Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để thâm canh cây cam canh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.01 KB, 44 trang )

Tiểu luận
Nghiên cứu ứng dụng các
tiến bộ kỹ thuật để thâm
canh cây cam Canh
Mục Lục
Ti u lu nể ậ 1
Nghiên c u ng d ng các ti n b k thu t thâm canh cây cam Canhứ ứ ụ ế ộ ỹ ậ để 1
M c L cụ ụ 2
Ph n I. K THU T THÂM CANH CÂY CAM CANHầ Ỹ Ậ 5
1. K thu t nhân gi ng cam Canhỹ ậ ố 5
2. K thu t canh tác cây cam Canhỹ ậ 13
2.1. K thu t ch n gi ngỹ ậ ọ ố 13
2.2. K thu t tr ng v ch m sócỹ ậ ồ à ă 13
2.2.2. Th i v , m t , cách tr ngờ ụ ậ độ ồ 14
2.2.3. Ch m sóc sauă khi tr ngồ 14
2.3. Các lo i sâu, b nh h i chính v bi n pháp phòng tr ạ ệ ạ à ệ ừ 20
2.3.1. Sâu v bùa (Phyllocnistis citrella Stainton)ẽ 21
2.3.2. R y ch ng cánh Diaphorina citri Kuway. ầ ổ 22
2.3.3. Nh nệ 23
2.3.4. R p mu i m u en Toxoptera aurantii (Fonsc)ệ ộ à đ 23
2.3.5. B nh loétệ 24
2.3.6. B nh s oệ ẹ 26
2.3.7. B nh ch y gômệ ả 27
2.3.8. B nh Greening (Liberobacterium asiaticium)ệ 28
2.3.9. B nh Tristeraệ 28
2.4. Thu ho ch v b o qu nạ à ả ả 28
2.4.1. Thu ho chạ 28
2.4.2. Phân lo i v b o qu nạ à ả ả 29
Ph n II. NGHIÊN C U NG D NG CÁC TI N B K THU T THÂM ầ Ứ Ứ Ụ Ế Ộ Ỹ Ậ ĐỂ
CANH CÂY CAM CANH THEO H NG S N XU T HÀNG HÓA PH ƯỚ Ả Ấ Ù
H P V I V NG NGHIÊN C UỢ Ớ Ù Ứ 33


2.1. T ng quan v vùng nghiên c uổ ề ứ 33
2.1.1. V trí a lý H ng Yênị đị ư 33
2.1.2. T i nguyên n cà ướ 34
2
2.1.3. T i nguyên tà đấ 34
2.2. Nghiên c u ng d ng các ti n b k thu t thâm canh cây cam ứ ứ ụ ế ộ ỹ ậ để
Canh theo h ng s n xu t h ng hóa phù h p v i vùng nghiên c uướ ả ấ à ợ ớ ứ 35
2.2.1. K thu t nhân gi ng ỹ ậ ố 35
2.2.2. K thu t ch n gi ngỹ ậ ọ ố 35
2.2.3. K thu t tr ng v ch m sócỹ ậ ồ à ă 35
2.2.4. K thu t phòng tr các lo i sâu, b nh h i chính ỹ ậ ừ ạ ệ ạ 39
2.2.5. Thu ho ch v b o qu nạ à ả ả 40
2.2.6. K thu t ch m sóc cây cam sau khi thu ho chỹ ậ ă ạ 42
K T LU NẾ Ậ 43
LỜI MỞ ĐẦU
Nội thành thủ đô Hà Nội là nơi tập trung dân cư với mật độ lớn nhất của cả
nước, nên nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng, sản phẩm nông nghiệp là rất lớn. Theo kết
quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số Hà Nội là 6.448.837
người. Mật độ dân số Hà Nội hiện nay, cũng như trước khi mở rộng địa giới hành
chính, không đồng đều giữa các quận nội ô và khu vực ngoại thành. Trên toàn thành
3
phố, mật độ dân cư trung bình 1.979 người/km² nhưng tại quận Đống Đa, mật độ
lên tới 35.341 người/km². Trong khi đó, ở những huyện như ngoại thành như Sóc
Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, mật độ không tới 1.000 người/km². Theo báo cáo quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội thì quy mô dân số Hà Nội đến
năm 2015 đạt 7,2 - 7,3 triệu người, năm 2020 khoảng 7,9 - 8 triệu người và năm
2030 khoảng 9,2 triệu người.
Hàng năm, trên địa bàn thành phố tính đến năm 2020 bình quân hàng năm mất
hơn 1.000 ha đất nông nghiệp dành cho các dự án và phát triển đô thị. Tốc độ đô thị
hóa, công nghiệp hóa nhanh như hiện nay khiến cho hàng chục ngàn hecta đất sản

xuất nông nghiệp màu mỡ phải nhường chỗ cho các khu công nghiệp, đô thị mới.
Trong khi sức ép gia tăng dân số của thủ đô và yêu cầu về chất lượng cuộc sống nói
chung và nhu cầu tiêu dùng nói riêng đã làm cho phát triển nông nghiệp truyền
thống gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, thành phố bắt đầu chuyển hướng
phát triển các vùng chuyên canh rau màu, cây ăn quả, chăn nuôi tập trung phục vụ
Thủ đô ra các vùng ven đô và nhập từ nơi khác về để thích ứng với nhu cầu tiêu
dùng như hiện nay và trong những năm tới.
Trên thực tế các sản phẩm hàng hóa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của Thủ
đô Hà Nội được cung cấp bởi các địa phương khác là chính, bao gồm một số huyện
phía tây của Hà Nội và các tỉnh Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Hưng Yên có vị trí thuận lợi
trong việc cung cấp các sản phẩm nông nghiệp đặc biệt là các sản phẩm tươi sống
như rau, hoa, quả,… Diện tích đất nông nghiệp ở các vùng này còn khá lớn, người
dân đã có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp và có khả năng sản xuất một số
mặt hàng trái vụ cho Thủ đô. Mặc dù đã có những quy hoạch nông nghiệp tuy nhiên
do những nguyên nhân chủ quan và khách quan nên một số sản phẩm có giá trị
hàng hóa cao vẫn chưa được khai thác và phát triển thành vùng sản xuất hàng hóa
tập trung. Và để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa phục vụ nhu
cầu tiêu dùng của người dân thủ đô thì việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào
sản xuất là việc quan trọng, nhằm đem tới sản phẩm sạch tới tay người tiêu dùng
mặt khác đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho người sản xuất, lại góp phần cải tạo
môi trường sinh thái, môi trường sản xuất nông nghiệp từ lâu đã bị ô nhiễm do việc
lạm dụng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Đặc biệt là đối với những loại sản
4
phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế, giá trị dinh dưỡng cao như cam Canh thì việc
đẩy nhanh áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất theo hướng hàng hóa là việc
hết sức cấp thiết. Chính vì những nguyên nhân trên tôi tiến hành thực hiện nghiên
cứu chuyên đề: Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thâm canh cam Canh theo
hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với vùng nghiên cứu.
Phần I. KỸ THUẬT THÂM CANH CÂY CAM CANH
1. Kỹ thuật nhân giống cam Canh

