Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật đối với xã hội nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.46 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và đời sống cộng
đồng, là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan, vừa
mang tính chủ quan. Chính vì vậy, pháp luật có một ý nghĩa và vai trò đặc
biệt quan trọng. Trong bối cảnh xã hội Việt nam hiện nay, Pháp luật là vũ
khí chính trị sắc bén để nhân dân đấu tranh chống lại các lực lượng thù
địch, giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội; là cơ sở pháp
lý để bộ máy Nhà nước Việt Nam tổ chức và hoạt động; là công cụ để Nhà
nước quản lý hữu hiệu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; là
phương tiện thiết lập và bảo đảm công bằng, thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa; là cơ sở bảo vệ hữu hiệu quyền công dân; đồng thời, pháp luật tạo
điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát triển vì một xã hội
công bằng, văn minh, tốt đẹp hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta luôn coi xây dựng pháp
luật là một hoạt động cơ bản và quan trọng hàng đầu. Những năm qua, đặc
biệt là khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 ra đời, hoạt động
xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước
đã gặt hái được những kết quả đáng kích lệ. Góp phần to lớn vào sự thành
công chung đó, phải kể tới hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan Nhà nước ở trung ương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
công đã đạt được, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan Nhà nước ở trung ương cũng bộc lộ những hạn chế và bất cập, nhất là
vào giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Một số quan hệ xã hội
quan trọng vẫn chưa được điều chỉnh; quy trình xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật còn chưa được thực hiện nghiêm túc; nội dung nhiều văn bản quy
phạm pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất, thiếu tính khả
thi; văn bản quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành còn “nợ đọng”; Xuất phát
từ thực trạng đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động
1



xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở
trung ương là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Do vậy, em đã mạnh dạn
chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả văn bản quy
phạm pháp luật hành chính trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay” với
hy vọng sẽ góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao
hơn nữa hiệu quả hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Song, trong phạm vi của một đề tài tiểu luận, em chỉ dừng lại xem xét,
tìm hiểu khái niệm, đặc điểm, đánh giá thực trạng ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước, từ đó đưa ra những giải pháp cho
việc hoàn thiện hoạt động này.

2


NỘI DUNG
I. Tìm hiểu về văn bản quy phạm pháp luật
1. Văn bản quy phạm pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành
hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được
quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc trong Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà
nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành không
đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc trong Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thì không phải là
văn bản quy phạm pháp luật.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:

1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
2. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
4. Nghị định của Chính phủ.
5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
6. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông
tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
7. Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
8. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
9. Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
10. Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa
Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.
11. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
3


ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
12. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân. (1)
2. Quy phạm Pháp luật hành chính
2.1 Khái niệm
Trước hết, quy phạm được hiểu là những quy định chặt chẽ bắt buộc
phải tuân theo, trong đó quy phạm pháp luật được ban hành bởi Nhà nước
và mang tính cưỡng chế. Để thực hiện chức năng quản lí nhà nước các cơ
quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy pham pháp luật (QPPL) để
điều chỉnh hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Vậy những QPPL được
dùng để điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính Nhà nước là các QPPL
hành chính. Như vậy, “Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể

của quy phạm pháp luật, được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình quản lí hành chính theo phương pháp mệnh lệnh đơn phương”.
2.2 Đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính
Qua khái niệm trên cho thấy QPPL hành chính là một trong những dạng
quy phạm pháp luật nên cũng có đầy đủ những đặc điểm chung của QPPL
như: là quy tắc xử chung thể hiện ý chí Nhà nước được Nhà nước đảm bảo
thực hiện; là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con
người về tính hợp pháp. Bên cạnh đó, QPPL hành chính còn có những đặc
điểm sau:
a. Các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính Nhà nước
ban hành. Ở nhà nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các cơ
quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật hành
chính có thể là chủ thể lập pháp hoặc chủ thể quản lí hành chính nhà nước vì
những lí do sau đây:

4


- Hoạt động lập pháp của Quốc Hội, UBTVQH theo cơ chế thảo luận tập
thể, quyết định theo đa số không đủ đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ
các quản lí hành chính nhà nước một cách năng động, kịp thời.
- Quốc Hội, UBTVQH không có chức năng quản lí hành chính nhà nước
do đó khó có thể ban hành các quy phạm pháp luật hành chính một cách cụ
thể và phù hợp với thực tiễn quản lí từng nghành, lĩnh vực và địa phận.
- Việc quy định thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật cho một số
chủ thể quản lí hành chính nhà nước mà trước hết và chủ yếu là cơ quan
hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước còn phù hợp với yêu cầu về tính chủ động, sáng tạo trong quản lí
hành chính nhà nước.
b. Các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực

