Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

ảnh hưởng của thời gian thu hoạch đến sự nứt gãy gạo và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên tại đbscl

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 76 trang )

58

Phụ lục 1
Ảnh hưởng của thời gian thu hoạch đến sự nứt gãy gạo và tỉ lệ thu
hồi gạo nguyên tại ĐBSCL
Tháng 04- 2010
TÓM TẮT
Thu hoạch đúng thời hạn chiếm vị trí quan trọng trong việc kiểm soát sự nứt gãy hạt gạo. Tỉ lệ
thu hồi gạo nguyên giảm sẽ làm giảm giá trị và thu nhập của nông hộ. Các thí nghiệm trên đồng
được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của thời gian thu hoạch xung quanh thời điểm chín
sinh lý của hạt đến độ nứt gãy và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên của 7 giống gạo phổ biến (OM1490,
OM2718, OM2517, OM4498, AG24, IR50404 và Jasmine) tại 3 địa điểm khác nhau trong 2 năm
canh tác (2006-2008) ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Kết quả cho thấy thời gian thu hoạch và
giống gạo rất ảnh hưởng đến độ nứt gãy gạo. Xu hướng chung là tỉ lệ hạt nứt tăng khi thời gian
thu hoạch trễ hạn so với ngày chín sinh lý dự tính. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên cũng theo xu hướng
trên khi thu hoạch trễ. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên giảm trung bình 11.3% và lên đến 50% nếu bị
thu hoạch trễ từ 4-6 ngày. Xu hướng này như nhau đối với cả mùa khô và mùa mưa. Tỉ lệ gạo
gãy giữa các giống gạo chênh lệch nhiều (0.9 đến 60.5%) vào ngày thứ 6 sau ngày chín sinh lý
cho thấy có thể lựa chọn giống gạo phù hợp để canh tác nhằm giảm thiểu mức độ gãy hạt do thu
hoạch trễ hạn gây ra.
GIỚI THIỆU
Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên được định nghĩa là phần trăm gạo nguyên (nhân gạo có chiều dài hạt ít
nhất là ¾ chiều dài ban đầu) so với số lượng lúa đem đi xay xát. Đây là chỉ tiêu chất lượng chủ
yếu do tấm thường chỉ còn một nửa giá trị thương phẩm so với gạo nguyên. Thời gian thu hoạch
được xem là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến năng suất xay xát gạo. Thu hoạch gạo tại thời điểm
chín sinh lý của hạt giúp đạt được tỉ lệ thu hồi gạo nguyên tối đa (Kester và ctv. 1963, Bal và
Oiha 1975). Nếu thời gian thu hoạch bị trễ hạn sẽ gây ra tỉ lệ thu hồi gạo nguyên giảm (Bal và
Oiha 1975, Ntanos và ctv. 1996, Berrio và ctv. 1989) và thu hoạch quá trễ dẫn đến tổn thất to lớn
lượng gạo nguyên thu hồi. Nghiên cứu của Berrio và ctv. (1989) trên 16 giống gạo cho thấy tỉ lệ
gạo nguyên bị giảm 18% khi thu hoạch trễ 2 tuần. Tuy nhiên, thu hoạch trễ hạn không ảnh hưởng
đến các giá trị cảm quan của gạo (Champagne và ctv. 2005, Chae và Jun 2002).


Gạo bị nứt gãy trên đồng ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ thu hồi gạo nguyên. Đây là một tác động
tiềm ẩn vì hạt gạo có thể đã bị nứt khi hàm ẩm bị thay đổi do ngày nắng đêm ẩm ướt. Thời gian
thu hoạch ảnh hưởng đến tỉ lệ hạt nứt gãy và tất yếu ảnh hưởng đến tỉ lệ thu hồi gạo nguyên. Khi
thu hoạch gạo quá sớm có thể dẫn đến số lượng hạt chưa chín nhiều. Các hạt chưa chín thường
mỏng và bị khuyết tật do đó dễ bị gãy vỡ trong quá trình xay xát sau đó (Swamy và Bhattacharya
1980). Ngược lại, thu hoạch hạt trễ hạn làm cho hạt quá khô và dễ bị
nứt gãy. Các điều tra
nghiên cứu của Chau và Kunze (1982) cho biết các vết nứt có thể phát triển ở những nhân gạo có
ẩm độ thấp (13% hay 14% cơ sở ướt) trước khi thu hoạch do sự thay đổi đột ngột độ ẩm tương
đối không khí. Hơn nữa, các thao tác thu hoạch không đúng như không suốt lúa ngay mà để qua
đêm trên đồng làm tăng khả năng hút ẩm do hàm ẩm và độ chín của khối hạt không đồng đều
(Kunze và Prasad 1978).
59

Tỉ lệ gạo nguyên giảm do nứt gạo là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm giảm thu nhập
và lượng lương thực của nông hộ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), vựa lúa lớn nhất của
cả nước. Hạt gạo bị gãy hay bị nứt tế vi có thể xảy ra ngay trên đồng do thời điểm thu hoạch
không thích hợp, thao tác thu hoạch chưa đúng, cũng như do tác động của các điều kiện sấy sau
thu hoạch và thao tác xay xát chưa phù hợp. Nông hộ ở ĐBSCL canh tác lúa trong cả hai mùa
mưa và khô. Điều kiện khí hậu tại thời điểm thu hoạch vì thế là khác nhau giữa hai mùa, sự khác
nhau này có thể làm hạt gạo bị nứt và gãy trong quá trình xay xát. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
số liệu thực nghiệm về tác động của thời điểm thu hoạch đến sự nứt gãy của gạo và tỉ lệ thu hồi
gạo nguyên trên các giống gạo được canh tác tại các mùa khác nhau ở ĐBSCL. Nghiên cứu này
được thực hiện nhằm mục đích thu thập số liệu một cách có hệ thống tỉ lệ gạo nứt gãy và tỉ lệ thu
hồi gạo nguyên với các thí nghiệm trên đồng trong 4 mùa thu hoạch liên tiếp từ năm 2006 đến
năm 2008. Yếu tố chính trong thí nghiệm là thời điểm thu hoạch trước và sau ngày chín sinh lý.
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch trên nhiều giống
gạo đến mức độ nứt gãy hạt và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên ở các mùa vụ khác nhau. Nghiên cứu này
sẽ giúp xác định thời điểm thu hoạch tối ưu cho một số giống gạo trồng tại ĐBSCL.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Lấy mẫu gạo
Thí nghiệm được thực hiện tại ba địa điểm khác nhau là Trung tâm Giống tỉnh An Giang, Hợp
tác xã Tân Phát A (tỉnh Kiên Giang) và Hợp tác xã Tân Thới 1 (TP. Cần Thơ) trong 4 mùa vụ
liên tiếp trong 2 năm (2006-2008). Chọn 7 giống gạo trồng phổ biến tại các Hợp tác xã và Trung
tâm Giống cho các thí nghiệm trên đồng như trình bày ở Bảng 1. Ngày lúa chín của từng giống
gạo được xác định dựa trên khuyến cáo của các Trung tâm khuyến nông địa phương là từ 86-98
ngày (Bảng 1). Ngày chín sinh lý trong nghiên cứu này được định nghĩa là ngày thu hoạch lúa kể
từ ngày sạ lúa (DAS-days after sowing). Ngày chín sinh lý này được ước tính dựa trên kinh
nghiệm của nông hộ và các thông tin sẵn có từ các cơ quan khuyến nông.
Bảng 1. Các giống lúa và ngày chín sinh lý (CSL) được lựa chọn trong nghiên cứu này.
Giống lúa Mùa vụ Ngày CSL khuyến
cáo