Hiện nay nhân giống cam canh chủ yếu là bằng phương pháp ghép, do hệ số
nhân giống cao. Song thực tế sản xuất đang có nhiều bàn cãi về vấn đề này vì một
số người cho rằng quả cam thu được từ cây ghép có chất lượng kém hơn so với từ
5
cây chiết cành, đây có thể là kết quả của sự lai tạo nào đó giữa cành ghép và gốc
ghép.
Trong sản xuất hiện nay, người ta thường ghép cam Canh lên gốc bưởi. Việc
chọn mắt, cành cam là việc hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
sinh trưởng của cây cũng như chất lượng quả sau này. Do đó, người ta thường chọn
những cành đã có tuổi phát dục tương đối già (ra quả 5 – 7 năm, sản lượng, phẩm
chất đã ổn định), để ghép lên gốc bưởi có tuổi phát dục non (trên dưới một năm
tuổi). Như thế đứng về khả năng bảo thủ tính di truyền thì cành ghép mạnh hơn gốc
ghép, do vậy mà tính di truyền của cành ghép rất ít bị lay động, tức là gốc ghép ít bị
ảnh hưởng đến phẩm chất của cành ghép.
1.1. Xây dựng vườn tập đoàn cây mẹ ưu tú cung cấp mắt ghép
Vườn cây mẹ cung cấp mắt ghép được trồng bằng cây giống được nhân ra từ
những cây đầu dòng chọn lọc, không có sâu bệnh những cây này có thể coi là
những cây giống gốc, được duy trì và chăm sóc trong điều kiện an toàn tối ưu để
tránh tái nhiễm bệnh.
Vườn cây mẹ cũng phải được bảo vệ an toàn khỏi sự tấn công của sâu bệnh
hại, những vùng xây dựng vườn ươm mà điều kiện cách ly về không gian, không có
sự xuất hiện của các bệnh hại nguy hiểm (bệnh Greening, Tristera) thì có thể trồng
ngoài trời, còn ngược lại thì phải thực hiện 1 trong 2 cách: hoặc là xây dựng các lô
nhân nhanh, trồng với mật độ rất cao và được bảo vệ định kì bằng việc xử lí các loại
thuốc bảo vệ thực vật hoặc là trồng trong các nhà lưới cách ly
* Vườn cây mẹ trồng ngoài trời
- Chuẩn bị đất và trồng mới:
+ Chọn đất, làm đất, đào hố trồng và bón lót phân phải được tiến hành sớm,
đảm bảo yêu cầu nói trên.
+ Khoảng cách trồng: Hàng x cây = 4 x 3 m.

- Kỹ thuật chăm sóc vườn cây mẹ sau khi trồng
+ Bón phân: Thời kỳ cây còn nhỏ 1-3 tuổi: Hàng năm cần bón thúc vào thời
điểm: Tháng 1, tháng 2, tháng 5 và tháng 11.
Lượng bón:
Loại phân Khối lượng (kg /cây)
Phân hữu cơ hoai 5-20
6
mục
Đạm Urê 0,1-0,2
Super lân 0,2-0,5
Kali 0,1-0,2
Thời kỳ thu hoạch từ năm thứ 4 trở đi:
Loại hình bón Thời gian
bón
Loại phân sử dụng Khối lượng phân
(kg/cây)
Bón cơ bản 15/8 – 15/11 Phân hữu cơ + Super
lân + Vôi.
30kg + 1kg + 0,8kg
Bón cành xuân 15/1 -15/3 Đạm Urê + Kali. 1 kg + 0,2 kg
Bón thúc cành thu 15/7 - 15/8 Đạm Urê + Kali. 1 kg + 0,2 kg
Cách bón: Đào rãnh hoặc hốc rộng 20 cm, sâu 15-20 cm xung quanh tán cây,
rắc phân lấp đất, tưới đẫm nước. Khi bón cần kết hợp xới xáo, làm cỏ.
+ Cắt tỉa: Cắt tỉa nhằm kích thích sự đâm chồi của các cành non mới, nên được
tiến hành thường xuyên và sớm hơn so với vườn đại trà.
+ Tưới nước: Luôn bảo đảm đủ ẩm cho vườn cây, nếu trời không mưa cứ 3
ngày tưới 1 lần.
+ Phòng trừ sâu bệnh hại: Được thực hiện thường xuyên hơn so với vườn sản
xuất, để tránh sự lây lan của các loài sâu, bệnh từ bên ngoài vào.
- Sản xuất và thu hoạch mắt ghép:

+ Cành ghép sử dụng tốt nhất ở độ tuổi 4 - 6 tháng tuổi. Những cành non hơn
cũng có thể khai thác được nhưng để cho ghép đoạn cành hoặc ghép nối ngọn.
+ Cành ghép phải được cắt rời bằng kéo đã được khử trùng trước và sau khi
cắt xong 1 cây bằng nước Javel thương mại có 120 Chlor nguyên chất, sau đó cắt
bỏ lá, cắt sát điểm kết nối của cuống lá, rồi bó lại thành từng bó khoảng 25 - 30
cành/ bó, bọc kín trong vải ẩm, dán nhãn và ghi số hiệu của giống, sau đó ngâm
trong dung dịch Benomyl 5% hoặc Captan 5% để khử trùng bề mặt.
+ Sau khi lau và để khô dần trong chỗ râm mát, mắt ghép có thể đem sử dụng.
Nếu chưa sử dụng hoặc phải vận chuyển đi xa trong vòng 24 giờ phải bịt kín 2 đầu mắt
ghép bằng parafine và giữ trong các túi PE hàn kín. Nếu để lâu hơn cần bảo quản cành
ghép ở điều kiện nhiệt độ 10C
0
, ẩm độ không khí 75 - 90%.
1.2. Xây dựng vườn cây mẹ từ các lô nhân nhanh
7
Mục đích của việc xây dựng vườn cây mẹ từ các lô nhân nhanh là để phòng
khi vườn tập đoàn cây mẹ cho mắt ghép không thể cung cấp đủ mắt ghép theo yêu
cầu của sản xuất, hoặc trong trường hợp vườn cây mẹ bị nhiễm các bệnh nguy hiểm
như: Tristeza, Greening, thì cần tiến hành nhân vật liệu trồng vườn tập đoàn cây
mẹ cung cấp mắt ghép với mật độ dày 8000 cây/ha, tức là với khoảng cách 1,8 m x
0,7 m và chỉ duy trì trong thời gian ngắn.
Các lô nhân nhanh được chăm sóc trong những điều kiện thuận lợi nhất cho sự
sinh trưởng của cây (nhiệt độ, ánh sáng, nước, dinh dưỡng khoáng) cũng như các
điều kiện về phòng chống dịch bệnh bằng sử dụng thuốc hoá học, hoặc trồng trong
các nhà lưới cách ly 2 cửa.
Thu hoạch cành mắt ghép có thể bắt đầu sau khi ghép được 6 tháng, sau đó
mỗi năm thu hoạch 3 đợt (4 tháng 1 lần).
K t qu trong 3 n m nh sau: ế ả ă ư
Năm 1 Năm 2 Năm 3
Số cành Cây có 3 cành Cây có 3 cành đôi Cây có 3 cành 3

Số mắt thu được/
cây
3 cành x 10 mắt/
cành = 30 mắt
2 x 3 x 10 = 60 mắt 3 x 3 x10 = 90 mắt
Số mắt thu được/
100 m
2
( 80 cây)
2.400 4.800 7.200
1.3. Chọn giống gốc ghép:
Hiện nay ở nước ta chưa có công trình nào nghiên cứu về gốc ghép cho cây
cam Canh có sức thuyết phục, vì thế trước mắt có thể dùng giống bưởi để làm gốc
ghép. Giống bưởi có khả năng sinh trưởng nhanh trong vườn ươm, khả năng tiếp
hợp tốt, có tỉ lệ ghép sống cao. Tuy nhiên, gốc ghép bưởi rất mẫn cảm với bệnh
chảy gôm, bệnh loét và cây ghép trên gốc bưởi những năm đầu bói quả chất lượng
quả chưa ổn định.
1.4. Thu hái quả, tách hạt và bảo quản hạt gốc ghép:
Thu hoạch quả khi quả đã đạt độ chín sinh lí (khi quả chuyển từ màu xanh
sang mầu vàng, số quả chuyển mầu từ 80% trở lên ). Tách hạt khỏi quả và rửa sạch
hạt khỏi lớp dịch nhầy, để ráo nước, ngâm trong dung dịch Aliette 80WP 0,2%
khoảng 5 phút để khử các mầm bệnh. Các hạt thường được trộn đều rồi rải thành
lớp mỏng ở nơi khô mát thông gió, tránh ánh sáng trực xạ. Khi hạt khô ráo tiến
hành loại bỏ những hạt lép, kếm chất lượng rồi đóng vào các túi PE nhỏ có ghi rõ
8
tên giống, nguồn gốc, ngày thu hái và đóng gói. Các gói hạt được bảo quản ở nhiệt
độ 3 - 4C
0
và ẩm độ 80 - 90%
1.5. Kỹ thuật ươm gieo, nhân giống:

