiệp
sản xuất tiêu thụ cá basa, thông tin dự báo kịp thời về giá cả trong, ngoài
nước, xúc tiến mở rộng thị trường thế giới, xây dựng hệ thống kho chứa
đông, điều hành sản xuất chế biến và xuất khẩu theo hướng bảo đảm kinh
doanh uy tín sản phẩm quốc gia, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi
trồng tập trung đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Dành một khoản thích
đáng trong gói kích cầu của Chính phủ cho các doanh nghiệp chế biến vay
để mua thức ăn cung ứng theo tiến độ cho nông dân nuôi cá basa.v.v.
Sản phẩm cá basa là sản phẩm đặc thù, là thế mạnh, lợi thế của ĐBSCL,
nhất là các tỉnh ven bờ sông Tiền, sông Hậu.
Tuy nhiên,Quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này chưa đáp ứng được
yêu cầu; thể chế, cơ chế chưa tương xứng với sự phát triển nhanh, mạnh
của sản xuất, tiêu thụ cá basa. Thiếu sự hợp tác, gắn kết thành hệ thống
trong sản xuất, chế biến đến tiêu thụ cá basa.
Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan xây dựng đề án đồng bộ từ sản xuất đến tiêu thụ cá
basa. Trong đó, cần phát huy tối đa lợi thế của việc nuôi cá basa, theo
14
hướng sản xuất lớn, quy mô công nghiệp, quản lý tiên tiến, đảm bảo chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, là ngành hàng xuất khẩu chủ
lực của đất nước, đem lại thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân. Sau đó,
cần xây dựng một loạt cơ chế chính sách, để quản lý, hợp tác tốt hơn, phát
triển hiệu quả, bền vững hơn, “Phải xây dựng thương hiệu cá basa Việt
Nam”,Hội nghề cá, lãnh đạo các tỉnh có qui hoạch nuôi cá tra, basa, do Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm Trưởng Ban. Ban cần
thường xuyên họp, chỉ đạo kịp thời thông suốt từ sản xuất đến )êu thụ cá tra,
basa. Thành lập hiệp hội các nhà sản xuất, )êu thụ cá tra, basa.Cần thí điểm và
mở rộng quản lý xuất khẩu cá tra, basa theo cơ chế thị trường tập trung.
Với thế mạnh và hiệu quả của nghề nuôi cá basa 10 năm qua, từ một loài cá
bản địa, cá basa đã trở thành sản phẩm chiến lược quốc gia, sản lượng nuôi
tăng gấp 65 lần, đóng góp khoảng 2% GDP của cả nước; chiếm hơn 1/2
tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu cả nước. Thị trường tiêu thụ cá tra đã
được mở rộng và có uy tín ở 130 nước và vùng lãnh thổ. Một số nước, khu
vực nhập khẩu lớn là Ucraina, Nga, EU, Bắc Phi, Trung Đông, Mỹ. Nhóm
sản phẩm cá basa càng quan trọng, bởi chỉ sử dụng một diện tích rất nhỏ bé
để nuôi (khoảng 6.000 ha mặt nước, bằng 1% diện tích nuôi tôm), có năng
lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tạo việc làm cho hàng chục vạn công
nhân, nông ngư dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là ở vùng
nông thôn ĐBSCL
Theo những chủ hộ nuôi cá tra ở các tỉnh miền Tây Nam bộ như: Tiền
Giang, An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp…. mới đây nhiều doanh nghiệp
chế biến thủy sản xuất khẩu đã tăng giá thu mua cá tra thêm 200
đồng/kg, đạt mức 16.000 đồng/kg cá loại 1, tuy nhiên người nuôi cá vẫn
lỗ vốn.
Hiện nay, giá thành sản xuất của cá tra thấp nhất là 16.500 đồng/kg.
Không chỉ người nuôi cá tra thương phẩm bị ảnh hưởng mà những
người ương giống cá tra cũng mất gần 50% doanh thu. Trước đây, giá
cá tra giống loại 70 con/kg là 30.000 đồng/kg thì nay chỉ còn 17.000 đến
18.000 đồng/kg.
15
Theo thống kê của Hiệp Hội Chế Biến và Xuất Khẩu Thủy Sản Việt
Nam, 3 tháng đầu năm 2010, tổng lượng cá tra xuất khẩu xấp xỉ 150
ngàn tấn thành phẩm, với giá trị khoảng 310 triệu đô la xuất khẩu.
