Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật đối với việc xác lập quan hệ pháp luật; thực hiện pháp luật; truy cứu trách nhiệm pháp lý; giáo dục pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.82 KB, 16 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT
ĐỀ BÀI
“Phân tích ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật đối với
việc: Xác lập quan hệ pháp luật; Thực hiện pháp luật; Truy
cứu trách nhiệm pháp lý; Giáo dục pháp luật”.
HỌ VÀ TÊN

:

MSSV

:

LỚP

:

Hà Nội, năm 2022


BẢNG CÁC KÝ HIỆU, CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS
TANDTC
VKSNDTC
TNHS


VBQPPL
VBPL

Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng Hình sự
Tịa án Nhân dân tối cao
Viện kiểm sát Nhân dân tối cao
Trách nhiệm hình sự
Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản pháp luật


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
I. Khái quát chung về văn bản quy phạm pháp luật............................................1
1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật.........................................................1
1.2 Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật....................................................2
1.3 Phân loại văn bản quy phạm pháp luật...........................................................5
II. Vai trò, ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật...........................................5
2.1 Văn bản quy phạm phạm luật xác lập quan hệ pháp luật.............................5
2.2 Văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở thực hiện pháp luật...........................6
2.3 Văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở truy cứu trách nhiệm pháp lý..............8
2.4 Văn bản quy phạm phạm luật đảm bảo giáo dục pháp luật.........................9
KẾT LUẬN............................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................11


MỞ ĐẦU
Theo dòng lịch sử, khi Nhà nước ra đời thì pháp luật cũng ra đời. Vì vậy, có thể

nói pháp luật là sản phẩm của xã hội tiến bộ, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội
và thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền. Hiện nay, xã hội ngày càng văn minh, hiện
đại; trong xu thế tồn cầu hóa vai trị của pháp luật lại vô cùng quan trọng. Đặt trong
bối cảnh xã hội Việt Nam, từ sau chiến tranh, nước ta đang trên đà hồi phục và phát
triển kinh tế - xã hội; đồng thời xây dựng Xã hội chủ nghĩa, đề cao và củng cố Nhà
nước pháp quyền. Những năm qua, Nhà nước ban hành một hệ thống Văn bản quy
phạm pháp luật để hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật. Thực tiễn cho thấy, văn bản
quy phạm pháp luật đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống nguồn luật của Việt Nam.
Chính vì lẽ đó, em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích ý nghĩa của văn bản quy phạm
pháp luật đối với việc: Xác lập quan hệ pháp luật; Thực hiện pháp luật; Truy cứu
trách nhiệm pháp lý; Giáo dục pháp luật” để có đánh giá khách quan nhằm nâng cao
vai trò của văn bản quy phạm pháp luật đối với các khía cạnh pháp lý.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về văn bản quy phạm pháp luật
1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Văn bản là văn bản một
chỉnh thể trên câu, gồm một chuỗi các câu, đoạn văn được cấu tạo theo quy tắc
của một ngôn ngữ, tạo nên thơng báo có tính hệ thống”1. Cịn “quy phạm” là điều
quy định làm khn thước để theo. Ví dụ: “quy phạm đạo đức, quy phạm xã hội”2.
Theo ngôn ngữ Tiếng Anh văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) có nghĩa là
“legal normative document” thuật ngữ này thường gắn liền với Việt Nam. Còn ở
Anh, Canada, và Úc người ta dùng thuật ngữ “legislation” để chỉ “văn bản quy
phạm pháp luật, trong đó “legislation” được coi là có 2 loại: các đạo luật do Quốc
hội ban hành (statutes) và các văn bản pháp quy (subordinate legislation hoặc
statutory instruments hoặc legislative instruments) (dưới nhiều tên gọi khác nhau
như: “Lệnh”, “Bộ quy tắc”, “Quy chế ...) được ban hành (bởi Nội các, các Bộ
trưởng, chính quyền địa phương...) theo cơ chế lập pháp ủy quyền3.
1 Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005;
2 Nguyễn Như Ý (2013), Đại từ điển tiếng việt, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
3 Chính Phủ (2014), Tờ trình Dự án luật văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội


1


Theo giáo trình của trường đại học Luật Hà Nội định nghĩa:“Văn bản quy
phạm pháp luật là văn bản do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự,
thủ tục, hình thức do pháp luật quy định, trong đó có các quy tắc xử sự chung để
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội”4.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 định nghĩa: “Văn bản
quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo
đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này”5.
1.2 Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
Có thể nói VBQPPL là một loại văn bản pháp lý đặc biệt, VBQPPL vừa là
nguồn, vừa là hình thức pháp luật quan trọng nhất. Đây là hình thức pháp luật
thành văn, thể hiện rõ nét nhất tính chất của pháp luật. Do đó, VBQPPL có đầy đủ
các đặc trưng cơ bản của pháp luật6. Theo góc nhìn tổng qt, pháp luật nói chung
hay VBQPPL nói riêng đều có 04 điểm đặc trưng cơ bản sau: (i) Tính quyền lực,
(ii) Tính quy phạm, (iii) Tính ý chí, (iiii) Tính xã hội.
Thứ nhất, Tính quyền lực (tính Nhà nước, tính cưỡng chế) bởi VBQPPL phải
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện. Do đó,
VBQPPL khi được ban hành và có hiệu lực sẽ thể hiện quyền lực Nhà nước, hay sử
dụng sức mạnh của Nhà nước để tác động đến tất cả mọi người và các mối quan hệ
pháp luật. Theo quy định của Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật những chủ
thể có thẩm quyền ban hành VBQPPL bao gồm: “Quốc Hội, UBTVQH, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tổng Kiểm toán nhà nước, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân
dân các cấp, ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật còn một
số cơ quan, tổ chức, cá nhân khác phối hợp với nhau để ban thành thông tư liên tịch”7.
Như vậy VBQPPL là văn bản pháp luật thành văn mà chỉ những chủ thể do

pháp luật quy định mới có thẩm quyền ban hành. Hay có thể hiểu, những văn bản
4 Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm
2020, tr. 289 - 290
5 Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
6 Trần Thanh Vân, Văn bản quy phạm pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, Năm 2014
7 Xem: Điều 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020

2


được ban hành bởi những chủ thể khơng có thẩm quyền thì đương nhiên khơng
được coi là VBQPPL8.
Thứ hai, Tính quy phạm thể hiện trên khía cạnh VBQPPL là hệ thống các quy
tắc xử sự; cụ thể đó là những khuôn mẫu, những mực thước được xác định cụ thể,
rõ ràng, thống nhất không chung chung. VBQPPL là giới hạn, là “hành lang pháp
lý” để tất cả mọi người tuân theo với nguyên tắc: "Mọi người được làm tất cả mọi
việc trừ những điều mà pháp luật nghiêm cấm", "mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật”. Giới hạn đó được xác định ở nhiều khía cạnh khác nhau như cho phép,
cấm đốn, bắt buộc9...
Thứ ba, Tính ý chí bắt nguồn từ việc VBQPPL hay pháp luật nói chung đều
do một giai cấp, một lực lượng cầm quyền ban hành, như vậy VBQPPL sẽ phần
nào thể hiện ý chí và phục vụ cho mục đích của giai cấp đó.
Thứ tư, Tính xã hội: Mặc dù VBQPPL có tính nhà nước, tính ý chí, nhưng
tính xã hội vẫn là một đặc trưng cơ bản khơng thể thiếu. Bởi nếu khơng có tính xã
hội mà chỉ phục vụ cho lợi ích của một bộ phận tầng lớp giai cấp thì pháp luật nói
chung hay VBQPPL nói riêng khơng thể tồn tại. VBQPPL chỉ tồn tại khi phản ánh
đúng những nhu cầu khách quan của xã hội.
Như vậy, những đặc trưng nêu trên là những đặc trưng cơ bản nhất của pháp luật
nói chung và các nguồn pháp luật nói riêng, cụ thể ở đây là VBQPPL. Tuy nhiên,