* Gieo hạt
- Chuẩn bị đất
Đất vườn ươm nên chọn đất có 20% đất sét, 30% đất thịt, 50% cát thô. Kết cấu
này xẽ đảm bảo tiêu thoát nước tốt. Diện tích dành cho gieo hạt thường bằng 1/20
diện tích ra ngôi, nghĩa là 500m
2
gieo hạt xẽ đủ cho ra ngôi 1 ha (khoảng 30.000
cây).
Đất gieo hạt được bón phân như sau (tính cho 1 ha): 80 tấn phân chuồng hoai
mục, 800kg Supe lân, 1 tấn Đôlômít., 500kg Kali. Tất cả các loại phân trên được
trộn với nhau rồi rải đều trên mặt vườn sau đó cày, bừa kỹ để phân trộn đều với đất.
Lên luống rộng 1m, cao 30cm. Đất trên bề mặt luống (sâu 5 - 10cm) đập nhỏ
như đất gieo hạt rau, khử trùng bằng thuốc trừ nấm hoặc làm ải đất bằng cách xới
đảo đất nhiều lần trong những ngày trời nắng để diệt trừ nấm bệnh.
- Gieo hạt và chăm sóc sau gieo hạt.
Hạt được gieo thành hàng ngang trên luống, hàng cách hàng 12cm, hạt cách
hạt 1 - 2 cm, sâu 2 - 3 cm. Dùng rơm hoặc cỏ khô sạch phủ một lớp mỏng 5cm trên
mặt luống, sau đó tưới nước đẫm. Nên làm giàn che bằng lưới đen, căng cách mặt
luống khoảng 70cm đến 1m.
Thường xuyên tưới nước giữ ẩm. Thông thường trời không mưa tưới một lần
vào buổi chiều, lượng nước tưới khoảng 10 lít/m
2
cho đến khi hạt nẩy mầm (15 đến
20 ngày sau khi gieo). Khi hạt mọc mầm dỡ bớt rơm, cỏ phủ trên mặt luống để cây
mọc thẳng không bị cong queo.
* Ươm trong bầu để ngoài trời
- Ưu điểm: Là tiết kiệm được diện tích đất khi xuất cây, đất vườn ươm không bị mất
đi và không cần phải chọn đất tốt như vườn ươm trồng trực tiếp lên luống.
- Nhược điểm: Cây sinh trưởng chậm hơn, đầu tư ban đầu nhiều hơn vì phải mua cả
đất đóng bầu và vật tư làm giàn che. Tuy nhiên cũng có thể không cần làm giàn che

nếu như lấp kín 2/3 chiều cao bầu để giảm sự mất nước.
* Bầu trồng cây và hỗn hợp trồng:
9
Sử dụng túi bầu PE, có đường kính và chiều cao tương ứng là 12 x 25cm, đáy
có đục lỗ thoát nước. Hỗn hợp trồng cây cần phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Xốp thoáng khí nhưng lại phải giữ nước và thoát nước tốt.
- Bổ sung được dinh dưỡng cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây.
- Phải sạch mầm mống của sâu bệnh.
- Đảm bảo môi trường trung tính pH = 6,5 - 7,0.
Tuỳ điều kiện ở từng nơi mà có thể sử dụng vật tư khác nhau để phối trộn hỗn
hợp trồng thích hợp. Sau đây là một số công thức làm hỗn hợp mà trong sản xuất
thường dùng: 2/4 đất bãi ven sông + 1/4 trấu + 1/4 phân chuồng hoai mục, hoặc 2/3
đất mầu tốt + 1/3 phân chuồng hoai mục.
Cứ 1m
3
hỗn hợp của các công thức trên trộn thêm với 1kg Supe lân (hoặc 5 kg phân
lân vi sinh) và 0,5 kg Sunfát Kali, 1kg vôi bột.
* Ra ngôi, chăm sóc và ghép.
- Xếp bầu cây vào luống: Các bầu được xếp vào luống ngoài vườn ươm. Mỗi luống
4 hàng, khoảng cách giữa các luống là 45 - 50cm để thuận tiện cho khi ghép. Trong
trường hợp hệ thống tưới không tốt vẫn phải tưới thủ công thì nên chôn 2/3 bầu
dưới đất để giữ ẩm thường xuyên.
- Trồng cây vào bầu: Bứng cây con ở vườn ươm gieo hạt, không làm dập, đứt rễ.
Xử lí toàn bộ cây bằng dung dịch Aliette 0,2% trước khi trồng vào bầu.
* Chăm sóc cây sau khi ra ngôi:
- Tưới nước: Lần đâu sau khi ra ngôi tưới thật đẫm, các lần sau tưới để giữ cho bầu
thường xuyên ẩm, không để bầu khô cứng hoặc ngập úng.
- Bón phân: Đạm và Kali 15 ngày bón 1lần. Mỗi lần bón 3g Ure và 2g Kali, xăm
trộn phân với đất trong bầu sau đó tưới nước bằng ô roa cho tan hết phân.
- Phòng trừ sâu bệnh: Chú ý trong giai đoạn này cần phun thuốc phòng

- Tỉa cành, bấm lộc: Quá trình cây lớn các cành mọc ra ở phần thân trong khoảng 25
- 30cm từ mặt đất đều cắt bỏ để thân phát triển thẳng, tròn tạo đều kiện cho ghép
sau này được thuận tiện.
Trước khi ghép vệ sinh gốc ghép một lần nữa, cắt bỏ các chồi bên, gai và các
lá cây ở độ cao 35cm tính từ gốc, phần trên của cây vẫn để nguyên.
- Ghép nhân giống:
10
Trong sản xuất hiện nay đang sử dụng một số phương pháp ghép chủ yếu là
ghép nối ngọn, ghép mắt có gỗ và ghép cành bên. Nếu ghép sớm trong tháng 7, 8 và
nửa đầu tháng 9 nên ghép kiểu ghép mắt có gỗ để tiết kiệm mắt ghép, còn muộn
hơn, hoặc cành ghép non chưa hoá gỗ thì nên ghép theo kiểu ghép nêm đoạn cành.
Độ cao điểm ghép tối thiểu là 20cm tính từ mặt đất để tránh nầm bệnh từ đất
có thể nhiễm vào vết ghép. Dùng dây nilon loại mỏng 0,004mm làm dây ghép để
mầm ghép có thể tự bật qua dây ghép.
+ Chăm sóc sau khi ghép: Sau khi ghép 20 - 25 ngày thì cắt bỏ ngọn cây gốc ghép,
cắt cách vết ghép 2cm, sau dùng thuốc boocđô chấm lên vết cắt để tránh nấm bệnh
xâm nhập và thường xuyên cắt bỏ các mầm mọc ra ở phía dưới mắt ghép để tạo
thuận lợi cho mắt ghép phát triển.
Thời kỳ sau ghép đến xuất vườn các khâu chăm sóc đều tương tự như thời
kỳ trước khi ghép. Chú ý trong 8 - 12 ngày sau khi ghép tránh tưới nước lên lá để
không làm ướt vết ghép, giảm tỉ lệ sống của mắt ghép. Khi cành ghép cao 35 - 40
cm thì bấm ngọn để các chồi ngang phát triển tạo khung tán cây.
* Ươm trong bầu đặt trong nhà lưới chống côn trùng.
Loại hình vườn ươm này có ưu điểm nổi bật là cây được bảo vệ an toàn khỏi
sự tấn công của sâu hại và các đối tượng môi giới truyền bệnh hại nhưng rất tốn
kém về đầu tư cơ bản.
Đối với các cơ sở chuyên sản xuất giống, hoặc cơ quan có trách nhiệm lưu giữ
và nhân các giống gốc, giống đầu dòng có thể đầu tư các nhà lưới hiện đại, còn các
cơ sở nhỏ và tư nhân sản xuất giống mang tính chất thời chỉ nên đầu tư xây dựng
đơn giản.