Ngày CSL thí
nghiệm
††

Mưa
92
OM1490
Khô
87-92
92
Mưa
92
OM2718
Khô
90-95
92

Mưa
90
OM2517
Khô
85-90
86
Mưa
90
OM4498
Khô
90-95
91
Jasmine
Mưa
95-105
98
AG 24
Mưa
90-95
90
IR50404
Mưa
90-95
92

Ngày chín sinh lý khuyến cáo (ngày sau sạ) của Trung tâm khuyến nông địa phương cung cấp.
††
Ngày chín sinh lý (ngày sau sạ) lựa chọn cho thí nghiệm.



60

Thiết kế thí nghiệm
Mỗi thí nghiệm gồm có 7 nghiêm thức tương ứng với thời điểm thu hoạch trước và sau ngày lúa
chín dự tính cho mỗi giống gạo trong 7 giống được chọn. Các giống gạo này được trồng tại các
đồng lúa khác nhau trong 3 địa điểm thực hiện thí nghiệm. Thí nghiệm gồm có 7 nghiệm thức, 6
ngày trước và 6 ngày sau ngày thu hoạch. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối đầy đủ RCBD
(Random Complete Block Design), gồm có 5 khối, số khối tương ứng với số lần lặp lại của một
nghiệm thức (Bảng 2).
Bảng 2. Các nghiệm thức (ngày thu hoạch) so với ngày chín sinh lý (CSL). 0, +2, +4, +6 và -2, -4, -6 là ngày
thu hoạch trước và sau ngày CSL dự tính. A, B, C, D, và E là khối lặp lại
Khối
Nghiệm
thức
A B C D E
1
(-6) -6A -6B -6C -6D -6E
2
(-4) -4A -4B -4C -4D -4E
3
(-2) -2A -2B -2C -2D -2E
4
(0) 0A 0B 0C 0D 0E
5
(+2) +2A +2B +2C +2D +2E
6
(+4) +4A +4B +4C +4D +4E
7
(+6) +6A +6B +6C +6D +6E


Qui trình thí nghiệm
Lựa chọn một số ruộng lúa của nông hộ và phân lô thí nghiệm trước thời gian thu hoạch. Lúa thí
nghiệm trong mùa mưa được gieo vào tháng 3-4 và thu hoạch vào tháng 6-7 (năm 2006 một số
giống gạo được gieo vào mùa mưa trễ và thu hoạch vào tháng 9). Đối với lúa thí nghiệm trong
mùa khô được gieo vào tháng 11-12 và thu hoạch tháng 3-4. Hình 1 minh họa sơ đồ bố trí thí
nghiệm thời điểm thu hoạch cho mỗi giống gạo. Thu hoạch lúa trong 35 lô có kích thước 1 m x 2
m (tổng diện tích thu hoạch là 70 m
2
) tại 7 ngày thu hoạch tương ứng với các nghiêm thức 6
ngày trước và 6 ngày sau ngày chín sinh lý với 5 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức (Hình 1). Lúa
được gặt bằng liềm và suốt bằng tay. Gặt lúa vào buổi sáng sớm để tránh ánh nắng gắt nhằm
giảm khả năng gây nứt hạt do sự thay đổi đột ngột phân bố ẩm bên trong hạt trong điều kiện đêm
ẩm, ngày khô. Sau khi gặt, chuyển lúa vào bóng râm để suốt bằng tay, làm sạch và tách bỏ rơm,
hạt lép, tạp chất.
Mẫu lúa được chuyển đến nơi sấy sau khi đo ẩm độ. Mẫu được sấy nhẹ ở 35
o
C bằng máy sấy
khay của Đại học Nông Lâm TP.HCM đến ẩm độ 14 % cơ sở ướt. Mẫu sấy được làm sạch một
lần nữa để loại bỏ các hạt lép, đo ẩm độ bằng máy Kett (Kett Co. Ltd., Japan), bao gói và chuyển
về phòng thí nghiệm để xác định tỉ lệ nứt gãy và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên.






Hình 1. Minh họa bố trí thí nghiệm ngày thu hoạch cho mỗi giống gạo.
Mỗi lô có chiều dài 2 m và chiều rộng 1 m và đường biên quanh khu vực thu hoạch là 1.5 m.
61



1A 3B 4C 5D 7E
2A 1B 3C 6D 4E
3A 5B 1C 7D 6E
4A 2B 6C 3D 5E
5A 6B 7C 1D 2E
6A 7B 2C 4D 3E

7A

4B

3C

2D

1E




Phân tích và đo đạc
Xác định độ nứt trước khi xay xát (độ nứt hạt tự nhiên trên đồng).
Đây là chỉ tiêu phản ánh nhiều nhất khả năng ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch đến độ nứt hạt.
Lấy 3 mẫu nhỏ (150 g) từ mẫu của khối, đảm bảo độ lặp lại của mỗi khối. Mỗi mẫu được bóc vỏ
bằng tay để tránh nứt gãy trong quá trình thực hiện. Sau đó, đếm số vết nứt trên hạt (50 hạt) dưới
kính soi phóng đại và tính tỉ lệ nứt.
Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên
Cân chính xác 180 g lúa và đem xay, lấy 100 g trong số đó cho vào máy xát trắng trong 60 giây.
Gạo sau khi được xát trắng được phân loại bằng máy phân loại để tách gạo nguyên, cám và tấm

ra khỏi nhau. Sau khi xay, các sản phẩm phụ như lúa sót, trấu được tách khỏi gạo lức và tỉ lệ của
chúng được tính và ghi nhận dựa trên tổng khối lượng lúa đưa vào. Gạo nguyên là các hạt bảo
đảm được ít nhất 75% chiều dài ban đầu sau khi xay xát.
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý ANOVA (phân tích phương sai) bằng phần mềm thống kê Statgraphics® 3.0
(StatPoint, Inc.).