pháp lí khác nhau. Do phạm vi điều chỉnh các quy phạm pháp luật hành
chính rất rộng và tính chất đa dạng về chủ thể ban hành nên các quy phạm
pháp luật hành chính có số lượng lớn. Trong đó có những quy phạm có hiệu
lực pháp lí trên phạm vi cả nước và chung cho các nghành, lĩnh vực quản lí
nhưng cũng có những quy phạm chỉ có hiệu lực trong phạm vi một nghành,
một lĩnh vực quản lí hay trong một địa phương nhất định. Theo thống kê từ cơ
sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật, năm 2009 chỉ riêng chính phủ đã ban
hành đến 3740 văn bản quy phạm pháp luật. Chưa kể đến các bộ, các cơ quan
ngang bộ rồi đến Hội đồng nhân dân, UBND các cấp trên toàn quốc ban hành.
c. Các quy phạm pháp luật hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ
sở các nguyên tắc pháp lí nhất định. Do yêu cầu điều chỉnh thống nhất pháp
luật trong quản lí hành chính nhà nước, các quy phạm phạm pháp luật tuy
có số lượng lớn và hiệu lực pháp lí khác nhau khác nhau song cần hợp
thành một hệ thống.
- Các phạm pháp luật hành chính do cơ quan nhà nước cấp dưới ban
hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước cấp trên ban hành. Ví dụ (VD): UBNH thành phố Hà Nội ban
5


hành quyết định số 23/QĐ-UB về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
phải căn cứ vào luật đất đai năm 2003, nghị định số 88/2009/NĐ-CP của
chính phủ. Nếu không có sự phù hợp sẽ dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo trong
giải quyết vụ việc.
- Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước,
Chủ Tịch Nước, Tòa Án nhân dân, viện Kiểm Sát nhân dân ban hành phải phù
hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp ban hành. VD: chính phủ ban hành nghị định số
34/2010/NĐ-CP về việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ phải căn cứ vào pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính của UBTVQH và luật

giao thông đường bộ của Quốc Hội.
- Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền chuyên môn ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích
của quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chung cùng cấp ban hành. VD: Thông tư số 12/2011/TT-BTP của Bộ
Tư pháp về việc ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng biểu
mẫu nuôi con nuôi phải căn cứ vào Căn cứ nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày
21 tháng 3 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Nuôi con nuôi và nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm
2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Tư pháp.
- Các quy phạm pháp luật hành chính do người có thẩm quyền trong các
cơ quan nhà nước ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy
phạm pháp luật do tập thể cơ quan đó ban hành. VD: Thủ Tướng chính phủ
khi ban hành quyết định số 181/2003/QĐ-TTG về ban hành quy chế thực hiện
cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương phải Căn cứ
vào Nghị quyết số 38/CP ngày 04 tháng 5 năm 1994 của Chính phủ về cải
cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công
dân và tổ chức.
6


- Bảo đảm tính thống nhất, phù hợp giữa các quy phạm pháp luật hành
chính do các chủ thể có thẩm quyền ngang cấp, cùng địa vị ban hành. VD: Bộ
trưởng kinh tế đối ngoại không được ban hành những văn bản trái với các quy
định của Bộ Tài chính.
- Các quy phạm pháp luật hành chính phải được ban hành theo đúng
trình tự, thủ tục và dưới hình thức nhất định do pháp luật quy định.
II. Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật hành chính
Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật là kết quả của sự tác động của

văn bản quy phạm pháp luật đến các quan hệ xã hội so với các yêu cầu, mục
tiêu khi ban hành văn bản đó. Nếu như hiệu lực của văn bản quy phạm pháp
luật thể hiện thuộc tính của các quy phạm pháp luật, thì hiệu quả của một văn
bản quy phạm pháp luật lại là những gì mà văn bản đó có thể đem lại trong
cuộc sống, là kết quả của sự tương tác giữa pháp luật và xã hội, bởi chức năng
chính của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật hướng cho các
chủ thể sống và làm việc một cách hợp tác với nhau, để cùng nhau đạt được
những gì họ muốn, vì lợi ích của tất cả thành viên trong xã hội.
1. Tính thực tiễn
Việc xem xét, đánh giá một văn bản quy phạm pháp luật không còn dừng
lại ở việc đánh giá nó theo các tiêu chí nội tại. Ý nghĩa của sự tồn tại một văn
bản quy phạm pháp luật còn được xem xét ở một góc độ khác, đó là tính thực
tiễn và hiệu quả của nó, đó là kết quả của sự tác động của các quy phạm pháp
luật đến các quan hệ xã hội được điều chỉnh, đến các đối tượng được áp dụng.
Ở trên thế giới, hiệu quả của một luật được đánh giá căn cứ vào mục tiêu mà
các nhà làm luật đặt ra. Cụ thể là: một luật có hiệu quả khi luật đó đạt được
các mục tiêu đặt ra. Ở Việt Nam, một khái niệm tương đồng có thể được tìm
thấy trong Từ điển Luật học, đó là “hiệu quả của pháp luật”. Theo Từ điển
Luật học, hiệu quả của pháp luật được hiểu là kết quả cụ thể của sự tác động
pháp luật đến các quan hệ xã hội so với mục tiêu, yêu cầu đặt ra khi ban hành
pháp luật. Hiệu quả của pháp luật có thể được đánh giá theo từng cấp độ khác
7


nhau: hiệu quả của quy phạm pháp luật, của chế định pháp luật, của ngành
luật, của toàn bộ hệ thống pháp luật hoặc nếu phân chia theo hình thức, chúng
ta xét đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật.
Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật đề cập đến mối quan hệ giữa
pháp luật và xã hội. Đây không đơn thuần là vấn đề pháp lý, mà bao trùm cả
vấn đề xã hội có liên quan. Pháp luật thuộc phạm trù lý thuyết và xã hội thuộc