Đối với một nhà lưới dạng hình ống kích thước rộng 8,5 - 9m, dài 30cm, cao 3
- 3,5m có thể xếp được 7500 bầu. Chú ý là các nhà lưới đơn giản thường không có
giá đặt bầu cây, mà đặt trực tiếp trên nền do vậy cần phải trải nền bằng tấm nilon để
bầu cây cách ly được với nguồn bệnh từ đất, tốt nhất là láng vữa xi măng.
Tất cả các thao tác ghép, chăm sóc cây đều thực hiện tương tự như vườn ươm
đã mô tả ở phần trên.
* Giới thiệu kỹ thuật vi ghép
Kỹ thuật vi ghép đỉnh sinh trưởng (Microshoot tip grafting) được Murashige
áp dụng lần đầu tiên vào năm 1972, sau đó được cải tiến hoàn thiện hơn bởi Hong
11
ji Su 1984. Kỹ thuật vi ghép bao gồm các giai đoạn: Chuẩn bị gốc ghép, chuẩn bị
đỉnh sinh trưởng, vi ghép nuôi cấy trong ống nghiệm và sau đó đem trồng ra chậu.
- Chuẩn bị gốc ghép lần 1:
+ Xử lí hạt để gieo làm cây gốc ghép: Lấy hạt của các giống cam 3 lá, bưởi
chua, được bóc sạch vỏ, khử trùng bằng dung dịch Javel 1% trong 5 phút.
+ Hạt được gieo trên môi trường thạch có chất dinh dưỡng(môi trường MS) ở
trong ống nghiệm và đặt trong buồng tối nhiệt độ 28C
0
.
+ Tiêu chuẩn cây gốc ghép: chiều cao 10 - 12 cm, đường kính thân 1,5 - 2 mm.
- Chuẩn bị đỉnh sinh trưởng: Đỉnh sinh trưởng được lấy từ chồi non của những cây
giống gốc đã được tuyển chọn từ vườn sản xuất hay trong nhà lưới cách ly. Sau khi
thu chồi non, tỉa những lá to xung quanh, chỉ giữ lại phần ngọn của chồi dài khoảng
1 - 1,5 cm.
- Kỹ thuật vi ghép:
+ Cây giống cần làm sạch bệnh. Tỉa bỏ lá xung quanh, cắt lấy đỉnh sinh
trưởng.
+ Cây gốc ghép 15 ngày tuổi được lấy ra khỏi ống nghiệm, cắt ngọn ở phần
trên cách cổ rễ 2 - 2,5 cm, rễ cọc cũng được cắt bớt chỉ để lại 4 - 5 cm.
+ Dùng dao vi ghép và kính lúp soi nổi để mở miệng ghép trên gốc ghép, phải

thận trọng để tầng sinh gỗ không bị tổn thương.
+ Đỉnh sinh trưởng là phần mô phân sinh dài khoảng 100 - 150 nm, dùng dao
lưỡi mỏng cắt và đặt nhanh vào vị trí ghép trên gốc ghép.
+ Cây con sau vi ghép được đặt trong ống nghiệm có sẵn môi trường lỏng
(môi trường MS + đường saccaro). Cây được bảo quản ở nhiệt độ 28C
0
, cường độ
ánh sáng 1000 lux trong 16 giờ hàng ngày bằng đèn huỳnh quang.
+ Sau 1 tuần dùng kính lúp để kiểm tra chồi ghép có sống không. Nếu chồi
ghép sống, chỉ 1 tháng sau đã có thêm 2 lá mới, đạt tiêu chuẩn ghép lần 2.
- Kỹ thuật ghép lần 2: Sau khi ghép lần 2, cây được bao chùm túi nilon khoảng 3
tuần. Nếu cây ghép sống, chuyển cây ra chậu to và bảo quản trong nhà lưới chống
côn trùng. Những cây sau vi ghép được chăm sóc đầy đủ và được giám định bệnh
bằng kỹ thuật PCR, ELIZA
12
2. Kỹ thuật canh tác cây cam Canh
2.1. Kỹ thuật chọn giống
- Cần biết rõ nguồn gốc giống, nên chọn cây giống là cây có gốc là gốc bưởi,
cây có sức sống khỏe hơn, chống chịu tốt hơn, nhược điểm tuổi thọ không cao
nhưng trong thâm canh cam đường chỉ cần khai thác quả tập trung khoảng 7 năm,
sau đó tiến hành cải tạo trồng mới, hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn so với tận thu khi
sản lượng quả trên cây đã giảm đáng kể. Để chủ động nguồn giống tốt, chúng ta nên
ghép cây trồng cho vườn nhà.
- Cây giống sạch bệnh, các cây giống trước khi xuất vườn cần có chứng chỉ
sạch bệnh.
- Cây sinh trưởng khoẻ, thân thẳng, không có lá dị dạng.
- Đường kính thân cách gốc 10 cm đạt 10 - 15 mm.
- Cành ghép khoẻ, dài từ 30 cm trở lên.
- Đúng giống.
- Được cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ cây giống chất lượng cao.

2.2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
2.2.1. Làm đất, đào hố, bón lót
- Trước khi tiến hành làm đất chúng ta nên làm sạch cỏ dại, phát quang thảm
thực vật. Làm đất là biện pháp kỹ thuật trồng trọt tác động lên đất canh tác, làm cho
đất canh tác trở thành thích hợp với việc gieo trồng các cây nông nghiệp. Các kỹ
thuật làm đất ít nhiều đều có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tiêu diệt những dịch
hại sống và tồn tại ở trong đất. Cày lật đất sẽ vùi lấp xuống lớp đất dưới nhiều sâu
non, nhộng của sâu hại, hạt cỏ hại, tàn dư cây trồng có chứa nguồn bệnh. Đồng thời,
cày lật đất cũng đưa các sinh vật hại từ lớp đất phía dưới lên trên mặt đất, là môi
trường không thuận lợi cho nhóm này, góp phần hạn chế sự phát triển của chúng.
- Đào hố: Hố thường phải đào trước khi trồng 15 - 30 ngày. Đào hố theo kích
thước rộng 60 cm, sâu 60 cm.
- Bón lót:
Loại phân Khối lượng (kg/hố)
Phân chuồng hoai
mục
20-30
Super lân 0,5-0,7
Vôi bột 0,3-0,5
13
2.2.2. Thời vụ, mật độ, cách trồng
* Thời vụ
- Vụ Xuân trồng tháng 2-4.
- Vụ Thu trồng tháng 8-10.
* Mật độ khoảng cách
Tuỳ theo từng vùng đất xấu tốt mà bố trí mật độ khác nhau: Nếu vùng đất kém
ta nên trồng với khoảng cách trung bình (5 x 6 m), mật độ 333 cây/ha. Có điều kiện
thâm canh cao thì nên trồng dày khoảng cách (3 x 3,5 m), mật độ 800 – 1.000
cây/ha.
* Cách trồng