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tỉ lệ nứt gãy hạt gạo
Tỉ lệ nứt hạt tự nhiên trước xay của 7 giống gạo trong 4 mùa thu ho
ạch liên tục, mùa mưa 2006,
mùa khô và mưa 2007 và mùa khô 2008 được trình bày trong Bảng 3. Tỉ lệ nứt gãy gạo tự nhiên
khác biệt đáng kể giữa các ngày thu hoạch đối với từng giống gạo (P<0.05). Thu hoạch lúa sớm
hạn (trước ngày chín sinh lý) thì tỉ lệ hạt nứt ít hơn. Xu hướng chung là tỉ lệ hạt nứt gãy tăng
tương ứng với thời gian thu hoạch trễ hạn so với ngày chín sinh lý (ngày 0). Ví dụ, đối với tất cả

giống gạo, tỉ lệ nứt gãy hạt đạt đỉnh điểm tại ngày thứ 6 sau ngày chín sinh lý là ngày thu hoạch
trễ nhất trong thí nghiệm này (Bảng 3). Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc thu hoạch lúa
2
m

1 m
1.5 m
1 m
62

đúng thời điểm trong giai đoạn chín sinh lý của hạt. Kết quả của nghiên cứu này trên các giống
gạo Việt Nam phù hợp với các nghiên cứu trước đây cho thấy tác động xấu của tập quán thu
hoạch trễ hạn đến chất lượng gạo về mặt tỉ lệ hạt nứt gãy (Ntanos và ctv 1996, Berrio và ctv
1989). Khi hạt bị phơi quá khô trên đồng (hay trên gié lúa) có thể dẫn đến số lượng hạt nứt gãy

tăng.
Bảng 3. Tỉ lệ nứt gãy hạt của bảy giống gạo trước và sau ngày CSL trong hai năm canh tác.
Tỉ lệ hạt nứt gãy (%) trước và sau ngày CSL Giống
gạo
Mùa vụ
-6 -4 -2 0 +2 +4 +6
Mưa‘06
0.80
a
3.20
a
9.60
bc
4.80
ab
10.80
bc
15.20
c
23.60
d
OM1490
Khô ‘07
1.87
a
0.53
a
2.27
a
2.80

a
5.60
a
14.40
b
22.40
c

Mưa ‘07
2.00
a
2.13
a
2.27
a
1.07
a
1.33
a
2.13
a
2.40
a
Mưa ‘06
0.40
a
0.40
a
1.20
a

2.80
a
10.80
b
4.00
a
5.20
ab
0M2718
Khô ‘07
2.40
a
0.67
a
6.27
b
2.00
a
3.20
a
7.20
b
8.53
b
Khô ‘07
1.47
a
2.00
a
3.60

a
5.73
a
16.00
b
33.60
c
60.53
d
Mưa ‘07
3.47
a
10.27
b
15.73
bc
18.67
c
12.13
b
12.67
b
20.27
c
OM2517
Khô ‘08
0.67
a
1.73
a

3.33
a
8.13
b
9.33
b
14.13
c
25.73
d
Khô ‘07
3.73
a
1.07
a
1.47
a
1.47
a
1.07
a
2.93
a
9.33
b
OM4498
Mưa ‘07
2.53
a
3.73

ab
3.87
ab
4.67
ab
8.93
b
10.40
c
8.13
ab
Mưa‘06


1.33
a
0.13
a
1.60
a
0.53
a
1.33
a
5.47
b
5.47
b
AG24
Khô ‘08

6.50
a
18.17
bc
16.44
bc
17.67
ab
21.47
bc
32.40
c
53.07
d
Mưa ‘07
1.47
b
1.60
b
1.07
b
0.67
a
0.93
ab
0.4
a
1.33
b
IR50404

Khô ‘08
0.80
a
1.47
a
2.80
a
1.07
a
1.73
a
1.60
a
12.27
b
Jasmine
Mưa‘06


4.00
a
3.90
a
5.18
ab
5.14
ab
6.00
ab
8.66

c
7.60
bc
Số liệu là giá trị trung bình của năm lần lặp lại. Các chữ giống nhau trong cùng một hàng biểu thị
các giá trị khác biệt không đáng kể (P>0.05).

thu hoạch trong ‘mùa mưa trễ’ vào tháng chín 2006.
Tỉ lệ hạt nứt gãy tăng do thu hoạch trễ cũng phụ thuộc vào giống gạo. Giống gạo OM2517 và
AG24 có số lượng hạt nứt gãy cao sau ngày chín sinh lý lần lượt là 16.00 – 60.53% và 21.47 –
53.07% trong mùa khô 2007 và mùa khô 2008. Ngược lại, tỉ lệ hạt nứt gãy của các giống
IR50404, OM2718, và OM4498 thấp hơn trong cả hai mùa mưa và khô (lần lượt khoảng 0.4 –
12.27%, 3.20-10.80% và 1.07-10.40%) sau ngày chín sinh lý. Kết quả này chứng tỏ tỉ lệ hạt nứt
gãy tùy thuộc vào gi
ống gạo và do đó lựa chọn giống gạo phù hợp để canh tác là một bước quan
trọng để làm giảm tỉ lệ hạt nứt gãy.
Theo dự đoán hạt gạo nứt gãy trên cánh đồng sẽ phụ thuộc vào mùa vụ vì điều kiện thời tiết khác
biệt như nhiệt độ thay đổi đột ngột giữa ngày và đêm, cường độ bức xạ mặt trời, số gi
ờ chiếu
sáng và số lần mưa. Trong mùa mưa, hạt gạo có thể bị nứt trong giai đoạn chín trễ do hiện tượng
hồi ẩm. Trong mùa khô, hạt có thể bị quá khô tại giai đoạn chín trễ nếu không được thu hoạch
đúng thời điểm chín. Tuy nhiên, kết quả tại Bảng 3 trong 4 mùa vụ liên tiếp (mưa 2006, mưa và
63

khô 2007, và khô 2008) cho thấy mùa vụ không ảnh hưởng nhiều đến tỉ lệ nứt gãy hạt vì trong cả
mùa mưa và khô đều có chiều hướng tỉ lệ hạt nứt gãy tương tự nhau.
Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên
Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên theo thời gian của 7 giống gạo được trình bày trong Bảng 4. Nhìn
chung, tỉ lệ thu hồi gạo nguyên giảm khi thu hoạch trễ. Thu hoạch trễ 4-6 ngày có thể làm giảm tỉ
lệ thu hồi gạo nguyên đến 50% so với tỉ lệ này tại thời điểm hạt chín sinh lý. Tỉ lệ thu hồi gạo
nguyên có xu hướng nghịch với tỉ lệ hạt nứt gãy chứng tỏ rằng hạt nứt hiện diện trong hạt lức

ban đầu làm giảm tỉ lệ thu hồi gạo nguyên.
Ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch đến kết quả chung được trình bày trong Bảng 5. Lưu ý rằng
tỉ lệ thu hồi gạo nguyên bị ảnh hưởng bởi hệ thống xay xát thí nghiệm do đó tỉ lệ thu hồi gạo
nguyên là một hàm số của hiệu suất xay xát. Vì vậy, số liệu tỉ lệ thu hồi gạo nguyên trình bày
trong Bảng 5 mang tính tương đối với tỉ lệ thu hồi tại ngày chín sinh lý (ngày 0) được gán giá trị
100%. Ngoài ra, do số lượng thí nghiệm hạn chế, các giá trị được trình bày theo khoảng khả
o sát
đối với từng giống gạo.
Bảng 4. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên của bảy giống gạo biến thiên theo thời gian thu hoạch
khác nhau (sau ngày CSL dự tính).
Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên (%) trước và sau ngày CSL
Giống
gạo
Mùa vụ
-6 -4 -2 0 +2 +4 +6
Mưa ‘06
51.06
cd
52.30
d
50.73
cd
48.08
c
42.23
b
36.51
a
34.53
a