phạm trù thực tiễn. Pháp luật được hình thành từ nhu cầu thực tiễn, nhưng
không phải lúc nào cũng phản ánh đúng thực tiễn. Giữa lý thuyết và thực tiễn
luôn tồn tại khoảng cách. Khoảng cách này sẽ ngày càng rộng nếu pháp luật
không xuất phát từ nhu cầu của xã hội, không phản ánh đúng các giá trị của
cuộc sống. Pháp luật cần phải được đánh giá trong mối quan hệ với hành vi,
xử sự của các chủ thể, cũng như trong sự chuyển động và phát triển của xã
hội. Sự hình thành, phát triển của pháp luật phải được đánh giá trong một xã
hội nhất định, xã hội này quyết định sự tồn tại trong không gian cũng như về
thời gian của pháp luật. Chính vì vậy, hiện nay ở các nước có các môn xã hội
học pháp luật, kinh tế học pháp luật. Những môn này có mục đích là đề cao
các yếu tố kinh tế, xã hội trong việc thực hiện pháp luật, đánh giá sự hình
thành và phát triển của pháp luật trong sự phát triển của các hiện tượng xã
hội, đặc biệt là của các quan hệ kinh tế, dân sự, chính trị. Do vậy, có thể nói,
thực tế chính là thước đo kiểm nghiệm hiệu quả của pháp luật.
Hiệu quả của một văn bản quy phạm pháp luật thể hiện sự phản ánh của
dư luận xã hội về văn bản đó. Thực tế, tác động của dư luận xã hội có ảnh
hưởng rất lớn đến ý thức pháp luật, đến tâm lý pháp luật của người dân, từ đó
tác động đến hiệu quả của quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật
không hiệu quả sẽ tạo ra khoảng cách giữa pháp luật và người dân. Nếu
khoảng cách này càng lớn, thì nguy cơ không tôn trọng pháp luật càng cao,
bởi vì một phần họ mất lòng tin vào pháp luật, một phần khác là vì pháp luật
không phù hợp với tâm lý pháp lý trực cảm của đa phần dân chúng.

8


2. Tính khả thi
Một văn bản quy phạm pháp luật không hiệu quả có thể biểu hiện ở
những khía cạnh sau:
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật không thực hiện được mục tiêu

mà các nhà làm luật đặt ra khi soạn thảo và ban hành. Ví dụ như mục tiêu của
Luật Bảo vệ môi trường là nhằm giảm bớt ô nhiễm môi trường, khắc phục ô
nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường. Tuy nhiên, Luật này có
thể được xem là chưa hiệu quả khi hiện nay ở Việt Nam, tình trạng ô nhiễm
môi trường diễn ra ngày càng nhiều, với mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật tạo ra những tác động không mong
muốn đối với xã hội. Thực tế cho thấy, có những văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành không đạt được mục tiêu được các nhà làm luật đề ra, mà lại
dẫn đến một kết quả không mong đợi khác. Ví dụ về quy định cấm họp chợ
ở vỉa hè, lòng đường, cấm họp chợ cóc (Nghị định 34/NĐ-CP ngày
2/4/2010 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ). Quy định này có thể được coi là không hiệu quả
khi vẫn xuất hiện tình trạng bán hàng rong. Đấy là những kết quả không
mong muốn. Hay trong thời gian gần đây, hiệu quả của pháp luật được
quan tâm hơn lúc nào hết qua vụ việc một lái xe tải cố ý cán chết người. Sự
việc xảy ra khi lái xe đâm bị thương một cô gái. Sau đó, lái xe đó đã quyết
định cán chết cô gái đó. Bởi căn cứ vào quy định của pháp luật, cụ thể là
của Bộ luật Dân sự, lái xe gây tai nạn sẽ phải chịu các chi phí bồi thường
rất lớn cho nạn nhận bị thương. Do vậy, người lái xe đã cán chết người bị
thương để có thể giảm thiểu chi phí đền bù cho gia đình nạn nhân (xem
Điều 609, 610 Bộ luật Dân sự).
Từ dẫn chứng trên, có thể thấy rằng, chính các quy định của pháp luật đã
khiến cho người lái xe thay đổi cách xử sự, từ một vụ vô ý gây thương tích
dẫn đến cố ý giết người, bởi trách nhiệm dân sự do gây tai nạn chết người lại

9


nhỏ hơn nhiều so với trách nhiệm dân sự do gây thương tích. Trong trường
hợp này, hiệu quả của pháp luật dường như đã không được bảo đảm.