Hố thường phải đào trước khi trồng 15-30 ngày. Trộn đều toàn bộ lượng phân
chuồng, super lân và vôi theo liều lượng ở trên với lớp đất trên mặt, sau đó cho
xuống đáy hố, tiếp theo lấp đất thành ụ cao so với mặt hố 15-20 cm. Vét một hố nhỏ
đặt bầu rồi lấp đất vừa kín bầu và nén chặt. Sau đó cắm cọc chéo chữ X vào cây và
buộc để tránh làm lay gốc dẫn đến chết cây.
2.2.3. Chăm sóc sau khi trồng
2.2.3.1. Tưới nước
Sau khi trồng xong cần phải tưới nước ngay. Nếu trời nắng hạn tưới 1lần/ngày
vào buổi chiều mát đến khi cây hồi phục sinh trưởng. Sau đó tuỳ điều kiện sinh trưởng
và thời tiết để tưới, lưu ý không nên tưới quá nhiều, tránh ngập úng.
2.2.3.2. Bón phân
* Bón phân đa lượng
- Thời kỳ cây còn nhỏ 1-3 tuổi, thời kì kiến thiết cơ bản: Hàng năm cần bón thúc
4 lần vào các thời điểm như sau: Tháng 1, tháng 2, tháng 5 và tháng 11. Khi bón cần
kết hợp xới xáo, làm cỏ.
Lượng bón:
Loại phân Khối lượng (kg /cây)
Phân hữu cơ hoai
mục
5-20
14
Đạm Urê 0,1-0,2
Super lân 0,2-0,5
Kali 0,1-0,2
- Thời kỳ thu hoạch từ năm thứ 4 trở đi: Hàng năm cần bón thúc vào thời điểm:
+ Bón cơ bản (tháng 8 – tháng 11): Phân hữu cơ + Super lân + Vôi
+ Bón đón hoa, cành xuân từ 15/1 – 15/3: Đạm Urê + Kali.
+ Bón thúc tăng trọng quả vào tháng 5: Đạm Urê + Kali.
+ Bón thúc cành thu và tăng trọng quả tháng 7 – tháng 8: Đạm Urê + Kali.
Ngoài ra bón cho cây sau khi thu hoạch làm cây chóng phục hồi, lượng bón

thúc như sau:
- Phân hữu cơ hoai mục:
- Đạm Urê:
- Super lân:
- Kali:
- Vôi bột:
20-30 kg/cây
0,5-0,8 kg/cây
0,5-1,0 kg/cây
0,1-0,3 kg/cây
0,5-1 kg/cây
Các năm sau lượng phân tăng theo tuổi cây, năng suất quả và tuỳ thuộc loại đất
để tăng hoặc giảm lượng phân bón.
Cách bón: Đào rãnh hoặc hốc rộng 20 cm, sâu 15-20 cm xung quanh tán cây,
rắc phân lấp đất, tưới đẫm nước sau khi bón.
* Bón phân vi lượng, siêu vi lượng
Trong thời kỳ cây cho thu hoạch cần chú ý bổ xung các nguyên tố vi lượng
cho cây để cung cấp và bồi hoàn cho cây các nguyên tố cần thiết do đó người dân
cần có kiến thức để nhận biết sự thiếu hụt của các nguyên tố trên cây.
- Hiện nay người ta thường nhận biết cây trồng thiếu vi lượng bằng các cách sau:
+ Nhìn ngoại hình: Cây phát triển chậm đẻ nhánh và phân cành ít, lá nhỏ hoặc
biến dạng (lá không phẳng, nổi gân hoặc xoắn, cuộn tròn lại), hoa rụng nhiều quả
không đậu, hình dạng không bình thường, cuống to, trong quả có sạn và búp thối
15
+ Phân tích cây và đất
+ Bón thử. Dựa trên chẩn đoán ngoại hình, phân tích cây và đất, sơ bộ nhận
định thiếu nguyên tố nào. Dùng phương pháp phun lên lá dung dịch có các nguyên
tố đó rồi quan sát các hiện tượng sau 7 đến 10 ngày.
- Khi bón vi lượng cho cây đúng theo chỉ dẫn có cơ sở khoa học thì năng suất và
chất lượng nông sản đều tăng lên. Những thí nghiệm ở phòng thí nghiệm về bổ sung

các vi lượng trên môi trường không có vi lượng đã làm cho năng suất cây trồng tăng
so với đối chứng từ 10 đến 50% thậm chí còn cao hơn. Xong trong thực tế sản xuất
thì không phải như thế. Đất canh tác đã có sẵn vi lượng ở một mức độ chưa đầy đủ,
do vậy cây vẫn phát triển bình thường ở mức độ thấp. Khi bón thêm vi lượng cho
cây thì năng suất tăng từ 3 đến 15% là chắc chắn. Trên đất nào thực sự thiếu vi
lượng nhiều thì năng suất tăng càng cao.
- Sự thiếu hụt một cách rõ rệt các nguyên tố vi lượng trong đất dẫn đến các bệnh
chức năng của cây và làm giảm thu hoạch một cách đáng kể. Các bênh úa vàng giữa
các gân lá và thành vệt thường do thiếu mangan gây ra. Bệnh đốm xám của cây hòa
hảo, vàng thân của củ cải, vv cũng do thiếu mangan. Bệnh khô ngọn lá và héo
chồi ngọn của các cây ăn quả thường là kết quả của sự thiếu đồng. Bệnh trắng ngọn
của ngô, lá chét bé của các cây ăn quả là biểu hiện của sự thiếu kẽm. Việc bón các
nguyên tố vi lượng tương ứng có thể khắc phục hoàn toàn được các bệnh đã nêu.
Trong thực tiễn nông nghiệp thường gặp tình trạng biểu hiện sự thiếu các nguyên tố
vi lượng không rõ rệt. Trong các trường hợp này không quan sát thấy các triệu
chứng bên ngoài của bệnh nhưng sự sinh trưởng của cây bị sút kém và dẫn đến sự
giảm đáng kể năng suất. Việc bón phân vi lượng trong các trường hợp như vậy là
rất cần thiết nhằm làm tăng cả năng suất lẫn phẩm chất cây trồng
- Tuy nhiên khi sử dụng phân vi lượng để bón cho cây cần lưu ý bón đúng liều
lượng tránh hiện tượng ngộ độc. Hiện tượng ngộ độc có thể xảy ra do việc sử dụng
quá dư thừa các nguyên tố vi lượng như Cu, Zn, B, Mn. Hiện tượng thường xảy ra
trên đất axít vì khả năng hòa tan của các chất trên ở đất acid là rất lớn. Biểu hiện
16
của triệu chứng này là xuất hiện những đốm chấm nhỏ về phía rìa lá, trong nhiều
trường hợp toàn bộ rìa lá héo quăn lại như triệu chứng thiếu K.
* Sử dụng các chế phẩm sinh học
Chế phẩm sinh học giúp cây sinh trưởng phát triển tốt, kích thích bộ rễ phát
triển đều, rộng, lá dày, tán lá phát triển đều về các hướng, chế phẩm sinh học tạo
điều kiện cho việc cắt tỉa tạo tán, tăng chỉ số diện tích lá tối ưu, tăng cường khả
năng quang hợp, tăng sức đề kháng cho cây giúp giảm được sâu bệnh, ngoài ra khi

sử dụng chế phẩm sinh học còn giảm 30-50% lượng phân bón hóa học, nâng cao
năng suất lên từ 20% - 30% trở lên.
2.2.3.3. Đốn tỉa cây, tạo tán
Cam là một loại cây lưu niên, một khi vẫn còn sức sống, cây vẫn có thể ra hoa,
đậu quả và có khi kéo dài đến 20 năm. Tuy nhiên, nếu không duy trì tán cây ở một
kích thước hợp lý, vườn cây đã thành thục sẽ có chiều cao và hình dạng tán lá
không đồng đều, và sự giao tán làm cho vườn trở nên dày đặc. Trong những vườn
này, sâu bệnh có thể phát tán nhanh hơn, chất lượng quả thấp, cây có khuynh hướng
không mang quả trong nhiều năm liền hoặc có hiện tượng cách niên. Bằng một số
chế độ cắt tỉa cành, tạo tán hợp lý có thể duy trì được sức sống cũng như năng suất
của vườn.
* Mục tiêu của việc đốn tỉa, tạo tán
- Làm tăng diện tích lá hữu hiệu và thúc đẩy sự quang hợp bằng cách tăng sự
hấp thụ ánh sáng và không khí của lá. Nếu những cành trên cây được điều chỉnh và
phân bổ hướng mọc hợp lý sẽ nhận được nhiều ánh sáng và khoảng không gian để
phát triển, điều này giúp cho việc sử dụng nước và chuyển hóa dinh dưỡng trong
cây được hiệu quả hơn.
- Tạo ra kích thước và hình dạng phù hợp cho cây. Khi đó, nhà vườn dễ dàng
kiểm soát và chăm sóc vườn tốt hơn. Việc cắt tỉa cành còn làm tăng sức chịu đựng
17
của cây đối với những điều kiện bất lợi khác, cũng như duy trì sự cân bằng giữa
cành có và không mang quả.
- Loại bỏ những cành bị sâu, bệnh giúp cây nhận được nhiều ánh sáng và
không khí. Thường xuyên cắt tỉa cành giúp nhà vườn kiểm soát được sâu bệnh hại
trong vườn cây.
* Tạo bộ khung tán hợp lý cho cây:
Thông thường cây có thể phát triển rất cao, nên cần phải tạo tán để có được
hình dáng thích hợp, tức là trung tâm cây phải thông thoáng hay kiểu tán mở. Nếu
tán mở cho cây thì nhà vườn sẽ thuận lợi hơn trong việc quản lý vườn, phun thuốc
và thu hoạch quả. Những cây non mới trồng có tán lá phát triển mạnh, tán rộng và