Trong đó, thị trường Châu Âu chiếm tỉ trọng lớn nhất với khoảng 38%,
sau đó là thị trường Mỹ và các thị trường khác. Tuy nhiên, bước vào
tháng 4, tình hình thị trường tiêu thụ cá bắt đầu có những dấu hiệu giảm
sút giữa tỉ giá của đồng Euro so với đồng đô la Mỹ (do tỉ giá Euro giảm
so với đồng đô la Mỹ); khiến việc mua bán giữa doanh nghiệp trong
nước và công ty nước ngoài bị chậm lại, ảnh hưởng đến việc xuất khẩu
cá.
Hiện nay, giá cá nguyên liệu dao động trong phạm vi chất lượng từ
15.300đ/kg – 16.000đ/kg. Thực tế, chỉ có khoảng 10% người nuôi bán
được với giá 16.000/kg, còn lại trung bình chỉ bán được với giá
15.300đ/kg cho hợp đồng trả chậm sau 45 ngày bắt cá, riêng trường hợp
nhận tiền trong vòng 1 tuần thì chỉ bán được 15.000đ/kg. Giá cá sụt thê
thảm khiến người nuôi chịu lỗ từ 1500 – 2000đ/kg.
Việc bỏ công sức, vốn liếng ra thì nhiều mà lãi thu về lại ít, dẫn đến rất
nhiều hộ nông dân quyết định không thả giống, không nuôi trong vụ
này. Trong khi đó các doanh nghiệp thì không thể đẩy giá thu mua lên
cao, cũng như xuất khẩu với giá cao hơn.
Giải pháp cho đầu ra cá cá ba sa ổn định
Việc thành lập Ban chỉ đạo phát triển cá vùng đồng bằng sông Cửu Long
đến nay đã hình thành, tuy nhiên, vấn đề nuôi cá basa bền vững hầu như
vẫn chưa có giải pháp khả thi. Do vậy, diện tích và mật độ thả nuôi vẫn tiếp
tục giảm, có ảnh hưởng chung đến nghề nuôi thủy sản. Theo số liệu của Bộ
16
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, sản lượng nuôi trồng thủy sản 05
tháng đầu năm 2010, ước đạt 872 ngàn tấn, đạt gần 33% kế hoạch và giảm
trên 5% so với cùng kỳ năm trước.
Làm gì để giữ vững diện tích nuôi cá, cùng với đó là giúp nông dân tiêu
thụ sản phẩm, ổn định nguồn cung, đáp ứng kịp thời nguồn cầu, phát
triển thị trường cá tra Việt Nam ra thế giới là vấn đề mà các cấp, ban
ngành liên quan cần có những giải pháp thiết thực và đồng bộ. Đã từ
nhiều năm nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ngân hàng,
nông dân và các doanh nghiệp cùng vào cuộc, tìm giải pháp nhằm tạo ra
sản phẩm có chất lượng cao từ cá ba sa. Giúp cho việc xuất khẩu cá tra
của Việt Nam được thuận lợi, mang lại lợi nhuận cao cho ngành Thủy
sản Việt Nam và đời sống của người nuôi cá cũng được nâng lên. Vấn
đề về an toàn thực phẩm có ý nghĩa quan trọng đến xu hướng phát triển
của vùng nuôi cá ba sa. Hiện nay, thị trường thế giới đang đặt ra các tiêu
chuẩn rất cao cho cá basa và cả hàng hóa nông sản xuất khẩu. Muốn
vượt qua các rào cản do các nước nhập khẩu đặt ra, phải đáp ứng và
tuân thủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm từ nuôi trồng cho
đến chế biến và tiêu thụ. Vì thế, việc xây dựng một quy định, một tiêu
chuẩn chung cho nghề nuôi cá basa ở đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) và cả nước nhằm tạo ra thế phát triển bền vững là một yêu
cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Tuy nhiên, việc kiểm soát chất lượng thức ăn và sản phẩm chế biến cá
ba sa còn chưa được quan tâm thỏa đáng. Điều này đã làm ảnh hưởng
đến việc tiêu thụ sản phẩm rất nhiều. Để nghề nuôi thủy sản nói chung
và nuôi cá basa nói riêng phát triển ổn định và bền vững, trong xu thế
17
phát triển hiện nay, thì quá trình sản xuất phải được quản lý bởi các hệ
thống quản lý chất lượng tiên tiến, sản phẩm tạo ra phải đảm bảo chất
lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng được các yêu cầu của thị
trường như CoC/Gap/BMP, SQF Có như vậy, sản phẩm mới có sức
cạnh tranh, tăng hiệu quả cho hoạt động nuôi trồng, góp phần nâng cao
kim ngạch xuất khẩu.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án phát triển sản xuất và tiêu thụ
cá tra đến năm 2020. Tuy nhiên, muốn tổ chức tốt đề án này cần có tính
chiến lược, nguồn hỗ trợ là nhà nước phải tiếp tục cho vay, với lãi suất
ưu đãi và dễ tiếp cận. Hy vọng, với sự chung tay của các cấp, các ngành,
các tra và cá ba sa của Việt Nam sẽ có chỗ đứng chắc trên thị trường thế
giới.