Như vậy, hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật, hay tính khả thi
chính là tiêu chí cần thiết để đánh giá ý nghĩa của sự tồn tại hay giá trị của
văn bản đó. Giá trị của một văn bản quy phạm pháp luật được đánh giá qua
những tác động cụ thể của nó vào thực tiễn các quan hệ xã hội mà nó điều
chỉnh và những tác động này được xem xét trong mối tương quan với các mục
tiêu đặt ra cho văn bản. Đây là một xu hướng mới trong việc đánh giá và cải
cách hệ thống pháp luật.
3. Các yếu tố tạo nên hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật
hành chính
Để có thể đánh giá được hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật, trước
tiên chúng ta cần phải xác định rõ các căn cứ để đánh giá.
Một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả khi đạt được những mục
tiêu mà các nhà làm luật mong đợi, yêu cầu. Nhưng để có thể đạt được những
mục tiêu này, văn bản quy phạm pháp luật đó phải có hiệu lực, có giá trị bắt
buộc đối với các chủ thể thuộc đối tượng áp dụng của nó.
3.1. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
Để một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả, trước hết nó phải có
hiệu lực. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở nền tảng tạo nên
hiệu quả của văn bản. Ngược lại, hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật
phản ánh hiệu lực của văn bản đó. Một văn bản quy phạm pháp luật chỉ có
hiệu quả khi nó được tuân thủ nghiêm túc.
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là tính bắt buộc thi
hành của văn bản quy phạm pháp luật ở một giai đoạn nhất định, trong một
không gian nhất định và đối với những chủ thể pháp luật nhất định (cá nhân,
cơ quan, tổ chức). Như vậy, hiệu lực là thuộc tính của văn bản quy phạm pháp
luật. Đã là văn bản quy phạm pháp luật thì phải có tính bắt buộc thi hành. Nếu
không, văn bản quy phạm pháp luật đó sẽ không còn giá trị tồn tại. Tuy nhiên,
10



trên thực tế, xảy ra tình trạng có những văn bản quy phạm pháp luật, nhưng
lại không được các chủ thể tuân thủ. Tình trạng trên xảy ra do nhiều nguyên
nhân, các nguyên nhân này có thể được chia thành hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất xuất phát từ chính các yếu tố nội tại của văn bản quy
phạm pháp luật. Đó là các yếu tố liên quan đến chất lượng của các quy phạm
pháp luật. Để văn bản quy phạm pháp luật phát huy được hiệu lực, các quy
phạm pháp luật phải đáp ứng các yêu cầu về mặt hình thức cũng như nội
dung. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng việc phân biệt giữa mặt nội
dung và mặt hình thức chỉ là tương đối, mang giá trị học thuật. Về mặt hình
thức, một quy phạm pháp luật dù được soạn thảo đúng quy trình, thủ tục,
nhưng không bảo đảm kỹ thuật soạn thảo, (ví dụ: không đảm bảo đúng cấu
trúc của quy phạm pháp luật, hoặc không rõ ràng về mặt ngữ nghĩa), sẽ khó
có thể đem lại hiệu lực mong muốn. Ngược lại, những quy phạm được soạn
thảo tốt về mặt kỹ thuật nhưng không được cơ quan có thẩm quyền ban hành
thì cũng sẽ không có hiệu lực. Do vậy, văn bản quy phạm pháp luật phải đáp
ứng được tính hợp pháp.
Những yêu cầu về mặt nội dung cần phải được hiểu theo nghĩa rộng,
không chỉ là những yêu cầu thuần túy về mặt câu từ, ngữ nghĩa, mà cần phải
hiểu ở việc tiếp nhận văn bản này từ đối tượng mà nó hướng tới, cũng như tác
động của nó đến xã hội. Văn bản quy phạm pháp luật đó cần phải đáp ứng yêu
cầu quản lý nhà nước; phải hợp lòng dân, thể hiện ý chí, lợi ích chung của
người dân. Đó là tính hợp lý của văn bản quy phạm pháp luật (2). Tính hợp lý
của một văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở mức độ phù hợp với thực tiễn
hoặc ở mức độ phát sinh các chi phí bất hợp lý cho các đối tượng áp dụng của
văn bản đó. Nếu như tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật là điều
kiện quyết định sự tồn tại của văn bản quy phạm pháp luật, thì tính hợp lý
mang lại cho văn bản khả năng thực thi cao. Một văn bản quy phạm pháp luật
có tính hợp lý sẽ giúp cho các chủ thể tuân thủ một cách nghiêm túc và tự
nguyện, bởi nó không chỉ mang lại lợi ích cho chủ thể mà còn mang lại lợi ích
11



chung cho cả xã hội. Tính hợp lý của văn bản quy phạm pháp luật tuy không
phải là yếu tố quyết định việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể, nhưng
không phải vì thế mà mất đi ý nghĩa quan trọng của nó trong việc đảm bảo
tính pháp chế của pháp luật. Trong một đất nước mà nền pháp chế ngày càng
được đề cao, thì tính hợp lý của luật ngày càng được coi trọng (3). Văn bản
quy phạm pháp luật có tính hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, nó phải xuất phát từ lợi ích thiết thực của xã hội, mà cụ thể là
của người dân. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành là nhằm để giải
quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Do đó, việc ban hành một văn bản quy
phạm pháp luật cần phải phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, và
lấy lợi ích của người dân, của xã hội, của nhà nước làm nền tảng. Một văn bản
quy phạm pháp luật không hợp lý có thể do nhiều nguyên nhân. Một trong
những nguyên nhân thường gặp là do kỹ thuật lập pháp còn yếu kém làm cho
luật pháp không còn phù hợp với các quan hệ xã hội, với thực tiễn sinh động.
Hậu quả là các quy phạm pháp luật đó khó có thể thực hiện trong cuộc sống.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với đối tượng, phải
điều chỉnh đúng đối tượng. Nếu văn bản đó luật đó không điều chỉnh đúng đối
tượng, sẽ không làm cho đối tượng đó tuân thủ luật một cách tự nguyện. Điều
đó gây ảnh hưởng đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật. Về mặt lý
thuyết, một văn bản quy phạm pháp luật sẽ vẫn luôn tồn tại dù nó không được
tuân thủ. Về mặt pháp lý, việc không tuân thủ một quy phạm không thể đưa
đến việc hủy bỏ một quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật này sau
một thời gian dài không được áp dụng trong thực tiễn, vẫn có thể được các
chủ thể nhận biết. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, văn bản quy phạm pháp
luật đó sẽ không phát huy hiệu lực. Một văn bản quy phạm không có hiệu lực
trong một thời gian dài sẽ bị coi như không có giá trị (4). Chỉ khi đối tượng
của nó chấp nhận và áp dụng nó trong thực tế, văn bản quy phạm pháp luật
mới thực sự phát huy hiệu lực và có giá trị. Tính hợp lý chính là yếu tố tác