có khuynh hướng sớm mang quả, nhưng ngược lại dễ dàng áp dụng những biện
pháp cắt tỉa cành để tạo tán cho những cây này.
* Một số biện pháp cắt tỉa chính:
Chủ vườn phải chọn đúng thời điểm để tiến hành cắt tỉa cành, bởi cây là
thường xanh và không kỳ nghỉ đông (giai đoạn ngủ nghỉ). Tuy nhiên, quá trình trao
đổi chất của cây có khuynh hướng giảm dần kể từ sau khi thu hoạch quả.
Ở những nước có tiết trời lạnh vào mùa đông, thì hoạt động trao đổi chất của
cây giảm dần trước khi cây ra lộc xuân. Bởi vào giai đoạn này, nhiệt độ xuống thấp
và nguồn nước cung cấp cho cây rất hạn chế. Trong khi đó, ở những nước có khí
hậu gió mùa thì hoạt động trao đổi chất sẽ giảm vào mùa khô.
Việc cắt tỉa cành sẽ được thực hiện vào thời kỳ mà cây có hoạt động trao đổi
chất là thấp nhất. Cắt tỉa nhẹ hay ít cũng có thể được tiến hành vào các mùa khác
trong năm để loại bỏ những cành có khuynh hướng làm cho cây phát triển một cách
dày đặc.
* Phương pháp tỉa cành
Có hai phương pháp tỉa cành cơ bản là cắt ngắn và tỉa thưa. Cắt ngắn cành sẽ
thúc đẩy sự phát triển của những chồi phía dưới, qua đó cũng sẽ thúc đẩy sự phân
cành của cây. Tỉa thưa tức là loại bỏ hoàn toàn cành hay chồi để giảm bớt tổng số
các chồi bên
* Cách đốn tỉa, cành
18
Nhà vườn cần thận trọng, không nên tỉa quá 15% tổng số cành của toàn cây và
phải quan sát thật kỹ lưỡng cấu trúc của cây trước khi tiến hành cắt tỉa.
Nên tiến hành cắt tỉa trên cành cấp I thứ ba (cành khung III) tính từ đỉnh của
cây trước, tiếp theo là cành cấp I thứ 2 (cành khung II) và cuối cùng là trên cành cấp
I thứ 3 (cành khung I). Cho mỗi cành cấp I, việc cắt tỉa được bắt đầu từ cành thứ
cấp (cành cấp II) và tiếp đến là những chồi bên.
Nên cắt bỏ những cành bị nhiễm sâu bệnh hoặc bệnh nặng. Tương tự, cũng
nên loại bỏ đi những cành và chồi cây mọc không đúng hướng.
2.2.3.4. Một số biện pháp kỹ thuật làm tăng khả năng ra hoa, đậu quả

* Biện pháp kích thích ra hoa
- Thông thường người dân có thể kích thích cam Canh ra hoa bằng biện pháp
khoanh vỏ. Vào cuối tháng 10, đầu tháng 11, khi lá đã thành thục, chọn những cây
sinh trưởng khoẻ, có bộ lá xanh đậm, tiến hành khoanh vỏ. Dung kéo chuyên dụng
để khoanh toàn bộ số cành cấp 1, khoanh bỏ hết lớp vỏ đến phần gỗ với chiều rộng
vết khoanh 0,1 - 0,2 cm, xử lí thuốc phòng trừ nấm cho vết khoanh có thể dùng
Aliette 80 WP với nồng độ 0,2%.
* Biện pháp tăng khả năng đậu quả:
- Trước khi nở hoa dùng một trong các loại phân bón lá: Atonic, Master Grow, kích
phát tố thiên nông (Theo chỉ dẫn ghi trên bao bì) phun lên chùm hoa 2 lần, lần 1 khi
chùm hoa mới nhú; lần 2 trước khi hoa nở 1 tuần. Ở những vùng cam đạt năng suất
cao, người dân thường dùng các chế phẩm sinh học để điều tiết khả năng ra hoa đậu
quả của cam như: chế phẩm sinh học Thanh Hà AH, Vườn sinh thái,… trước và sau
khi cây ra hoa.
- Sau khi đậu quả, lúc quả non có đường kính 1 – 2 cm cũng dùng một trong các
phân bón lá trên phun 2 – 3 lần với nồng độ chỉ dẫn, các lần phun cách nhau 10 – 15
ngày.
* Biện pháp trồng sử dụng nguồn hạt phấn thích hợp để tăng khả năng thụ phấn
nhằm nâng cao tỷ lệ đậu quả, năng xuất quả.
- Khả năng tạo quả không hạt hoặc tăng tỷ lệ đậu quả, giảm số lượng hạt/quả bằng
các nguồn hạt phấn khác nhau được phát hiện ở nhiều loài cây trồng như ở cây
thuốc lá, một số giống rau, đậu, hoa và cây cảnh,… Ngày nay các nhà khoa học đều
19
khẳng định có tới 50% số loài trong ngành thực vật hạt kín mang khả năng trên. Với
các loài cây ăn quả (trừ những giống cho quả không hạt do bất dục cái), nguồn hạt
phấn khác nhau ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ đậu quả, số lượng hạt và năng suất chất
lượng quả. Ở cam quít, nhiều giống khi tự thụ cho quả không hạt và quả phát triển
có độ lớn bình thường, trong khi đó một số giống khác khi tự thụ hoa rụng 100%
nghĩa là những giống này muốn kết quả cần phải có quá trình giao phấn. Mối liên
quan giữa quá trình tự thụ và thụ phấn chéo đến quá trình hình thành và tỷ lệ đậu