Khô ‘07
63.13
bc
66.21
c
66.93
c
67.90
c
64.57
bc
60.25
ab
56.35
a
OM1490
Mưa ‘07
50.03
a
45.10
a
52.15
a
45.56
a
49.81
a
49.26
a
49.01

a
Mưa ‘06
45.41
c
51.47
d
43.54
bc
43.91
bc
38.76
ab
36.83
a
40.72
abc
0M2718
Khô ‘07
67.93
b
67.01
b
66.40
b
67.48
b
66.22
b
63.81
a

62.41
a
Khô ‘07
64.58
d
41.09
b
45.19
b
56.68
c
53.18
c
43.74
b
28.63
a
Mưa ‘07
48.01
c
44.16
bc
37.88
a
42.19
ab
44.47
bc
49.24
c

44.34
bc
OM2517
Khô ‘08
65.68
c
65.36
c
64.67
c
59.84
c
60.55
b
55.29
a
52.90
a
Khô ‘07
43.80
a
54.35
bc
54.02
bc
58.33
d
56.95
cd
53.78

bc
52.55
b
OM4498
Mưa ’07
36.64
a
37.77
a
35.83
a
39.35
ab
37.87
ab
42.42
b
35.35
a
Mưa ‘06


40.35
b
42.35
bc
40.76
b
43.50
bcd

46.99
d
35.90
a
35.35
a
AG24
Khô ‘08
61.66
c
55.42
bc
52.38
b
42.62
a
43.55
a
36.48
a
37.94
a

Mưa ‘07
58.08
c
56.94
b
57.79
c

53.27
a
56.54
bc
55.67
abc
54.55
ab
IR50404
Khô ‘08
64.28
de
61.75
cd
64.57
e
60.28
c
57.40
b
56.99
b
51.68
a
Jasmine
Mưa‘06


41.59
a

54.65
c
51.82
bc
55.36
c
54.59
bc
48.15
b
49.46
bc
Số liệu là giá trị trung bình của năm lần lặp lại. Các chữ giống nhau trong cùng một hàng biểu thị
các giá trị khác biệt không đáng kể (P>0.05).

thu hoạch trong ‘mùa mưa trễ’ vào tháng chín 2006.
64

Nói chung, thời điểm thu hoạch tối ưu trình bày trong Bảng 5 tương tự thời điểm chín sinh lý
trong Bảng 1 đối với tất cả các giống gạo được khảo sát. Thời điểm thu hoạch đề nghị cho giống
OM 1490 (94 ngày) và OM 2517 (94 ngày) trong mùa mưa dài hơn ngày chín sinh lý khuyến cáo
của trung tâm khuyến nông địa phương là 2-4 ngày. Từ các kết quả trên, có thể kết luận rằng (1)
ngay cả khi lúa được thu hoạch đúng thời điểm, tỉ lệ nứt gãy vẫn khác nhau tùy vào giống gạo và
do đó cơ hội can thiệp ở đây là đề nghị nông hộ canh tác các giống gạo có độ nứt gãy thấp như
OM 2718 và các nhà khoa học phát triển các giống gạo như vậy, (2) tỉ lệ hạt nứt gãy tại thời
điểm thu hoạch tối ưu ít nhưng thu hoạch trễ hạn 6 ngày sẽ dẫn đến tỉ lệ nứt gãy cao và cơ hội
can thiệp là đảm bảo lúa được thu hoạch đúng thời điểm, và (3) tỉ lệ nứt gãy gạo tại từng thời
điểm thu hoạch của các giống gạo là khác nhau, một số giống dễ bị ảnh hưởng hơn các giống
khác như giống OM 2517, vậy cơ hội can thiệp là bảo đảm các giống này được thu hoạch nhanh.


Bảng 5. Ảnh hưởng của thời gian thu hoạch trước và sau ngày CSL theo mùa vụ (4-6 ngày
trước và 4-6 ngày sau ngày CSL dự tính) đến tỉ lệ hạt nứt gãy (trước xát) và tỉ lệ thu hồi
gạo nguyên. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên được biểu diễn theo giá trị tương đối so với ngày
CSL.
Tỉ lệ hạt nứt gãy % Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên
tương đối %
Mùa vụ Giống
gạo
Trước chín Sau chín Trước chín Sau chín
Ngày thu
hoạch tối
ưu
OM1490 0.8-9.6 1.1-23.6 101-109 72-88 94
Mưa
OM2718 0.4-1.2 4.0-10.8 103-117 84-93 92

OM2517 3.5-15.7 12.1-20.3 90-114 105-117 94

OM4498 2.5-3.9 8.1-10.4 91-93 96-108 94

AG24 0.3-1.5 1.1-4.1 93-97 83-108 94
IR50404 1.1-1.5 0.4-1.3 103-105 99-106 90
Jasmine 4.0-4.5 6.0-7.7 75-99 87-99 98
OM1490 0.5-2.3 5.6-22.4 93-99 83-95 92
Khô
OM2718 0.7-6.3 3.2-8.5 98-101 92-98 92
OM2517 0.7-3.6 9.3-60.5 77-106 51-97 86

OM4498 1.1-3.7 1.1-9.3 75-93 90-98 91


AG24 6.5-16.4 21.5-53.1 133-145 86-102 88

IR50404 0.8-2.8 1.7-12.3 105-107 86-95 88


KẾT LUẬN
Thu hoạch gạo sớm hạn vài ngày (trước ngày chín sinh lý) tốt hơn thu hoạch trễ hạn từ 4 đến 6
ngày vì thu hoạch trễ hạn làm cho hạt gạo dễ bị nứt gãy. Do đó, thời điểm thu hoạch càng kéo
dài thì tổn thất càng trầm trọng ngay cả trong trường hợp thu hoạch bằng tay như nghiên cứu
này. Mức độ ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch đến tỉ lệ nứt gãy hạt cũng phụ thuộc vào giống
gạo.
65

LỜI CẢM ƠN
Các tác giả chân thành cảm ơn Chương trình Hợp tác Phát triển Nông nghiệp và Nông Thôn
(CARD) đã tài trợ cho nghiên cứu này. CARD là một dự án do Chính phủ Úc tài trợ cho Việt
Nam để tăng cường nông nghiệp và phát triển nông thôn bằng cách áp dụng nghiên cứu, kỹ
thuật, kỹ năng và quản lý cho các nông hộ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bal, S., & Oiha, T. P., 1975. Determination of biological maturity and effect of harvesting and
drying conditions on milling quality of paddy. Journal Agricultural Engineering
Resource, 20, 353-361.
Berrio, L. E., & Cuevas-Perez, F. E., 1989. Cultivar differences in milling yields under delayed
harvesting of rice. Crop Science, 24, 1510-1512.
Calderwood, D. L., Bollich, C. N., & Scott, J. E., 1980. Field drying of rough rice: Effect on
grain yield, milling quality energy saved. Agronomy Journal, 72, 644-653.
Chae, J. C., & Jun, D. K., 2002. Effect of harvesting date on yield and quality of rice. Korean J.
Crop Sci., 47(3), 254-258.
Champagne, E. T., Bett-Garbet, K. L., Thompson, J., Mutters, R., Grimm, C. C., & McClung, A.