động trực tiếp đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật. Một văn bản
12


quy phạm pháp luật hợp lý sẽ được người dân tuân thủ nghiêm túc và có hiệu
lực lâu dài. Có thể lấy ví dụ về Thông tư 33/2012/TT-BNNPTNT ngày
20/7/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định điều kiện vệ
sinh, đảm bảo an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh thịt và phụ phẩm
ăn được của động vật ở dạng tươi sống dùng làm thực phẩm. Thông tư này
chưa kịp có hiệu lực đã bị thu hồi lại do không đạt được tính hợp lý. Theo quy
định của Thông tư 33, thịt tươi sống chỉ được bày bán trong vòng 8 giờ đồng
hồ kể từ khi giết mổ nếu được bảo quản ở nhiệt độ thường. Thông tư này bị
chỉ trích vì thiếu thực tế, chưa sát với điều kiện thực tế, cũng như chưa chặt
chẽ (không nêu rõ được đơn vị nào sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra, chế tài xử
phạt ra sao,...).
Ngoài ra, hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật sẽ được nâng cao nếu
như có nội dung thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác trong
hệ thống pháp luật. Thực tế cho thấy, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật dù
đảm bảo tính hợp pháp trong mối quan hệ dọc với Hiến pháp và các văn bản
quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn nhưng lại có những quy định
mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác trong mối quan hệ
ngang. Những mâu thuẫn thậm chí những quy định trái ngược nhau giữa các
văn bản quy phạm pháp luật sẽ tạo nên những xung đột pháp luật gây cản trở
cho việc thực thi văn bản luật. Những xung đột pháp luật này sẽ làm ảnh
hưởng đến hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, việc bảo đảm
tính thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật sẽ giúp cho các văn bản
này đạt được hiệu lực cao.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai xuất phát từ các yếu tố bên ngoài của văn
bản quy phạm pháp luật: khả năng tổ chức thực thi của các cơ quan thi hành
pháp luật, khả năng tiếp cận pháp luật của các chủ thể, tình trạng tuân thủ

pháp luật của các chủ thể, khả năng được xã hội chấp nhận…. Có thể thấy
rằng, nghiên cứu mặt bên ngoài của một văn bản quy phạm pháp luật là
nghiên cứu ảnh hưởng của văn bản đó đến thái độ của các chủ thể. Một văn
13


bản quy phạm pháp luật có hiệu lực khi văn bản đó có giá trị bắt buộc thi
hành đối với chủ thể. Sự tuân thủ các quy định của văn bản quy phạm pháp
luật được coi là biểu hiện của một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực.
Yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể là khả
năng tiếp cận thông tin pháp luật của các chủ thể. Đó là khả năng nhận thức
để có thể viện dẫn các quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ thể. Đó còn là khả năng thực hiện các hành vi đúng pháp luật
của các chủ thể. Một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực phải là một văn
bản có thể tiếp cận được. Như vậy, khả năng tiếp cận pháp luật của các chủ
thể sẽ là một trong những yếu tố quyết định hiệu lực của pháp luật, bởi nó
quyết định thái độ của các chủ thể đối với văn bản quy phạm pháp luật, từ đó
quyết định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật.
Việc một văn bản quy phạm pháp luật không tiếp cận được có thể được
phân tích dưới hai góc độ: Thứ nhất, văn bản đó khó hoặc ít có khả năng tiếp
cận. Nói một cách khác, các chủ thể khó có thể thực hiện các quy định pháp
luật bởi họ không hiểu, không thấy hợp lý hoặc cho rằng các quy định này đi
ngược lại những quy tắc xử sự được thừa nhận rộng rãi trong xã hội; Thứ hai,
có thể do những điều kiện khách quan bên ngoài cản trở khả năng tiếp cận của
các chủ thể. hay nói một cách khác cản trở công dân thực hiện quyền tiếp cận
pháp luật. Quyền tiếp cận pháp luật, hay nói rộng ra là quyền tiếp cận thông
tin là một trong những quyền cơ bản của con người. Quyền này được hiểu
theo hai khía cạnh: Thứ nhất, đó là quyền mà công dân được chủ động tiếp
cận, thu thập thông tin; Thứ hai, đó là quyền được cung cấp thông tin từ các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quyền này đi liền với trách nhiệm của cơ