Tình hình xuất khẩu cá tra, cá ba sa hiện nay rất khó khăn. Đặc biệt,
thị trường EU tăng cường kiểm tra chất lượng nghiêm ngặt và trả về
nhiều lô hàng không đạt. Điều đáng nói là năm nay qua kiểm tra cho
thấy chất lượng cá nhiều nơi kém, cá biệt có những nơi có khoảng
80% bị nhiễm chất kháng sinh Malachite. Đây là một cảnh báo cần
nhanh chóng khắc phục. Có thể nói, lượng cá tra, cá ba sa tồn đọng
hiện nay rất lớn, tuy nhiên thị trường đang thiếu trầm trọng số lượng
“cá tốt”, khiến nhiều hợp đồng xuất khẩu phải hủy bỏ.
các nhà doanh nghiệp, chăn nuôi cá nên tăng cường kiểm
tra chất lượng cá thường xuyên khi đang nuôi, nâng cao trình độ
chuyên môn về vấn đề nuôi cá basa vá quan trọng hơn hết các nhà
doanh nghiệp nên đảm bảo được môi trường nuôi cá basa sao cho
tốt nhất và phù hợp theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thực trạng nuôi tự phát diễn ra tràn lan thiếu kiểm soát quản lý.
Điển hình như khi cá basa được giá cao thì lập tức sau đó hàng loạt hộ
đào ao hầm thả nuôi ào ạt. Diện tích cứ phát triển theo cấp số nhân, 1
người trúng thì 3 người mới nhảy vào nuôi cá… nhiều địa phương chỉ
18
lo mở rộng diện tích nhưng đầu ra bỏ ngỏ, trong khi nông dân cứ làm
gàn, việc này rất khó. Cần phải thấy rằng, thị trường quyết định mọi
thứ. Giá cả lên xuống cũng như nước lớn nước ròng, vấn đề là chúng
ta thiếu dự báo và thiếu quy hoạch điều tiết sản lượng.
- Các nhà nuôi cá basa nên nắm rõ thực trạng về tình
hình xuất khẩu cá basa trong và ngoài nước, phải biết được khả
năng của bản thân mình. Mỗi nhà doanh nghiệp nuôi cá basa
tránh đi theo xu hướng nuôi cá basa ồ ạt như hiện nay, họ cần có
cái nhìn chính xác về thực trạng cá basa tại Việt Nam và cần vạch
ra một kế hoạch phát triển lâu dài, tránh việc khi cá basa mất
mùa thì doanh nghiệp coi như phá sản
Mặc dù diện tích nuôi được mở rộng, năng suất, sản lượng và
kim ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm song nghề nuôi cá tra
và cá basa tại khu vực ĐBSCL vẫn chưa thật ổn định và bền vững.
Trong sản xuất vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về ô nhiễm môi trường,
biến động về thị trường, giá cả. Có thể dẫn chứng điều này qua sự
kiện năm 2005, do EU tăng cường các biện pháp kiểm soát việc sử
dụng kháng sinh trong thủy sản xuất khẩu của Việt Nam cộng tác
động của vụ kiện chống phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ
khiến nguồn nguyên liệu bị “dội chợ” làm cho không ít người nuôi
lâm vào cảnh phá sản.
- Mỗi nhà doanh nghiệp cần có cái nhìn thấu đáo khi quyết
định đưa cá basa xuất khẩu ra nước ngoài,. Việc các nhà doanh nghiệp
xuất khẩu cá basa ngày càng gia tăng khiến việc kiểm soát chất lượng
cá của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn cộng thêm việc biến động về
thị trường giá cả nên mỗi nhà doanh nghiệp cần tìm kiếm cho mình
một đầu mối và lượng khách hàng trung thành, đồng thời không ngừng
nâng cao ý thức, trình độ của mình trong việc chăn nuôi cá basa.