M., 2005. Effects of Drain and Harvest Dates on Rice Sensory and Physicochemical
Properties.
Cereal Chemistry, 82(4), 369-274.
Chau, N. N., & Kunze, O. R., 1982. Moisture content variation among harvested rice grains.
Transactions of the ASAE, 25(4), 1037-1040.
Kester, E. B., Lukens, H. C., Ferrel, R. E. M., A., & FIinfrock, D. C., 1963. Influences of
maturity on properties of western rice. Cereal Chemistry, 40, 323-326.
Kunze, O. R., & Prasad, S., 1978. Grain fissuring potentials in harvesting and drying of rice.
Transactions of the ASAE, 21(2), 361-366.
Ntanos, D., Philippou, N., & Hadjisavva-Zinoviadi, S., 1996. Effect of rice harvest on milling
yield and grain breakage. CIHEAM-Options Mediterraneennes, 15(1), 23-28.
Swamy, Y. M. I., & Bhattacharya, K. R., 1980. Breakage of rice during milling- Effect of kernel
defects and grain dimension. Journal of Food Process Engineering, 3, 29-42.




68

Phụ lục 2A
Nghiên cứu về máy sấy tĩnh vỉ ngang ở Đồng Bằng Sông Cửu
Long Việt Nam
THÁNG 04- 2010

TÓM TẮT
Nghiên cứu này bao gồm các thí nghiệm và điều tra khảo sát về máy sấy tĩnh vỉ ngang với
trọng tâm hiện tượng nứt hạt gạo và so sánh các chế độ sấy đảo gió. Kết quả cho thấy cả hai
máy sấy qui mô sản xuất 8 tấn và qui mô phòng thí nghiệm 20 kg, ảnh hưởng của đảo gió là
giảm sai biệt ẩm độ cuối rất rõ ràng; tuy nhiên, ảnh hưởng này đến thời gian sấy và tốc độ s
ấy

là khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê. Sấy cơ học dù là có hay không có đảo gió đều
tốt hơn phơi nắng xét trên phương diện làm giảm nứt hạt. Tuy nhiên, khi so với đối chứng là
mẫu sấy bóng râm, sấy cơ học (có hay không có đảo gió) làm giảm tỉ lệ thu hồi gạo nguyên
và tăng nứt; yếu tố ảnh hưởng chưa cụ thể có thể là do tốc độ sấy. Hiện tượ
ng tỉ lệ thu hồi gạo
nguyên giảm không nhất quán, thấp hơn hoặc cao hơn một ít trong mỗi cặp thí nghiệm giữa
đảo gió và không đảo gió; kết quả này không như dự đoán với số liệu sai biệt ẩm độ cuối đã
đo đạc. Thí nghiệm trên máy sấy 4 tấn ở Long An có trang bị bộ thu phụ năng lượng mặt trời
cho chất lượng hạt tốt và minh chứng tính kinh tế cao. Các k
ết quả khảo sát chính từ các điều
tra hiện trạng tình hình sử dụng máy sấy tĩnh vỉ ngang ở bảy tỉnh ở ĐBSCL là: xu hưởng tăng
năng suất sấy, vai trò của các nhà chế tạo ở địa phương và cán bộ khuyến nông, sự hỗ trợ của
chính phủ giảm lãi vay mua máy sấy, sấy trong mùa khô và đặc biệt là sự mất cân đối giữa
chi phí sấy và lợi ích sấy.

GIỚI THIỆU
Máy sấy tĩnh vỉ ngang đã có mặt từ lâu trong nền sản xuất lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL). Từ mẫu máy đầu tiên trong những năm 1980 đến khoảng 6500 máy vào năm 2007
quả là bước tiến dài. Nhưng không phải tất cả đều đáng lạc quan. Mức độ chấp nhận máy sấy
thay đổi tùy tỉnh, ngay cả các huyện các xã trong một tỉnh đều khác nhau. Tìm ra ra các nguyên
nhân tác động
đến sự chấp nhận này quả thực phức tạp. Trong khuôn khổ Dự án CARD
026/VIE-05 với trọng tâm là sự nứt gãy hạt lúa, phần nghiên cứu máy sấy vỉ ngang từ năm
2006 đến 2008 gồm các hoạt động sau:
• Thực hiện các thí nghiệm với các điều kiện sấy qui mô thí nghiệm và ở điều kiện sản
xuất thực tế để đánh giá tác động của sấy lúa đả
o chiều gió đến độ nứt hạt và các
thông số sấy khác.
• Tiến hành các thí nghiệm trên máy sấy vỉ ngang 4 tấn có bộ thu nhiệt phụ bằng năng
lượng mặt trời.

• Tiến hành Khảo sát nhanh (Participatory Rapid Rural Appraisal PRRA) về việc sử
dụng máy sấy vỉ ngang tại ĐBSCL.

CÁC THÔNG TIN LIÊN QUAN
Các thông tin dưới đây lấy từ số liệu các tỉnh trong các buổi Hội thảo, từ cuộc khảo sát qui
mô toàn vùng Đ
BSCL do Bộ Nông nghiệp & PTNT tổ chức năm 2004 phối hợp với tổ chức
Danida của Đan Mạch, và từ kinh nghiệm của người viết nghiên cứu về máy sấy trong 25
năm qua.

69

Sự phát triển của máy sấy tĩnh vỉ ngang (MSTVN)
Đồng Bằng Sông Cửu Long ở Nam Bộ với khoảng 2,7 triệu hecta lúa cho ra khoảng 50% sản
lượng lúa củaViệt Nam, xuất khẩu hơn 90% gạo. Mỗi nông hộ có khoảng 1 ha, tuy rằng ở
vài nơi, cũng nhiều người canh tác trên 3- 10 ha hoặc hơn thế.
Sấy lúa trở thành vấn đề ở ĐBSCL từ những năm 1980 khi tăng thêm vụ lúa thu hoạch trong
mùa m
ưa. Nhiều cơ quan đã thử nhiều mẫu máy sấy, nhưng chỉ một mẫu được sản xuất chấp
nhận, đó là máy sấy vỉ ngang (MSVN). Mẫu MSVN đầu tiên được Trường Đại học Nông
Lâm Tp Hồ Chí Minh lắp đặt tại Sóc Trăng năm 1982. Nông dân quanh vùng đã cải biến/
cải tiến máy này, dùng nguyên vật liệu có sẵn tại địa phương. Năm 1990, có khoảng 300
MSVN ở ĐBSCL, một nử
a là ở Sóc Trăng. Nhiều tỉnh khác bắt đầu áp dụng máy này. Năm
1997 một khảo sát do Dự án Danida tiến hành, báo cáo có 1500 MSVN ở ĐBSCL, trong đó 3
tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, và Cần Thơ chiếm 850 máy, 10 tỉnh còn lại chiếm 650 máy (Bảng
2).
Dự án Danida này ở Cần Thơ và Sóc Trăng đã tăng gấp đôi số lượng máy sấy ở mỗi tỉnh, từ 250
máy lên 500 máy trong hai năm 1998-1999 thông qua hoạt động khuyến nông và chương trình
tín dụng. Dự án này k