quan nhà nước phải cung cấp thông tin cho công dân.
Ngoài ra, nói đến yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bản quy phạm
pháp luật không thể không kể đến những cơ quan thực thi pháp luật. Một văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực hay không, không chỉ phụ thuộc vào
chính văn bản quy phạm pháp luật đó mà còn phụ thuộc vào việc tổ chức thi
14


hành, giám sát việc thực hiện của các cơ quan thực thi. Vì vậy, vai trò của các
cơ quan thực thi pháp luật là rất quan trọng. văn bản quy phạm pháp luật sẽ có
hiệu lực cao khi được các cơ quan thực thi thực hiện một cách nghiêm túc và
triệt để. Việc xử lý vi phạm pháp luật được thực hiện theo ba bước: Phát hiện
vi phạm; xem xét, đánh giá; đưa ra phương hướng xử lý. Mỗi bước trên đều
có khả năng làm ảnh hưởng đến hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật. Những
hạn chế, trở ngại trong việc thực hiện pháp luật thường có nguồn gốc, hoặc ít
nhất chịu tác động từ phía cơ quan thực thi pháp luật. Nếu như các cơ quan
này không hành động, không triển khai việc áp dụng; không giám sát việc thi
hành, tuân thủ pháp luật thì hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật sẽ
không được bảo đảm. Bên cạnh đó, những quy định không rõ ràng, chồng
chéo về thẩm quyền giữa các cơ quan thực thi cũng làm ảnh hưởng không nhỏ
đến việc thực hiện pháp luật. Ví dụ, liên quan đến việc kinh doanh thực phẩm
trong Luật An toàn thực phẩm, có tới ba Bộ có trách nhiệm chính trong việc
tổ chức thực hiện các quy định của Luật. Đó là Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Bộ Công thương. Thực trạng việc quản lý các thực
phẩm trên thị trường hiện nay cho thấy, việc quy định thẩm quyền cho nhiều
cơ quan cùng lúc và không nêu rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này sẽ
dẫn đến khó có thể đưa đến sự thống nhất giữa các quy định được ban hành,
cũng như cơ chế thực thi chúng.
3.2. Mục tiêu của văn bản quy phạm pháp luật
Hiệu quả của một văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể được đánh giá

khi so sánh với mục tiêu mà văn bản đó đề ra. Văn bản quy phạm pháp luật sẽ
có hiệu quả khi thực hiện được các mục tiêu của mình. Mục tiêu là một loạt
các hoạt động, kết quả cụ thể cần phải thực hiện được theo kế hoạch đã đặt ra
trong nghiên cứu. Mục tiêu có thể đo lường hay định lượng được. Mục tiêu là
nền tảng hoạt động của nghiên cứu, là cơ sở cho việc đánh giá kế hoạch
nghiên cứu đã đưa ra.

15


Văn bản quy phạm pháp luật được soạn thảo và ban hành ra luôn nhằm
để thực hiện một hoặc những mục tiêu nhất định. Ví dụ, Luật Cạnh tranh của
các quốc gia trên thế giới đều có những mục tiêu riêng của mình, nhằm đáp
ứng những nhu cầu riêng của quốc gia đó. Luật Chống độc quyền của Mỹ có
mục tiêu là bảo vệ tự do cạnh tranh. Mục tiêu của Luật Cạnh tranh Thụy Điển
năm 1993 (Điều 1) là nhằm loại bỏ và vô hiệu hóa những trở ngại đối với một
sự cạnh tranh hiệu quả trong sản xuất và thương mại hàng hóa, dịch vụ, và các
sản phẩm khác. Mục tiêu của Luật Cạnh tranh Ấn Độ năm 2002 là ngăn chặn
các hành vi gây thiệt hại đến cạnh tranh, xúc tiến và bảo trì cạnh tranh trên thị
trường, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và bảo đảm tự do thực hiện
thương mại cũng như tất cả các hoạt động có liên quan hoặc gắn liền với, của
tất cả các chủ thể trên thị trường ở Ấn Độ (Điều 1). Các mục tiêu này chính là
kim chỉ nam cho việc soạn thảo các quy phạm pháp luật trong luật. Các quy
phạm pháp luật chính là sự cụ thể hóa các mục tiêu được đề ra. Các quy phạm
pháp luật chính là công cụ để thực hiện mục tiêu đặt ra. Mục tiêu càng rõ ràng
thì các quy phạm pháp luật càng đảm bảo được tính thống nhất, chặt chẽ về
mặt nội dung. Từ đó văn bản quy phạm pháp luật càng dễ được thực hiện, đi
vào cuộc sống. Việc nêu rõ mục tiêu lại càng cần thiết đối với các văn bản quy
phạm pháp luật có hình thức là luật. Đây là loại văn bản quy phạm pháp luật
có hiệu lực pháp lý cao nhất. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, rất ít các văn bản

luật hiện nay nêu rõ mục tiêu của mình. Ở một số văn bản luật, mục tiêu được
ghi ở phần đầu, trước phần các quy định, ví dụ như Bộ luật Hình sự, Bộ luật
Lao động. Ở một số văn bản khác, mục tiêu của luật được ngầm hiểu trong
phần về nhiệm vụ của luật, ví dụ như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự,… Còn
đa số các văn bản luật khác, mục tiêu của luật không được nêu rõ, và thường
được ngầm hiểu qua các quy định trong văn bản luật. Nếu mục tiêu của văn
bản quy phạm pháp luật không được nêu rõ sẽ gây ra tình trạng văn bản quy
phạm pháp luật bị phản ánh sai lệch trong quá trình thực hiện. Để có thể đánh
giá xem văn bản quy phạm pháp luật có được thực hiện đúng với ý muốn của
16