Tránh tình trạng khi cá basa đã thu hoạch và xuất khẩu thì lại không
đạt đủ tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
19
Đó là chuyện cá bị nhiễm chất malachite green. Có thể nói đây là vấn
đề đặc biệt nghiêm trọng, nó liên quan đến sự sống còn của ngành sản
xuất và xuất khẩu cá basa của chúng ta. Việc xây dựng thương hiệu
sản phẩm thủy sản, tăng sản lượng sản phẩm xuất khẩu phải bắt đầu từ
việc tạo ra những sản phẩm sạch, an toàn. Trong khi đó nhiều diện
tích nuôi cá đã sử dụng loại malachite green làm ảnh hưởng đến chất
lượng nguyên liệu đầu vào. Vấn đề này cần phải được chấn chỉnh
ngay trong thời gian tới, nếu không thì giá có tăng mạnh chúng ta
cũng không thể bán được hàng.
- Đây là vấn đề nan giải của các nhà doanh nghiệp tại Việt
Nam. Để đạt được thành công cho việc xuất khẩu cá basa và làm ăn lâu
dài với các nước bạn, các nhà doanh nghiệp nên học hỏi các kỹ thuật
xử lý tiên tiến của nước bạn để đảm bảo cá basa của việt nam khi xuất
khẩu phải đảm bảo về chất lượng và vệ sinh.
Các doanh nghiệp cần tính tới những phương án đẩy mạnh
khai thác thị trường nội địa. Về đầu ra của cá ba sa hiện nay,
doanh nghiệp không nên và không thể chỉ quan tâm đến việc
chuyển sang khai thác những thị trường xuất khẩu khác. Không
thể có chuyện con cá xuất qua Mỹ bị các ràng buộc về đóng bond,
chúng ta lại chăm chăm vào thị trường châu Âu, rồi khi đụng
20
chuyện chúng ta tiếp tục chuyển sang tìm kiếm thị trường xuất
khẩu khác.
Bộ Thương mại cho biết đã có thư gửi cho lãnh sự quán VN ở các
nước, đặc biệt là những nước chưa áp dụng những rào cản kỹ
thuật như Đông Âu, Trung Đông, châu Phi yêu cầu tăng cường
tiếp thị, giúp các doanh nghiệp tiêu thụ cá.
* Các doanh nghiệp nuôi cá basa phải đăng ký với chính quyền,
phải có hợp đồng tiêu thụ với doanh nghiệp… nhằm kiểm soát tốc
độ mở rộng diện tích nuôi cá. Đây cũng là biện pháp tốt cần áp
dụng. Trong một thị trường lành mạnh thì quan hệ làm ăn giữa
hai đối tác phải có hợp đồng rõ ràng chứ không thể ai muốn làm
gì thì làm, mạnh ai nấy làm. Vấn đề là không phải đưa ra qui định
đăng ký nuôi rồi gây phiền hà cho người dân, mà là nhằm kiểm
soát tốt hơn nguyên liệu đầu vào của sản phẩm. Tuy nhiên, nếu có
áp dụng cũng không nên đưa ra biện pháp chế tài. Hiện nay khâu
quản lý của chính phủ vẫn còn rất nhiều việc, chính phủ chưa đưa
quản lý đi vào qui củ mà đã tính đến biện pháp chế tài các nhà
doanh nghiệp thì không ổn.
Theo VASEP, để khai thác tốt các thị trường, yêu cầu đầu tiên là phải
có đủ nguyên liệu để chế biến. Cả nước có khoảng 700 nhà máy chế
biến thủy sản quy mô công nghiệp nhưng hiện nguyên liệu chỉ đáp
ứng được 50% nhu cầu. Để có thể nâng cao kim ngạch xuất khẩu thủy
sản giai đoạn cuối năm, đòi hỏi chính phủ nên xem xét giảm thuế
nhập khẩu nguyên liệu thủy sản xuống 0%.
Ngoài ra, Trung Đông - có cộng đồng Hồi giáo khoảng 1,8 tỷ
21
người, với tốc độ tăng trưởng dân số nhanh nhất thế giới gần 3%/năm,
cũng là thị trường tiềm năng cho mặt hàng thủy sản. Nếu biết khai
thác tốt các thị trường này, năm 2009 mặt hàng thủy sản có thể đạt
1,75 tỷ USD, nâng kim ngạch cả năm lên 4,4 tỷ USD (năm 2008 là
4,5 tỷ USD), đây sẽ là con số đầy khích lệ mà từ đầu năm ít ai có thể
nghĩ tới trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu.