ết thúc năm 2001, và được thay bằng Hợp phần sau thu hoạch do Bộ
Nông nghiệp quản lý, và cũng được Danida hỗ trợ các hoạt động khuyến nông. Hợp phần kết
thúc năm 2007. Số MSVN tăng nhanh, năm 2002 có 3000 máy, năm 2006 có 6200 máy. Số
máy sấy ở ĐBSCL chiếm hơn 95 % tổng số máy sấy ở Việt Nam.
Sự phát triển của MSVN trong 25 năm qua theo một mô thức khá thú vị. Trước tiên, một cơ
quan nghiên cứu đưa ra m
ột mẫu máy, trong trường hợp này là ĐHNL. Sau đó, nông dân/ thợ
cơ khí chép mẫu /cải biến/ cải tiến máy. Tiếp theo ĐHNL theo dõi các cải tiến đó, và cho ra
một mẫu máy với nhiều thay đổi và cải tiến đột phá. Chu trình lặp lại.

Các cột mốc về các mẫu thiết kế máy sấy của ĐHNL là:
1982: MSTVN kiểu thông thường, với không khí sấy đi vào buồng gió từ chính
giữa; lò đốt trấu ghi phẳng và bu
ồng lắng tro (Hình 1).
1994: MSTVN kiểu thông thường, với buồng gió bên hông (Hình 2), lò đốt trấu với
buồng lằng xoáy (Hình 3).
2001: MSTVN loại đảo chiều không khí sấy (đảo gió), Hình 5 và 6.
(dự kiến ):
2006: Lò đốt trấu tự động (model NLU-IRRI-Hohenheim, Hình 4)
2007: Bộ thu nhiệt năng lượng mặt trời cho MSTVN.

Các cải biến / cải tiến quan trọng do nông dân thực hiện bao gồm:
1987: Lò đốt trấu ghi nghiêng.
2004: Buồng sấy đảo gió, với ống gió chìm.
2006: Cơ cấu cào dướ
i hộc chứa trấu để cung cấp trấu đều hơn.


Hình 1. MSTVN kiểu thông thường, với không khí
sấy đi vào từ chính giữa.


Hình 2. MSTVN kiểu thông thường, với buồng gió
bên hông.
70


Hình 3. Lò đốt trấu với buồng lắng xoáy.

Hình 4. Lò đốt trấu tự động cho máy sấy đảo gió
SRA-4.



Drying Air
UP
Grain
CONVENTIONAL SHG
FLAT-BED DRYER
Floor: 50 sq.m / 8 ton
0.3m

Drying Air
UP
Drying Air
DOWN
Grain Grain
REVERSIBLE SRA DRYER
0.6m
Floor: 25 sq.m / 8 ton


Hình 5. Nguyên lý sấy đảo gió.

Hình 6. Máy sấy đảo gió SRA-10 (10 tấn/mẻ ).

ĐHNL đã dẫn đầu khi đưa ra các mẫu quạt sấy hiệu quả, cho cả máy sấy thông thường và
máy sấy đảo gió, đã chuyển giao thiết kế quạt cho 15 nhà sản xuất ở ĐBSCL, trong đó 7 nhà
đã chế tạo ống khảo nghiệm quạt theo tiêu chuẩn Nhật JIS.

Chất lượng lúa sấy
Chất lượng lúa sấy được đánh giá bằng nhiều tiêu chí:
 Lúa không bị dính tro đen từ
lò đốt.
 Ẩm độ cuối hạt sấy khá đều phù hợp với yêu cầu bảo quản.
 Nếu làm lúa giống, tỷ lệ nẩy mầm cao.
 Nếu làm lúa thuơng phẩm, độ nứt vỡ hạt phải tối thiểu.

Tiêu chí đầu tiên (không lẫn tro) đã được đáp ứng sau vài năm nhờ các thợ xây lò đốt rút kinh
nghiệm và cạnh tranh nhau vì đây là phản ứng đầu tiên củ
a nông dân.

Tiêu chí thứ hai khá khó đáp ứng do bản thân nguyên lý sấy vỉ ngang. Sai biệt ẩm độ cuối
khoảng 1,5 % giữa lớp trên và lớp dưới được coi là tốt, trong lúc ở máy sấy tháp liên tục sai
71

biệt 1 % là bình thường. Với MSVN nông dân phải đảo thủ công. Về kỹ thuật, suất lượng gió
khá cao và nhiệt độ khá thấp dưới 44
o
C sẽ giúp giảm sai biệt ẩm độ. Nguyên lý sấy đảo
chiều gió áp dụng từ 2002 cũng giúp giảm sai biệt này. Các điểm kỹ thuật này cần được
khẳng định lại trong chương trình CARD này.


Giữ độ nẩy mầm cao đã được các Công ty giống áp dụng bằng cách dùng nhiệt độ dưới 42
o
C,
và quan trọng là sấy hạt trong vòng 12 giờ sau khi thu hoạch.

Với lúa thương phẩm, hạt nứt vỡ là vấn đề lớn. Một báo cáo (Phan Hiếu Hiền, 1998) dựa vào
khảo sát vài nhà máy xay xát ở Cần Thơ và Long An cho rằng nông dân bị giảm lợi tức từ 5 đến
7 % do gạo xay ra nhiều tấm vì phơi sấy không đúng cách. Hao hụt này đến 7 % trong vụ Đông
Xuân do tập quán phơi mớ ngoài đồng, và mức độ hao hụt này lên đến 20 tri
ệu USD cho mỗi vụ
thu hoạch ở ĐBSCL. Tuy nhiên, do số liệu và ước lượng từ khảo sát nhỏ, cần kiểm chứng lại
trong chương trình CARD này bằng các thí nghiệm đầy đủ.


VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khảo nghiệm
Khảo nghiệm máy sấy được tiến hành theo tiêu chuẩn như mô tả trong tài liêu RNAM (1991)
và ASABE (2006). Thiết bị đo bao gồm: các loại nhiệt kế, máy đo ẩm độ, tủ
sấy, thiết bị đo
công suất v.v…

Thí nghiệm đối với máy sấy 8 tấn/mẻ được bố trí ở 2 mức nhiệt độ sấy: a) Ổn định ở 43
o
C;
và b) Ở 50
o
C vào giờ đầu và ổn định 43
o
C ở các giờ sau. Do năng suất thực tế của lò đốt đã

thiết kế, nhiệt độ sấy khó đạt đến 50
o
C nên trong thí nghiệm nhiệt độ sấy chỉ đạt được
khoảng 48
o
C. Yếu tố sấy có đảo gió và không đảo gió được tiến hành trong tất cả các thí
nghiệm. Ngoài ra một vài thí nghiệm được tiến hành để so sánh đối với phơi nắng trên sân xi
măng với bề dày 7 cm, như thông thường theo nông dân.