VBQPPL vẫn có điểm đặc trưng riêng biệt mà các loại văn bản khác khơng có. Theo
quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan: “một văn bản được coi là VBQPPL khi
có 4 tiêu chí: (1) do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; (2) theo trình tự,
thủ tục, hình thức, tên gọi được luật định; (3) chứa đựng quy tắc xử sự chung; và (4)
được áp dụng nhiều lần trong đời sống khi xảy ra tình huống mà pháp luật đã dự
liệu”10.
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành11.
8 Điều 2 Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2020)
9 Bùi Quang Xuân, Tập bài giảng: “Tài liệu ôn thi tốt nghiệp cử nhân Luật”, Khoa Luật - Trường Đại học Trà Vinh,
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2018
10 Nguyễn Minh Đoan (2013), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 99-100
11 Ở đặc điểm này tác giả đã phân tích chi tiết ở phần trên. Có thể nói đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất

3


Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng quy tắc
xử sự mang tính bắt buộc chung (quy phạm pháp luật).
VBQPPL là những quy tắc xử sự được ban hành không phải cho một cho một
trường hợp cụ thể, những tổ chức hay cá nhân cụ thể, mà cho tất cả các trường hợp
và đối với tất cả những tổ chức hay cá nhân phải thực hiện khi gặp phải những tình
huống mà pháp luật đã dự liệu. Do vậy, VBQPPL được thực hiện nhiều lần trong
đời sống khi xảy ra tình huống mà pháp luật đã dự liệu. Đây là đặc điểm thể hiện
sự khác biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật với các văn bản khác của Nhà nước
như văn bản áp dụng pháp luật, văn bản hành chính… là các văn bản không chứa
quy phạm pháp luật nên không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Quyết
định bổ nhiệm, quyết định khen thưởng, giải quyết chế độ hưu trí, hay một bản án,
khơng phải là những văn bản quy phạm pháp luật12.
Thứ ba, VBPL được ban hành theo thủ tục, trình tự và hình thức dưới

dạng văn bản theo quy định của pháp luật.
VBQPPL được ban hành theo hình thức có nghĩa là đúng tên loại văn bản và
đúng thể thức, kĩ thuật trình bày. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015, chỉ những cơ quan được quy định trong Luật này mới có thẩm
quyền và phạm vi ban hành VBQPPL cũng được quy định rõ. Đồng thời, theo quy
định, những VBQPPL phải có đủ và trình bày đúng những yếu tố như: quốc hiệu; tiêu
ngữ; tên cơ quan ban hành; số, kí hiệu văn bản; địa danh, thời gian ban hành; tên văn
bản;…
“VBQPPL được ban hành phải tuân thủ về trình tự, thủ tục ban hành tuân theo
quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. VBQPPL được
ban hành theo trình tự: lập chương trình xây dựng văn bản; soạn thảo; lấy ý kiến đóng
góp; thẩm định, thẩm tra; trình, thơng qua, kí chứng thực và ban hành”13.
Bên cạnh những đặc điểm trên, VBQPPL còn có những ưu điểm so với các
nguồn luật khác như chính xác, rõ ràng, minh bạch, đơn giản khi ban hành hoặc sửa
đổi, có sự thống nhất, đồng bộ của cả hệ thống pháp luật, dễ phổ biến và dễ áp dụng,
… Với những điểm ưu việt như trên, ở nhiều quốc gia VBQPPL được sử dụng là
12 Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 07 (168)/Kỳ 1, Nghiên cứu lập pháp, tháng 04/2010, tr. 6
13 Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tư pháp, năm 2021, tr. 20