Vấn đề lớn nhất đối với sự phát triển của ngành thủy sản Việt
Nam hiện nay là sự mất cân đối về nhận thức cũng như hành động của
các thành phần khác nhau trong chuỗi giá trị. Nghề nuôi trồng và khai
thác thủy sản về cơ bản vẫn được đặt trong chế độ “tiếp cận tự do”,
việc quản lý chỉ là hành vi mang tính đối phó từng vụ việc. Nuôi trồng
tự phát đã đe dọa đến môi trường và sự phát triển bền vững, thông tin
thị trường không thông suốt, thiếu mối liên kết giữa các thành phần
trong chuỗi hệ thống, gây nên nhiều trở ngại trong xuất khẩu như:
nhiễm bẩn sản phẩm, dư lượng kháng sinh
Trong hệ thống bán lẻ thủy sản hiện nay chủ yếu thông qua các chợ
thông thường. Ở đó, thủy sản được bán chung với rất nhiều loại thực
phẩm khác. Cho đến nay chưa có một chợ bán buôn hay trung tâm đấu
giá chuyên thủy sản, kể cả sản phẩm làm nguyên liệu cho chế biến
xuất khẩu để tiêu dùng trong nước. Chính những lý do trên nên ngành
thủy sản đã không ít lần gặp phải những trở ngại trên những thị trường
nhập khẩu.
22
Chưa kể, hệ thống tổ chức quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản
còn tồn tại nhiều vướng mắc như trong vấn đề chậm trễ cập nhật các
văn bản pháp quy để phù hợp với các thị trường xuất khẩu, hệ thống
cán bộ phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu, quản lý hàng thủy sản
chưa được thực hiện bài bản cũng tạo nhiều khó khăn, thách thức
trong xuất khẩu thủy sản.
- có nhiều ý kiến cho rằng, để phát triển bền vững cho ngành thủy
sản cần tập trung vào 3 nhóm chính: rà soát, các nhà doanh nghiệp
phải hiểu rõ trình độ phát triển và vị trí của Việt Nam trong cộng đồng
nghề cá thế giới, bảo đảm hài hòa với hệ thống hiệp định và cam kết
quốc tế về phát triển nghề cá. Kế đến là tăng cường năng lực hệ thống
quản lý, xây dựng chính sách và bảo đảm thi hành luật. Cuối cùng,
đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác, liên kết các thành viên trong chuỗi
giá trị bởi các mối liên kết này là cơ sở để thực hiện luật và các giải
pháp quản lý
Vùng ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng khá nhanh về diện tích nuôi cá ba
sa nên việc tìm ra các giải pháp cho sự phát triển bền vững là một vấn
đề cấp bách. Chỉ tính riêng trên địa bàn TP Cần Thơ, diện tích nuôi
thủy sản hơn 1.300 ha, với khoảng 980 ha diện tích mặt nước với 3
loại hình nuôi là thâm canh, nuôi cá địa phương và nuôi cá trên ruộng.
Đặc biệt, diện tích nuôi cá tra có tốc độ phát triển nhanh nhưng người
dân chủ yếu là nuôi tự phát, vùng nuôi chưa có qui hoạch tổng thể,
nên người dân luôn phải chạy theo giá, tình trạng thua lỗ ngày càng
nhiều, chưa kể môi trường cũng bị ô nhiễm.
Để tìm giải pháp cho sự phát triển ngành thủy sản bền vững, để
hướng đến sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, hiện nay ngành
đang thí điểm và hướng người dân nuôi theo qui trình sạch (GAP,
SQF), với chủ trương là sẽ xây dựng sản phẩm theo khung chất lượng,
sản phẩm an toàn, giá thành thấp, chi phí sản xuất thấp sẽ đối phó
được các loại giá thu mua mà khó có thể lỗ và an toàn cho môi trường
nước”.
23
Với điều kiện tự nhiên và hạ tầng cơ sở chế biến, có thể khẳng định
rằng Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng có khả năng và tiềm
lực rất lớn để xuất khẩu thủy, hải sản. Tuy nhiên, các doanh nghiệp
cần phải tạo ra một mặt bằng tốt, hệ thống giá trị đồng đều cùng với
việc hiểu rõ tường tận về pháp luật để phù hợp với nguyên tắc của các
nước nhập khẩu thì mới mở đường cho xuất khẩu hàng thủy sản Việt
Nam ra thế giới một cách bền vững.