Độ nứt hạt và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên do Vinacontrol phân tích, một đơn vị chứng nhận gạo
xuất khẩu, và Phòng Thí nghiệm Chất lượng Gạo của Bộ môn Công nghệ Hóa học thực hi
ện
theo qui trình của Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) và Đại học Queensland. Mỗi nghiệm
thức được phân tích trên 3 mẫu, mỗi mẫu lấy ngẫu nhiên 50 hạt; các hạt lúa được bóc vỏ trấu
bằng tay và soi độ nứt bằng kính lúp. Độ tăng độ nứt hạt và giảm tỉ lệ thu hồi gạo nguyên
của mỗi nghiệm thức trên cơ sở mẫu lúa trước sấy được phơi dưới bóng râm đế
n ẩm độ 14%.
Vấn đề lớn nhất của thí nghiệm là ẩm độ ban đầu của lúa sấy. Chúng tôi đã gặp nhiều khó
khăn trong những mẻ sấy về chất lượng và ẩm độ ban đầu. Điều này được chứng minh qua 8
mẻ sấy. Ngay cả đối với máy sấy 1 tấn, thí nghiệm 3 yếu tố cũng khó thực hiện do khác nhau
về ẩm độ ban đầu. Cuối cùng chúng tôi
đã tiến hành thí nghiệm so sánh theo cặp trên máy
sấy 20 kg có đảo gió và không đảo gió.

Đối với các thí nghiệm sử dụng nguồn nhiệt mặt trời để sấy lúa, chọn các mẫu máy sấy tĩnh
vỉ ngang 4 tấn phổ biển chế tạo tại địa phương trang bị thêm bộ phận thu nhiệt mặt trời thiết
kế tại Trung tâm Năng lượng và Máy nông nghiệp tại Đại học Nông Lâm Tp.HCM.

Khảo sát
M

ục đích của khảo sát là: (i) xác định vai trò của máy sấy tĩnh vỉ ngang trong việc giảm tổn
thất sau thu hoạch và giữ chất lượng lúa gạo; (ii) xác định các yếu tố của máy sấy vỉ ngang
72

làm ảnh hưởng đến độ nứt hạt; và (iii) xác định những vấn đề còn tồn tại mà chương trình
CARD có thể hỗ trợ.
Khảo sát sử dụng phương pháp điều tra nhanh qua phỏng vấn nhiều tầng lớp (Participatory
Rapid Rural Appraisal: PRRA), từ nông dân đến các chủ nhà máy và các cán bộ Phòng ban
v.v…). Tuy nhiên, số liệu thu thập cũng dựa nhiều vào số liệu điều tra 10 năm trước và theo
kinh nghiệm trên 20 năm của nhữ
ng chuyên gia về máy sấy của Đại học Nông Lâm.
Bốn tỉnh được chọn trong năm 2006 là Thành phố Cần-Thơ, tỉnh Kiên-Giang, Long-An, và
Tiền-Giang. Ba tỉnh đầu tiên được Chương trình CARD chọn để tiến hành thí nghiệm và tập
huấn khuyến nông. Trong năm 2007, chúng tôi cũng đã khảo sát một số tỉnh khác thuộc
ĐBSCL như Hậu-Giang, An-Giang, Kiên Giang, Sóc-Trăng.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

KHẢO NGHIỆM
Kết quả thí nghiệ
m trên máy sấy 8 tấn, máy sấy qui mô phòng thí nghiệm và máy sấy sử dụng
năng lượng mặt trời và kết quả khảo sát được trình bày sau đây.
Máy sấy 8 tấn
Lựa chọn hai máy sấy 8 tấn cho các thí nghiệm này. Một máy sấy có đảo chiều gió được thiết
kế tại trường ĐH Nông Lâm Tp.HCM và được lắp đặt tại HTX Tân Phát A, huyện Tân Hiệp,
tỉnh Kiên Giang vào tháng 07 năm 2006 (Hình 7 và 8). Máy sấy đảo gió do một nhà sản xuất
địa phươ
ng chế tạo, thiết kế gần giống mẫu của ĐHNL và lắp đặt tại HTX Tân Thới, TP. Cần
Thơ. Điểm khác biệt là buồng sấy với “ống gió chìm” (Hình 9) để phân bố không khí sấy đồng
đều hơn.



Hình 7. Máy sấy vỉ ngang 8-tấn/mẻ, HTX Tân
Phát A, Kiên Giang.
Hình 8. Máy sấy vỉ ngang 8-tấn/mẻ với chiều không
khí từ trên xuống.



73


Hình 9. Máy sấy 8 tấn tại HTX Tân Thới, TP. Cần Thơ.

Các thí nghiệm tiến hành tại Kiên Giang được kiểm soát tốt hơn nên sẽ được trình bày nhiều
kết quả hơn trong báo cáo này và các kết quả tại Cần Thơ mang tính sơ bộ. Tham khảo các tài
liệu của Phan Hiếu Hiền (2006, 2007, 2008) các chi tiết thí nghiệm.
Các thí nghiệm tại Kiên Giang được tiến hành trong hai mùa mưa (tháng 07 năm 2006 và
tháng 07-08 năm 2007), và hai mùa khô (tháng 03 năm 2007 và tháng 03 năm 2008). Các kết
quả chủ yếu như sau:
• Nhiệt độ sấy ổn đị
nh và có thể giữ trong vòng ± 3
o
C thường từ giá trị danh nghĩa 43
o
C.
• Đảo chiều gió có tác động rõ rệt đến việc giảm sai biệt ẩm độ cuối. Khi máy hoạt
động đúng kỹ thuật, sai biệt này ít hơn 2.2% khi có đảo gió nhưng sẽ tăng lên 4.6%
nếu không có đảo gió. Sai biệt ẩm độ cao đồng nghĩa với tăng nứt gãy hạt trong quá
trình xay xát. Điều này giải thích tại sao càng ngày càng có nhiều máy sấy theo

nguyên tắc đảo gió được lắp đặt từ năm 2003 trở đ
i.
• Tuy vậy ảnh hưởng của đảo gió đến thời gian sấy hay tốc độ sấy không rõ ràng do tác
động của nhiều yếu tố khác nhau (Hình 10).