4


nguồn luật chủ yếu, một số quốc gia lại không coi VBQPPL là nguồn pháp luật chủ
yếu. Ở Việt Nam, VBQPPL là nguồn luật chủ đạo và cơ bản nhất.
1.3 Phân loại văn bản quy phạm pháp luật
a) Các văn bản luật
Các văn bản luật do Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất nước ta ban hành. Các văn bản luật có giá trị
pháp lý cao nhất, tất cả các văn bản khác khi ban hành phải căn cứ vào văn bản
luật, không được trái, không được mâu thuẫn với các quy định trong các văn bản

luật14.
Văn bản luật có hai hình thức Hiến pháp và các đạo luật.
Hiến pháp là luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các
văn bản pháp luật. Nó quy định những vấn đề cơ bản nhất của quốc gia như hình
thức, bản chất nhà nước, chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc
phòng15. Các đạo luật, bộ luật: được ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp, điều chỉnh
các loại quan hệ xã hội trong các lĩnh vực đời sống nhà nước và xã hội.
Ví dụ: Hiến pháp; Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội;…
b) Các văn bản dưới luật
Là những văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình
tự, thủ tục và hình thức được luật quy định và có hiệu lực pháp lý thấp hơn các văn
bản luật. Ví dụ: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thơng tư của Bộ trưởng,…
II. Vai trò, ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật
2.1 Văn bản quy phạm phạm luật xác lập quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí, bởi quan hệ pháp luật có thể được
thiết lập giữa các cá nhân, tổ chức với nhau hoặc giữa các cá nhân, tổ chức với Nhà
nước. Trong mọi trường hợp những quan hệ pháp luật này đều chịu sự điều chỉnh
của các quy phạm pháp luật, phải việc xác lập, thực hiện các quan hệ đều phải căn
cứ theo các VBQPPL, mà như đã chứng minh VBQPPL mang ý chí của Nhà nước.
14 Điều 69 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
15 Vị trí, chức năng, của Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013, Hệ thống văn bản - Cổng thông tin điện tử Bộ Công
an, truy cập ngày 11/03/2021,
Nguồn Website: />
5


Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Chỉ khi nào quan
hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh thì mới trở thành quan hệ pháp
luật. Việc xác định quan hệ xã hội nào cần được điều chỉnh phụ thuộc vào ý chí của

Nhà nước, do đó mặc dù quan hệ xã hội vô cùng đa dạng, nhưng không phải tất cả
chúng đều trở thành quan hệ pháp luật.
Ví dụ: Trong quan hệ pháp luật dân sự, chẳng hạn trong giao dịch mua bán bất
động sản giữa bên A và bên B, pháp luật có những VBQPPL điều chỉnh như
BLDS, Luật Đất đai,… hay trong quan hệ pháp luật về hợp đồng, giữa công ty A
và công ty B pháp luật điều chỉnh có thể là BLDS, Luật Doanh nghiệp, Luật
Thương mại,… lúc này VBQPPL sẽ là căn cứ để các bên tạo lập hợp đồng, xây
dựng điều khoản, dự liệu và thỏa thuận những phương án, nghĩa vụ khi xảy ra
tranh chấp. Khi đã xác lập được quan hệ pháp luật theo đúng thủ tục, pháp luật sẽ
bảo vệ các bên khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
Có thể thấy, VBQPPL có vai trị quan trọng trong việc tạo dựng và xác lập các
quan hệ pháp luật mới. Bên cạnh đó, VBQPPL cịn có ý nghĩa việc dự liệu, định
hướng cho sự phát triển của quan hệ xã hội. Đời sống xã hội vốn rất đa dạng và
thay đổi từng ngày. Những mối quan hệ mới với các hình thức mới địi hỏi các nhà
lập pháp cần có sự dự liệu, “đi trước đón đầu” để tạo ra những “hành lang pháp lý”
phù hợp với thực tiễn và bảo đảm cho quyền lợi của các bên trong quan hệ pháp
luật.
2.2 Văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở thực hiện pháp luật
“Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích làm cho quy định của pháp
luật trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật”16. Việc
thực hiện pháp luật có ý nghĩa to lớn trong đời sống. Như đã phân tích, VBQPPL
vừa là nguồn, vừa là hình thức của pháp luật, bản thân các văn bản đó chứa đựng
các quy tắc xử sự chung và bắt buộc phải thực hiện đối với mọi đối tượng mà nó
hướng tới. Tuy nhiên, sau khi ban hành VBQPPL các quy định, điều khoản trên
văn bản khơng thể tự mình hiện thực hóa, mà cần có chủ thể là con người thực hiện
pháp luật. Mục đích của việc thực hiện pháp luật là nhằm thực tế hóa, đưa những
16 Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm
2020, tr. 406