Giải pháp để phát triển ngành cá basa được bền vững là phải chú trọng
chất lượng và giá trị, mở rộng hơn về diện tích và tổng sản lượng.
Phát triển một số sản phẩm chủ lực như: các sản phẩm đặc sản bản
địa; đồng thời rà soát lại các chương trình dự án, từ đó đưa ra các
chương trình dự án mới. Bên cạnh việc mở rộng diện tích nuôi; điều
chỉnh quy mô sản xuất cá basa các loại theo nhu cầu thị trường, các
địa phương cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nâng cao năng
lực các cơ sở sản xuất giống chất lượng và sạch bệnh, bảo đảm
nguyên liệu cho sản xuất.
Các nhà doanh nghiệp cần xây dựng được chiến lược phát triển
dài hạn, phải có mô hình tổ chức tiên tiến hơn và phương thức hoạt
động hiệu quả cho thời kỳ hội nhập. Trong khi đó, nhiều diễn biến
phức tạp như doanh nghiệp trong nước cạnh tranh không lành mạnh
thể hiện qua việc mua nguyên liệu đã bị bơm chích tạp chất, giảm giá
bán để cạnh tranh khách hàng, lạm dụng hóa chất tăng trọng, vi phạm
các quy định về nhãn mác sản phẩm… Điều này đang gây ảnh hưởng
xấu đến hình ảnh ngành thủy sản, gây tác hại cho uy tín và cộng đồng
doanh nghiệp, đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải tự thức tỉnh và nâng
cao trình độ cũng như uy tín của mình đối với khách hàng trong và
ngoài nước.
Chú trọng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa
Đó là giải pháp cần thiết để phát triển ngành thủy sản bền
vững, vấn đề quan trọng nhất để phát triển thủy sản là thị
24
trường, chú ý xúc tiến thương mại. Để cạnh tranh, Việt
Nam phải phát triển được tiềm năng sẵn có trong nước,
như đầu tư mạnh cho nuôi tôm sú và cá tra. Đồng thời,
dự báo về biến đổi tài nguyên liên quan đến thủy sản để
nâng cao chất lượng thủy sản. Các nhà doanh nghiệp cần
phải củng cố, tìm kiếm mở rộng thị trường tiềm năng,
nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng để cải tiến và đa dạng hóa
hàng hóa, sản phẩm thủy sản. Phối hợp chặt chẽ trong
quản lý, sản xuất và lồng ghép vấn đề "tam nông" nhằm
hạn chế rủi ro về thị trường và nguồn vốn sản xuất. Tuy
nhiên, yêu cầu của thị trường ngày một cao nên các
doanh nghiệp kinh doanh, chế biến thủy sản phải tập
trung nâng cao chất lượng.
Giải pháp phát triển chung của ngành thủy sản là chú
trọng chất lượng và giá trị, mở rộng hơn về diện tích và tổng
sản lượng. Phát triển một số sản phẩm chủ lực như: các sản
phẩm đặc sản bản địa; đồng thời rà soát lại các chương trình dự
án, từ đó đưa ra các chương trình dự án mới. Trước mắt, yêu
cầu các nhà doanh nghiệp cần rà soát lại diện tích nuôi trồng
thủy sản, bảo đảm các điều kiện cho các vùng nuôi thâm canh,
an toàn dịch bệnh. Bên cạnh việc mở rộng diện tích nuôi; điều
chỉnh quy mô sản xuất cá basa theo nhu cầu thị trường, các nhà
doanh nghiệp cũng cần đầu tư nâng cao năng lực các cơ sở sản
xuất giống chất lượng và sạch bệnh, bảo đảm nguyên liệu cho
sản xuất.
-Các nhà doanh nghiệp phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát an
toàn vệ sinh chất lượng hàng thuỷ sản từ khâu nuôi trồng – nguyên
liệu tới thành phẩm để giữ uy tín cho hàng thuỷ sản của Việt Nam
cũng như đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu; nghiên cứu
và lai tạo các giống mới có chất lượng cao.
-Các nhà doanh nghiệp xuất khẩu cá basa theo quy mô lớn cần phải
trang bị máy móc, thiết bị và chi phí kiểm tra dư lượng kháng sinh và
vệ sinh an toàn thực phẩm (kể cả khâu thu mua nguyên liệu, sơ chế,
sản xuất và xuất khẩu).
25