quả là các quá trình có cơ chế khác nhau và rất phức tạp. Trong thâm canh cây ăn
quả nói chung, cam quít nói riêng, việc xác định được nguồn hạt phấn thích hợp sử
dụng làm cây trồng xen cung cấp nguồn hạt phấn nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng quả là rất cần thiết.
- Phương pháp thu nhận hạt phấn
Hạt phấn cây bố được thu hái từ hoa sắp nở. Trước khi hoa nở 1-2 ngày, thu
hái hoa, tiến hành mở cánh hoa nhân tạo, sau đó đặt hoa trong đĩa petri che đậy đảm
bảo thông thoáng khí. Đặt đĩa hoa trong điều kiện phòng thí nghiệm hoặc nơi
thoáng mát có thể tránh được bị nhiễm hạt phấn lạ. Đợi khi bao phấn nở có thể tiến
hành thụ phấn trực tiếp hoặc bảo quản trong nhiệt độ lạnh để có thể thụ phấn muộn
hơn.
- Phương pháp khử đực và thụ phấn
Tiến hành thụ phấn với hoa trên cây cần thụ phấn, chọn những hoa sắp nở, tốt
nhất là trước khi nở từ 1-2 ngày tiến hành loại bỏ cánh hoa, khử đực bằng cách loại
bỏ bao phấn sau đó có thể thụ phấn nhân tạo bằng cách quét bao phấn đã nở của cây
bố lên đầu nhụy của hoa cần được thụ, sau đó nhanh chóng cách ly hoa đã được thụ
phấn bằng cách bọc hoa trong giấy lai tạo chuyên dụng. Sau 12 – 15 ngày tiến hành
tháo bỏ túi cách ly và đánh dấu bao được lai tạo để theo dõi. Với hoa sau khi khử
đực mà chưa có điều kiện thụ phấn ngay, thì ngay sau khi khử đực xong tiến hành
cách ly bao bằng túi chuyên dụng nói trên, bằng cách này có thể giữ cho hoa có thể
thụ phấn tốt trong 2-3 ngày sau đó.
2.3. Các loại sâu, bệnh hại chính và biện pháp phòng trừ
Để phòng trừ sâu bệnh đạt được hiệu quả cao, chất lượng tốt và không ảnh
hưởng tới môi trường xung quanh thì cần phải thường xuyên thăm vườn để phát
20
hiện sâu bệnh kịp thời, chú ý sử dụng các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp và
nên sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thuốc hóa học ít độc, không dùng thuốc
cấm, chú ý sử dụng thuốc theo nguyên tắc 4 đúng.
2.3.1. Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citrella Stainton)
* Đặc điểm

Con trưởng thành: là một loại bướm rất nhỏ đẻ trứng rải rác trên các chồi
non vào ban đêm, có kích thước nhỏ bé, cơ thể mảnh khảnh, thân dài 2mm, dang
cánh trước rộng 4-5 mm. Toàn thân màu xám, phần ngọn cánh có màu trắng bạc
phớt màu vàng. Từ gốc cánh có 2 vân dọc màu đen kéo dài đến giũa cánh. Khoảng
1/3 phía ngọn cánh có một vân xiên hơi giống chữ Y. Đỉnh mút cánh có điểm lớn
màu đen. Phía ngọn cánh có lông viền mép cánh dài, màu tro. Cánh sau hẹp, dài
giống hình kim, màu xám đen, lông viền mép cánh rất dài màu xám nhạt.
Trưởng thành hoạt động ban đêm, ban ngày đậu trong tán lá, giao phối lúc
chập tối. Trưởng thành cái chỉ đẻ trứng trên lá non. Trứng được đẻ rải rác ở mặt
dưới lá, sát gân chính của lá. Sâu non nở từ trứng đục vào biểu bì mặt dưới lá tạo
thành đường hầm ngoằn ngoèo. Sâu non đẫy sức đục ra mép lá, nhả tơ gấp mép lá
và dệt kén, hóa nhộng ở trong đó. Khi hóa trưởng thành, vỏ nhộng thường nhô một
phần ra ngoài tổ kén.
Sâu non gây hại chủ yếu lá non. Chúng đục dưới biểu bì lá thành đường hầm
ngoằn ngoèo rộng dần theo tuổi. Sâu non ăn tế bào nhu mô mang diệp lục, bài tiết ra
phía sau đường đục. Phân sâu thải ra tạo thành đường liên tục như một sợi chỉ chạy
dọc chính giữa đường đục. Đường đục bị rách sẽ làm sâu non bị chết sau một thời
gian ngắn. Lá bị hại thường biến dạng, co rúm lại. Khi phát sinh mạnh, sâu non có
thể đục cả ở bề mặt phần non của lộc. Cây con trong vườn ươm và vườn kiến thiết
cơ bản bị hại nặng. Vết đục của sâu vẽ bùa tạo diều kiện cho bệnh loét phát triển.
* Biện pháp phòng trừ
Theo dõi chặt chẽ vào các đợt lộc rộ. Tiến hành phun thuốc sớm khi độ dài
cành lộc đạt 1-2 cm hoặc phát hiện thấy chớm bị hại; Bón phân cân đối, tưới nước
hợp lý, chăm sóc cho cây ra lộc tập trung; Tỉa cành tạo tán thông thoáng để tránh
ảm độ cao; Bảo vệ thiên địch tự nhiên. Có điều kiện thì nuôi kiến vàng Oecophylla
smaragdina;
21
Phun thuốc trừ sâu khi 25% số cây trong vườn có 50% số lộc bị hại. Dùng
các loại thuốc Sherpa 20 EC, Sumicidin 20 EC, Lânnte 40 SP. Nếu bị hại nặng nên
hỗn hợp hai loại thuốc Padan 95 sp + Decis 5 EC hoặc Confidor 100SL.

Phun dầu khoáng bảo vệ thực vật khi 25% số cây trong vườn ra lộc và 10%
số lộc có triệu trứng bị hại.
2.3.2. Rầy chổng cánh Diaphorina citri Kuway.
* Đặc điểm gây hại
Rầy trưởng thành khi đậu thường chúc đầu và cánh chổng cao hơn phần đầu,
thường đậu ở những chồi non để chích hút nhựa cây, ít bay và thường bay gần. Ấu
trùng ít di chuyển hoặc di chuyển chậm chạp, sống tập trung ở cành lộc và lá non,
chích hút nhựa cây làm cho lá non quăn và bị biến dạng, nếu bị nặng sẽ ngừng sinh
trưởng hoặc bị rụng.
Khi ở mật độ dày, con trưởng thành và ấu trùng chích hút làm cho lộc bị khô,
rụng lá, khiến cho cành bị khô, làm ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát
triển của cây, đặc biệt trong giai đoạn cây ra hoa và phát triển quả. trong quá trình
gây hại rầy còn bài tiết ra chất dịch, trong đó có chứa hàm lượng đường đáng kể,
nên tạo điều kiện thuận lợi cho nấm bồ hóng phát triển, sẽ phủ kín bề mặt của lá, do
vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình quang hợp của cây.
Ngoài ra, trong quá trình hút dịch cây rầy chổng cánh còn mang thêm một
nguồn bệnh rất nguy hiểm từ các cây đã bị bệnh, chính là vi khuẩn Liberobacter
asiaticum gây bệnh Greening (hay còn gọi là bệnh Hoàng Long) và như vậy rầy đã
trở thành môi giới truyền bệnh.
* Biện pháp phòng trừ
- Thường xuyên điều tra theo dõi mật độ Rầy vào các đợt phát lộc rộ của vườn cam.
Phun các loại thuốc trừ rầy như Bassa 50 EC, Regent 800 WG, Trebon 20 ND hoặc
Actara 25 WG, phun phòng trừ sớm để hạn chế khả năng truyền bệnh của rầy.
- Bón phân cân đối, tưới nước hợp lý, chăm sóc cho cây ra lộc tập trung;
- Tỉa cành tạo tán thông thoáng để tránh độ ẩm cao; Trồng cây chắn gió xung quanh
vườn để hạn chế sự du nhập của rầy chổng cánh từ nơi khác đến; Không trồng các
loại cây cảnh thuộc họ Rutaceae ở xung quanh hoặc gần vườn cây; Bảo vệ và lợi
dụng các thiên địch tự nhiên. Có thể nuôi kiến vàng Oecophylla smaragdina.
22
Vo thi gian ra lc, s dng by mu vng phỏt hin s xut hin ca