6



quy định của pháp luật tổn tại trên văn bản đi vào đời sống. Đồng thời, thông qua
việc thực hiện pháp luật các chủ thể có thể được thực hiện các quyền mà pháp luật
cho phép và được pháp luật bảo vệ. Nếu như khơng có VBQPPL thì sẽ khơng có hệ
thống quy tắc xử sự chung để các chủ thể có thể thực hiện pháp luật. Hay nói một
cách dễ hiểu, VBQPPL có vai trị làm chuẩn mực, định hướng con người những
việc phải làm, việc được làm và không được làm. Khi tuân thủ những điều trên, tức
là con người đã thực hiện pháp luật. Đây là mối quan hệ pháp luật giữa Nhà nước chủ thể có thẩm quyền ban hành pháp luật, VBQPPL thể hiện ý chí của Nhà nước
và buộc chủ thể khác phải thực hiện (mối quan hệ “mệnh lệnh – phục tùng”).
Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật chính là sự cụ thể hóa các mục tiêu
được đề ra. Văn bản quy phạm pháp luật quy định càng rõ ràng thì thực hiện pháp luật
càng dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều, nói cách khác VBQPPL chính là “kim chỉ
nam” cho việc thực hiện pháp luật, đảm bảo được khả năng tiếp cận pháp luật cho
công dân.
Mặt khác, với tư cách là tổ chức thực hiện quyền lực công, Nhà nước có trách
nhiệm đảm bảo quyền thực hiện pháp luật của công dân. Khi quyền thực hiện pháp
luật của công dân đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, cơng dân phải có trách
nhiệm và nghĩa vụ thực hiện pháp luật. Và để thực hiện được pháp luật, VBQPPL
có vai trò làm căn cứ pháp lý để các chủ thể áp dụng, thực hiện. VBQPPL quy định
cụ thể về quyền, nghĩa vụ cũng như các trách nhiệm pháp lý của cơng dân khi tham
gia vào quan hệ pháp luật.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 27 Hiến pháp năm 2013, cơng dân đủ mười
tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử
vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Hay Luật Quản lý Thuế năm 2019 quy định
công dân phải phải có trách nhiệm đăng ký thuế, kê khai thuế và phải nộp thuế theo
quy định của pháp luật17.
2.3 Văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở truy cứu trách nhiệm pháp lý
“Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà chủ thể pháp luật phải gánh chịu
do pháp luật quy định vì hành vi vi phạm pháp luật của mình (hoặc của người mà

mình bảo lãnh hoặc giám hộ). Khác với các loại hình trách nhiệm khác, trách
17 Điều 17 Luật Quản lý Thuế năm 2019