các nhà làm luật hay không, chúng ta lại phải làm công việc ngược lại là xác
định mục tiêu của văn bản luật đó căn cứ vào việc xem xét tổng thể các quy
phạm pháp luật được thể hiện trong đó. Tình trạng có thể xảy đến là việc hiểu
và giải thích các quy định của luật sẽ trở nên khó khăn. Thậm chí, có thể
xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa mục tiêu và các quy định trong luật, làm
ảnh hưởng đến hiệu quả của luật. Thực tế hoạt động lập pháp ở Việt Nam
cho thấy, rất nhiều văn bản luật không nêu rõ mục tiêu của mình gây nên
tình trạng các văn bản này bị khúc xạ bởi những văn bản hướng dẫn thuộc
quyền lập quy (5). Tình trạng này xảy ra khi các văn bản lập quy không
phản ánh đúng tinh thần, nội dung của luật, hoặc trái luật. Cụ thể, đó là khi
các văn bản pháp quy vượt quá hoặc thu hẹp phạm vi điều chỉnh của luật,
pháp lệnh. Hậu quả là ý chí chung của nhân dân, lợi ích chung của xã hội
không được đảm bảo.
Ý muốn của các nhà làm luật, mục tiêu mà văn bản quy phạm pháp luật
phải thực hiện, không chỉ cần được nêu rõ, mà còn cần phải thống nhất. Một
văn bản quy phạm pháp luật có thể được soạn thảo và ban hành nhằm thực
hiện nhiều mục tiêu nhưng các mục tiêu này cần phải thống nhất với nhau.
Thực tế cho thấy, một luật đa mục tiêu thường có thể dẫn đến tình trạng xung

đột giữa các mục tiêu. Lấy ví dụ về pháp luật cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh
là một ngành luật có mục đích cụ thể, được xây dựng để bảo vệ và phát triển
nền kinh tế thị trường. Mỗi quốc gia sẽ xây dựng hệ thống pháp luật cạnh
tranh phù hợp với những nhu cầu riêng của nước mình, tùy thuộc vào sự phát
triển, hoàn cảnh kinh tế xã hội, nền văn hóa pháp lý và các ưu tiên của các
quốc gia đó. Các quốc gia phát triển trên thế giới cho rằng, pháp luật cạnh
tranh đa mục tiêu có thể dẫn tới xung đột giữa các mục tiêu. Việc dung hoà
các mục tiêu có thể tác động tiêu cực đến nguyên tắc cạnh tranh và tính độc
lập của cơ quan cạnh tranh. Do vậy, các nước này thường giảm mạnh việc sử
dụng pháp luật cạnh tranh để đạt các mục tiêu chung về xã hội, trong khi điều
này vẫn phổ biến ở các nước đang phát triển và chuyển đổi. Quay trở lại Luật
17


Cạnh tranh của Việt Nam. Trong toàn bộ các quy định của Luật, không có quy
định nào nêu lên mục tiêu cụ thể mà các nhà làm luật đặt ra cho Luật. Thông
qua các quy định của Luật, có thể hiểu mục tiêu chính của Luật là tạo lập và
duy trì cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể trên thị trường bằng việc kiểm
soát các hành vi gây hạn chế cạnh tranh hoặc có thể gây hạn chế cạnh tranh,
chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, thông qua
các quy định của Luật Cạnh tranh, mà cụ thể là các điều khoản liên quan
quyền miễn trừ đối với các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm, có thể thấy
rằng, Luật Cạnh tranh còn hướng tới mục tiêu là mở rộng xuất khẩu hoặc
góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, hoặc nhằm
duy trì việc làm cho người lao động (Điều 19 của Luật Cạnh tranh). Như
vậy, một Luật Cạnh tranh đa mục tiêu có thể dẫn đến sự mâu thuẫn giữa
các mục tiêu này nếu không có sự sắp xếp thứ tự ưu tiên áp dụng giữa các
mục tiêu được đặt ra.
III. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của văn bản
quy phạm pháp luật hành chính của Việt Nam hiện nay

Để văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đạt được hiệu quả mong
muốn, cần phải coi trọng thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần phải chú ý đến là tính hợp pháp, tính thống nhất, tính hợp
lý của các văn bản quy phạm pháp luật. Tính hợp pháp, hợp lý và thống nhất
của các văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể được đảm bảo khi công tác
xây dựng, soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được hoàn
thiện. Việt Nam cần phải có một cơ quan lập pháp làm việc chuyên nghiệp
hơn để có thể cho ra những văn bản luật có hiệu quả. Bên cạnh đó, hệ thống
các văn bản lập quy cũng cần được nâng cao về mặt chất lượng. Để làm được
việc này, bên cạnh việc chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, bộ phận
pháp chế của các Bộ, ngành cần phải chủ động phối hợp với nhau và có sự
tham khảo ý kiến của đa số quần chúng nhân dân trước khi ban hành một văn
bản dưới luật cụ thể.
18


Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật cần phải đảm bảo được khả năng
tiếp cận của quần chúng nhân dân. Để đảm bảo cho công dân được chủ động
tiếp cận thông tin, cơ quan nhà nước phải chủ động công bố công khai những
trình tự thủ tục rõ ràng thuận tiện để người dân có thể dễ dàng tiếp cận được
thông tin khi có nhu cầu. Ngoài ra, người dân có thể tiếp cận được thông tin
ngay cả khi không có nhu cầu bằng việc cơ quan nhà nước chủ động công
khai thông tin trên các trang thông tin điện tử của cơ quan hoặc thông qua các
kênh phổ biến kiến thức khác để đông đảo quần chúng được biết mà không
cần phải yêu cầu.
Thứ ba, liên quan đến các cơ quan thực thi pháp luật. Văn bản quy phạm
pháp luật sẽ có hiệu lực cao khi được các cơ quan thực thi thực hiện một cách
nghiêm túc và triệt để việc áp dụng luật. Các cơ quan này cần phải được trang
bị không chỉ về cơ sở pháp lý, mà còn cả cơ sở vật chất cũng như nguồn nhân
sự để đảm bảo việc thực hiện pháp luật ở mọi cấp độ. Các văn bản quy phạm

pháp luật cần phải nêu rõ thẩm quyền của các cơ quan có liên quan cũng như
nêu rõ các cơ quan đầu mối cùng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan đó. Cơ
chế phối hợp này nên được thiết lập theo hướng sắp xếp về mặt cơ cấu, thủ
tục sao cho công tác kiểm tra, giám sát, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
cạnh tranh được thực hiện một cách thống nhất. Có thể áp dụng cơ chế theo
dõi chung và theo dõi riêng giữa các cơ quan này. Theo đó, cơ quan đầu mối
sẽ được phân thẩm quyền theo dõi chung việc thi hành các quy định của văn
bản quy phạm pháp luật đó. Các Bộ, ngành được Chính phủ phân công chủ trì
soạn thảo văn bản pháp luật chuyên ngành có trách nhiệm theo dõi văn bản đó
trong đời sống xã hội. Các cơ quan này có điều kiện và đủ kiến thức chuyên
sâu về ngành, lĩnh vực quản lý của mình và hiểu rõ nội dung văn bản do mình
soạn thảo, do đó dễ phát hiện được những khiếm khuyết của văn bản khi được
triển khai thực hiện trong cuộc sống. Đó là cơ chế theo dõi riêng. Giữa cơ
quan thực hiện nhiệm vụ theo dõi chung và cơ quan thực hiện nhiệm vụ theo
dõi riêng cần phải có cơ chế phối hợp trong việc cung cấp thông tin. Cần quy
19


định trách nhiệm của các bộ, ngành quản lý chuyên ngành về việc theo dõi thi
hành các văn bản này, định kỳ thông báo cho các cơ quan đầu mối để tập hợp,
phân tích và làm báo cáo tổng hợp về tình hình thi hành văn bản quy phạm
pháp luật đó.
Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật cần phải nêu rõ mục tiêu và có sự
thống nhất giữa các mục tiêu được nêu. Ý muốn của các nhà làm luật cần
phải được thể hiện rõ qua các mục tiêu cụ thể. Đối với trường hợp một văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm thực hiện nhiều mục tiêu
cùng một lúc thì các mục tiêu này cần phải được thống nhất với nhau về
nội dung. Không thể đặt ra những mục tiêu mâu thuẫn nhau, gây ra tình
trạng việc thực hiện mục tiêu này gây khó khăn, cản trở cho việc thực hiện
mục tiêu kia. Chính vì vậy, khi soạn thảo luật, các nhà làm luật cần cân

nhắc để thống nhất các mục tiêu của luật. Ngoài ra, các mục tiêu có thể
được xác định theo thứ tự ưu tiên và tầm quan trọng gắn với từng mục tiêu
cụ thể nhằm giảm thiểu sự không rõ ràng, có thể dẫn đến xung đột giữa các
mục tiêu trong quá trình thực thi.

20


KẾT LUẬN
Để hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật được xem xét dưới một góc
độ rộng hơn, toàn diện hơn. Văn bản quy phạm pháp luật được đánh giá theo
các mục tiêu xã hội được đặt ra. Việc phân tích các yếu tố có tác động trực
tiếp đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật sẽ làm cơ sở để chúng ta đi
vào phân tích thực trạng và các nguyên nhân tác động đến hiệu quả của các
văn bản quy phạm pháp luật, từ đó đi tìm các giải pháp tương ứng nhằm nâng
cao hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1). Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội khóa XII kỳ
họp thứ III ban hành ngày 03/06/2008.
(2) Nguyễn Minh Đoan, “Vấn đề hiệu quả của pháp luật”, Nhà nước và
Pháp luật số 3/2001, tr. 3
(3) Nguyễn Đức Lam, “Tính cạnh tranh của nền pháp luật”, trích dẫn từ
/>
Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Luat-

Phap/Tinh_canh_tranh_cua_nen_phap_luat/, 2005

(5) PGS. TS. Hoàng Thị Kim Quế, “Chế độ pháp chế thống nhất, hợp lý
và áp dụng chung”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 9 (162) 2005, trang 1112.
Xem thêm:
(6) Tham khảo một số tài liệu khác

22


MỤC LỤC

23



×