trng thnh ry chng cỏnh.
2.3.3. Nhn
Trong quỏ trỡnh nghiờn cu, cỏc nh khoa hc ó phỏt hra mt s loi nhn
nh gõy hi, ú l cỏc loi nhn sau: Nhn Panonychus citri Mc Gregor, nhn
rỏm vng Phyllocoptruta oleivora, nhn trng Polyphagotarsonemus latus.
* Bin phỏp phũng tr
Bún phõn cõn i, ti nc hp lý, chm súc cho cõy khe, tng sc chng
chu; ct ta cnh to tỏn cho vn thụng thoỏng; nu cú iu kin thỡ tin hnh ti
nc theo kiu phun ma (dựng mỏy cú ỏp lc ln) ra trụi mt phn nhn trờn
cỏc b phn ca cõy xung t; bo v v li dng cỏc thiờn ch t nhiờn; phun
thuc tr sõu khi cn thit. Cú th phun các loại thuốc trừ nhện Pegasus 500ND,
ortus 3SC với nồng độ 0,2%, Comite 73 EC với nồng độ 0,15%, hoặc các loại dầu
khoáng nh DC tronplus 0,5%, dầu khoáng SK enspray 99, phun dầu khoáng ngay từ
khi cây mới hình thành quả.
- Thiờn ch: ó ghi nhn c nhiu loi thiờn ch ca nhn nh hi cõy. Trong
ú, quan trng l b rựa en nh thuc ging Stethorus, b cỏnh cng ngn Oligota,
b tr bt mi 6 chm Scolothrips sexmaculatus, nhn nh bt mi Amblyseius,
Phytoseiulus,
2.3.4. Rp mui mu en Toxoptera aurantii (Fonsc)
* c im
Trng thnh: Kớch thc c th khỏ nh, cú 2 dng hỡnh. Dng khụng cỏnh
v dng cú cỏnh. Dng khụng cỏnh cú c th mu nõu , nõu en hoc en. Khụng
cú cu trỳc li trỏn. Rõu u cú khoang trng en vi 6 t di gn bng chiu di
thõn. Mt lng phn bng dng khụng cỏnh cú cu trỳc mng li, cu trỳc ht
sau ng mt. Cú bng ti mu mi bờn t 7 - 8 ca c th. Dng cú cỏnh mu sc
nht hn. ng mt v uụi cú mu nõu n nõu ti.
* Tp tớnh sinh sng v gõy hi
Rp mui sng tp trung trờn cỏc chi non, lỏ non chớch hỳt nha, lm
cho lỏ non, chi non, ngn b bin dng cong keo, cht thi do rp tit ra hdn kin
v to iu kin cho nm mui en phỏt trin, lm che ph b mt lỏ, nh hng

trc tip n kh nng quang hp ca cõy. Rp cũn l mụi gii truyn bnh Tristera
23
bệnh này rất nguy hiểm cho vườn cam. Trong năm rệp phát sinh, phát triển vào lúc
thời tiết ấm áp, thường trùng với các đợt lộc xuân, thu.
* Biện pháp phòng trừ
- Thường xuyên kiểm tra vườn, ngắt bỏ các ổ rệp ở ngọn, lá non của cây. Khi
thấy mật độ rệp cao phải sử dụng thuốc hoá học để phun, có thể sử dụng các loại thuốc:
Sherpa 25 EC, Sherbus 10 ND, Sumicidin 20 EC, trebon 20 WP. Nếu thấy mật độ rệp
còn ở mức thấp thì chưa nên phun thuốc để bảo vệ nguồn thiên địch.
- Đã phát hiện được nhiều loại thiên địch của rệp muội. Phổ biến hơn cả là
các loại côn trùng bắt mồi. Đặc biệt là các loại bọ rùa ăn rệp muội (bọ rùa 6 vệt đen
Menochilus sexmaculatus, bọ rùa đỏ Micraspis discolor, bọ rùa đỏ Nhật Bản
Propylea japonica, bọ rùa chữ nhân Coccinella transversalis, bọ rùa tám chấm
Harmonia octomaculata, bọ rùa 17 chấm Harmonia sedeccimnotata,…), …
- Bón phân cân đối, tưới nước hợp lý, chăm sóc cho cây ra lộc tập trung; Tỉa
cành, tạo tán thông thoáng để tránh độ ẩm cao. Thu ngắt các lộc non bị hại nặng; Bảo
vệ và lợi dụng thiên địch tự nhiên. Khi bị hại nặng phun thuốc hóa học chọn lọc.
2.3.5. Bệnh loét
* Nguyên nhân
Vi khuẩn Xanthormomas campestris pv là nguyên nhân gây bệnh loét. Vi
khuẩn hình gậy, một đầu có một lông mao, gram âm, háo khí. Khuẩn lạc trên môi
trường nuôi cấy màu vàng bóng, hơi hồng, rìa hơi lượn sóng.
* Phương thức lan truyền
Vi khuẩn gây bệnh tồn tại trên tàn dư lá, quả, thân, cành cây đã bị bệnh. Vi
khuẩn lan truyền nhờ tác nhân cơ giới, gió, nước mưa. Do đó, bệnh thường gây hại
nặng trong điều kiện thời tiết ẩm, mùa mưa.
* Triệu chứng bệnh
Bệnh gây hại tất cả các bộ phận của cây trên mặt đất (thân, cành, lá, quả).
Gây rụng quả và lá, cành non bị khô, làm cây cằn cỗi, chóng tàn. Trong vườn ươm,
khi bị bệnh nặng cây con dễ chết. Vết bệnh trên quả không ăn sâu vào trong múi.

Quả bị bệnh có phẩm chất kém, không cất giữ được.
24
Trên lá non triệu chứng bệnh ban đầu là những chấm nhỏ có đường kính
khoảng 1 mm, màu trong vàng, thường thấy ở mặt dưới của lá sau đó vết bệnh mở
rộng, pha vỡ biểu bì mặt dưới lá, màu trắng nhạt hoặc nâu nhạt. Mặt trên lá nơi vết
bệnh hơi nổi gờ, nhưng không phá vỡ biểu bì. Xung quanh vết bệnh có quầng tròn
dạng giọt dầu màu vàng hoặc màu xanh tối. Sau đó vết bệnh phát triển thành vết
loét hình tròn, màu nâu xám. Khi vết bệnh già, hóa gỗ, rắn lại thì hình dạng vẫn tròn
hoặc không định hình, mặt dưới sù sì, mặt trên vết bệnh có lớp màng hơi sù sì nứt
nẻ màu xám tro. Kích thước vết bệnh thay đổi theo giống cây ăn quả có múi. Vết
bệnh rời rạc hay thường liên kết với nhau dọc theo vết sâu cắn hoặc vết hại của sâu
vẽ bùa. Lá bị bệnh không biến đổi hình dạng, nhưng dễ rụng, cây con bị bệnh nặng
thường hay rụng lá.
Vết bệnh ở quả tương tự như ở lá, vết bệnh rắn, sù sì màu nâu thường hơi
lõm, mô chết ở giữa bệnh rạn nứt, mép ngoài có gờ nổi lên, quầng vàng nhạt quanh
vết bệnh không rõ ràng. Kích thước vết bệnh không đều nhau. Vết bệnh nối với
nhau thành từng đám và có thể sinh ra gôm. Toàn bộ chiều dày vỏ quả có thể bị
loét, nhưng không ăn sâu vào ruột quả. Bệnh nặng ít nhiều gây biến dạng quả, quả ít
nước, khô sớm.
Vết bệnh ở trên cành và thân cây con cũng giống trên lá, nhưng sùi lên tương
đối rõ, ở giữa vết bệnh không lõm xuống/lõm xuống không rõ rệt, không có quầng
vàng quanh vết bệnh. Vết bệnh rất lớn, nối liền nhau bao quanh thân cây non và
cành, làm phần trên bị khô héo, dễ gãy. Bị nặng cây phát triển chậm.
* Đặc điểm phát sinh
Bệnh loét phát sinh gây hại quanh năm, nhưng bệnh trong mùa mưa nặng
hơn trong mùa khô. Bệnh phát sinh và phát triển mạnh ở điều kiện ẩm độ cao và
nhiệt độ 26-35
0
C. Bệnh loét lây lan rất nhanh. Bệnh hại trên tất cả các giống cây có
múi. Chanh, bưởi chùm bị nặng nhất. Các giống cam Xã Đoài, cam Vân Du, cam

Sông Con bị bệnh nặng hơn các giống cam Canh, cam Sành.
* Biện pháp phòng trừ
- Đối với những vườn mới trồng cần có hệ thống thoát nước tốt;
25

×