7


nhiệm pháp lí ln gắn liền với sự cưỡng chế nhà nước, với việc áp dụng chế tài do
pháp luật quy định.
Truy cứu trách nhiệm pháp lý là một hoạt động thể hiện tính quyền lực của
nhà nước do cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành nhằm
cá biệt hoá bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật đối với các chủ thể vi phạm
pháp luật”18.
Đây là hoạt động có trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ do pháp luật quy định để
có thể bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật, tính chính xác của hoạt động
truy cứu trách nhiệm pháp lý, hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm có thể xảy
ra, tránh hiện tượng oan sai, bỏ lọt vi phạm. Do đó, để đảm bảo việc truy cứu trách
nhiệm pháp lý đúng pháp luật; VBQPPL luôn là căn cứ để cơ quan tố tụng tiến
hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án,… Việc truy cứu trách
nhiệm pháp lý không được tiến hành một cách cảm tính, tùy tiện mà phải dựa trên
hai yếu tố: một là hành vi, hậu quả trên thực tế; hai là căn cứ pháp luật. Nói cách
khác, để có thể tiến hành truy tố một chủ thể, cơ quan có thẩm quyền phải xác định
có sự việc, hành vi phạm tội trên thực tế; đã xảy ra và xác định được đúng đối
tượng, thời gian, địa điểm cụ thể. Từ đó, đối chiếu với các quy định của pháp luật,
xem hành vi đó có được xác định là hành vi phạm tội hay khơng.
Ví dụ: Anh A vay nợ anh B 300 triệu đồng, đã quá hạn nhiều ngày anh B thúc
giục nhưng anh A không nhưng không trả còn đánh anh B gãy một tay và vỡ một
bên quai hàm, kết quả giám định thương tật cho thấy anh B bị thương tật 21%.
Trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền cần xác định đúng anh A là người
thực hiện hành vi nêu trên, hậu quả xác thực như trên; từ đó đối chiếu với quy định
của Bộ Luật Hình sự anh A đã phạm tội Cố ý gây thương tích được quy định tại

khoản 1 Điều 134 Bộ luật này.
Cụ thể, Điều luật này quy định đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, mô tả
hành vi, hậu quả, mức hình phạt,… Khơng chỉ phải đối chiếu về luật nội dung, đối
với hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý, cơ quan tố tụng còn phải căn cứ vào
các VBQPPL quy định về tố tụng, chẳng hạn như phải căn cứ vào BLTTHS, các
18 Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm
2020

8


VBQPPL như nghị định, nghị quyết của TANDTC, VKSNDTC,… các VBQPPL
này quy định rõ ràng về trình tự, thẩm quyền, các bước tiến hành truy cứu TNHS,
các biện pháp cưỡng chế, quy định về thời hạn, thời hiệu… để đảm bảo quyền lợi
hợp pháp cho bị can, bị cáo; cũng như đảm bảo hoạt động truy cứu trách nhiệm
pháp lý được tiến hành đúng theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy VBQPPL là căn cứ pháp lý quan trọng, không thể thiếu khi
tiến hành hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý. Hay nói cách khác, hoạt động truy
cứu trách nhiệm pháp lý chỉ được thực hiện khi có căn cứ pháp lý trong các VBQPPL.
2.4 Văn bản quy phạm phạm luật đảm bảo giáo dục pháp luật
Từ góc độ thuật ngữ, Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa:“Giáo dục
pháp luật là sự tác động định hướng của tổ hợp các quá trình xây dựng pháp luật,
áp dụng pháp luật, tuyên truyền, giải thích pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp
luật”19. Tham khảo một số quan điểm, một số cơ sở đào tạo pháp luật cho rằng:
“Giáo dục pháp luật là quá trình tác động một cách có hệ thống, có mục đích và
thường xun tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình
độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thực đúng đắn về pháp luật, tôn trọng
và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật”20, hoặc “là hoạt động có định hướng,
có mục đích trang bị kiến thức pháp luật, nhằm hình thành ở đối tượng được giáo
dục những tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật”21.

Như vậy, có thể thấy giáo dục pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng trong
việc trang bị những kiến thức, hiểu biết pháp luật. Bên cạnh đó, việc giáo dục pháp
luật tác động trực tiếp vào nhận thức, chi phối hành vi của con người. Một con
người tn thủ pháp luật, có thái độ “thượng tơn pháp luật” luôn phản ánh công tác
giáo dục tốt. Trên thực tế, việc giáo dục pháp luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
chẳng hạn như yếu tố về môi trường: gia đình, nhà trường, xã hội;… tuy nhiên
nhiều nghiên cứu cho rằng VBQPPL là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất ảnh
hưởng đến hiệu quả của giáo dục pháp luật. Bởi, muốn có kiến thức và cái nhìn
đúng đắn về pháp luật; con người cần ban hành hệ thống các VBQPPL. Từ đó,
19 Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Quyển
2 (E-M), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 124
20 Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội
21 Hồng Thị Kim Quế (2007), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội

9


VBQPPL sẽ là tiền đề, là chuẩn mực để con người biết, hiểu và áp dụng vào đời
sống. Chỉ khi có VBQPPL hệ thống những điều được làm và khơng được làm, con
người mới có căn cứ để học hỏi, để tuân theo.
Trên thực tế, việc giáo dục pháp luật thơng qua VBQPPL có thể có nhiều
phương pháp; chẳng hạn như: đưa các môn học về Pháp luật vào trong các cấp nhà
trường; các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật qua sách, báo, các phương
tiện truyền thông; hay các chuyên gia, nhà tư vấn luật đến các vùng cao nơi đồng
bào còn hạn chế hiểu biết về pháp luật để phổ biến, giáo dục pháp luật,… Nếu việc
giáo dục pháp luật là việc đào tạo, phổ biến kiến thức pháp lý; thì VBQPPL là giáo
trình, là kiến thức mà các nhà lập pháp, hành pháp, hay những người hiểu luật cần
truyền tải, giảng dạy. Việc đào tạo không thể khơng có kiến thức, cũng như khơng
thể khơng có “giáo trình”. Từ đó, có thể thấy tầm quan trọng của VBQPPL đối với

việc đảm bảo giáo dục pháp luật. Mặt khác, phải khẳng định rằng, nếu khơng có
VBQPPL thì không thể thực hiện công tác giáo dục pháp luật một cách đúng đắn.
KẾT LUẬN
Thông qua những bài nghiên cứu trên; có thể thấy văn bản quy phạm pháp
luật có những đặc điểm và ưu điểm riêng biệt so với các văn bản thông thường hay
các nguồn luật tương đương. Đồng thời qua bài phân tích trên, em đã cung cấp một
số cơ sở lý luận và cơ bản làm nổi bật được vai trò của văn bản quy phạm pháp luật
đối với các khía cạnh pháp lý cần hướng tới. Có thể thấy, văn bản quy phạm pháp
luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với với việc: Xác lập quan hệ pháp luật;
Thực hiện pháp luật; Truy cứu trách nhiệm pháp lý; Giáo dục pháp luật. Do kiến
thức cũng như kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, bài viết khó tránh khỏi
những thiếu sót, em mong thầy cơ thơng cảm và góp ý giúp bài viết được hoàn
thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A/ Tài liệu là nguồn Luật, văn bản quy phạm pháp luật:
1. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
2. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
3. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2020;
10


4. Luật Quản lý Thuế năm 2019;
B/ Tài liệu là nguồn giáo trình, luận văn, tạp chí:
5. Hồng Thị Kim Quế (2007), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
6.Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
7. Nguyễn Minh Đoan (2013), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

8. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp
luật, Nxb. Công an nhân dân, năm 2020;
9. Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tư
pháp, năm 2021;
10. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ
điển Bách khoa Việt Nam, Quyển 2 (E-M), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội;
11. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005;
12. Nguyễn Như Ý (2013), Đại từ điển tiếng việt, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh;
13. Chính Phủ (2014), Tờ trình Dự án luật văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội;
14. Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 07 (168)/Kỳ 1, Nghiên
cứu lập pháp, tháng 04/2010;
15. Trần Thanh Vân, Văn bản quy phạm pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, Năm 2014;
16. Bùi Quang Xuân, Tập bài giảng: “Tài liệu ôn thi tốt nghiệp cử nhân Luật”,
Khoa Luật - Trường Đại học Trà Vinh, Tp. Hồ Chí Minh, năm 2018;
C/ Tài liệu là báo điện tử, nguồn Website:
17. Vị trí, chức năng, của Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013, Hệ thống văn bản Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, truy cập ngày 11/03/2021, Nguồn Website:
/>
11



×