Số liệu hạt nứt sau xát trong tháng
03 và tháng 07 2007 với ba cặp
mẻ sấy (Có đảo gió và Không có đảo gió) cho thấy:
• Sấy cơ học cho dù có hay không có đảo gió đều tốt hơn phơi về phương diện tỉ lệ hạt nứ
t
gãy ít hơn và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên cao hơn. Số liệu của các thí nghiệm trong tháng 03
năm 2007 cho thấy tỉ lệ hạt nứt ít hơn 3-4 % và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên cao hơn khoảng
4%.
• Tỉ lệ hạt nứt trong các mẻ có đảo gió thấp hơn các mẻ không có đảo gió (Hình 11). Đây là
những kết quả cơ bản.
• Tuy nhiên, tỉ lệ thu hồi gạo nguyên giảm không nhất quán, th
ấp hoặc cao hơn một ít ở
mỗi cặp (Hình 12). Kết quả này được xử lý thống kê số liệu tỉ lệ thu hồi gạo nguyên bằng
Dr ying r ate
0.0

0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
20 22 24 26 28 30
Initial MC, %wb
Air Reversal
No air reversal

Hình 10. Ảnh hưởng của sấy đảo gió đến tốc độ sấy.
74

trắc nghiệm t giữa các mẻ có đảo gió và không có đảo gió cho thấy sự khác biệt là không
có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức 5%. Kết quả này không như dự đoán với kết quả thu
được về sai biệt ẩm độ cuối. Có thể là do mẫu xay xát vì thời gian xát trắng là một phút,
các hạt nứt vẫn chưa bị gãy vỡ trong quá trình xay xát.
• Trong cả hai trường hợp (có và không có đảo gió), khi sấy tỉ lệ
thu hồi gạo nguyên giảm
và tỉ lệ hạt nứt tăng. Các yếu tố ảnh hưởng chưa được tìm hiểu thỏa đáng do có rất nhiều
yếu tố liên quan khi sấy một khối lượng lúa lớn 8 tấn như độ đồng đều của lúa, tốc độ sấy
v.v… Dự đoán tốc độ sấy là lý do ảnh hưởng đáng kể (Hình 13), các số liệu cho thấy tốc
độ
sấy thích hợp là trong khoảng 1.0-1/2 %/ giờ. Tuy nhiên, kết quả này cần được kiểm
chứng bằng các thí nghiệm tiếp theo hay các thí nghiệm ở qui mô phòng thí nghiệm.
Crack % INCREASE (Kien Giang 2007 wet-season)
0
5
10

15
20
25
30
35
40
B2 & B5 B1 & B6 B9 & B6 Ave(3batches)
Batches
Crack %
Air reversal No air reversal

Hình 11. Tỉ lệ hạt nứt (%) tăng, Kiên Giang, mùa
mưa 2007.
Head rice, Kien Giang 2007 Wet-season
(AR = Air Reversal; NAR = No air reversal. B2 = Batch No2)
0
10
20
30
40
50
60
70
AR B2
AR B9
NAR B5
NAR B6
StDev(AR
)
Head Rice Before drying, % Head Rice After drying, %

Hình 12. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên trước và sau
sấy.
Effect of Drying rate (AR & NAR)
0
4
8
12
16
20
24
28
32
36
0.8 1.0 1.2 1.4 1.6 1.8 2.0
Drying rate, % /hr
Crack Increase,
Head rice Decrease, %
Grain Crack Increase, % Head Rice Decrease , %

Hình 13. Ảnh hưởng của tốc độ sấy đến tỉ lệ hạt nứt và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên.

Máy sấy qui mô thí nghiệm
Hai yếu tố ảnh hưởng được nghiên cứu gồm có yếu tố A là ẩm độ cuối với hai mức ẩm độ
(14% ký hiệu X14 và 17% ký hiệu X17). Yếu tố B là chế độ đảo gió với hai mức độ (có đảo
gió AR và không có đảo gió NoAr). Bố trí mỗi trong bốn nghiệm thức (hay kết hợp yếu tố) là
một khối thí nghiệm thực hiện tại cùng một thời gian nhờ vào hai máy s
ấy qui mô thí nghiệm
hoàn toàn giống nhau hoạt động song song. Mỗi mẻ sấy có 20 kg lúa. Thí nghiệm được lặp
lại 4 lần (4 khối).
Chiều dầy lớp lúa trong các mẻ AR là 0.51 m trong khi chiều dày lớp lúa ở mẻ NoAr là 0.31

m. Lấy mẫu tại ba lớp – đáy, giữa và trên mặt trong 3 khay khác nhau và các khay đệm ở
giữa.
Trong mỗi khối thí nghiệm, các yếu tố độc lập là tốc độ sấy (đường cong sấy), độ đồng đều

m độ cuối (thể hiện qua ẩm độ của các lớp lúa ở đáy, giữa và trên cùng), tỉ lệ thu hồi gạo
nguyên và tỉ lệ hạt nứt. Số liệu của một khối điển hình được trình bày trong Hình 14, 15, 16
75

và 17. Kết quả phân tích thống kê khối ngẫu nhiên hoàn toàn RCBD có số liệu được trình bày
trong Bảng 1.
Từ kết quả đạt được và phân tích thống kê, có thể rút ra các kết luận sau:
a. Sai biệt ẩm độ cuối:
Tác động của chế độ đảo gió và ẩm độ cuối là khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức ý
nghĩa 5%. Sai biệt ẩm độ cuối ở chế độ đả
o gió ít hơn chế độ không đảo gió (Bảng 1, Hình
14). Khi quá trình sấy ngừng ở ẩm độ 14% thì sai biệt ẩm độ cũng ít hơn so với 17%. Tuy
nhiên sự tương tác giữa các yếu tố có ý nghĩa do đó cần so sánh trong mỗi thí nghiệm kết hợp
giữa các yếu tố. Ví dụ trong Bảng 1, nghiệm thức NoArX14 và AR-X17 có sai biệt ẩm độ
cuối tương tự nhau.
20-8-2008I: 43
o
C
10
11
12
13
14
15
16
17

18
19
20
21
22
23
AR X14 NoArX14 AR X17 NoArX17
AR = Air Reversal; NoAr = No Air reversal.
X14 = Average Final MC 14%
X17 = Average Final MC 17%
Final MC, %w
b
Upper
Middle
Lower

Hình 14. Độ đồng đều ẩm độ.

20-8-2008I: 43
o
C. Final MC 17%
10
12
14
16
18
20
22
24
26

28
30
024681012
Drying time, hr
MC , % wb
NoArX17-Bottom
NoArX17-Middle
NoArX17-Top
AR X17-Bottom
AR X17-Middle
AR X17-Top Layer

Hình 15. Các đường cong sấy xuống 17% của các lớp trên cùng, ở giữa và lớp đáy. AR = Đảo gió; NoAr
= Không đảo gió. X14 = Ẩm độ cuối trung bình 14%. X17 = Ẩm độ cuối trung bình 17%.
76


20-8-2008I: 43
o
C. Final MC 14%
10
12
14
16
18
20
22
24
26
28

30
024681012
Drying time, hr
MC , % wb
NoArX14-Bottom
NoArX14-Middle
NoArX14-Top
AR X14-Bottom
AR X14-Middle
AR X14-Top Layer

Hình 16. Các đường cong sấy xuống 14% của các lớp lúa trên cùng, ở giữa và lớp đáy.

b. Tốc độ sấy:
Ảnh hưởng của cả chế độ sấy lẫn ẩm độ cuối là không có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức
alpha 5%. Tuy nhiên, ở mức alpha 10%, tốc độ sấy xuống 14% ẩm chậm hơn sấy xuống 17%
một cách có ý nghĩa (Bảng 1, Hình 15 và 16).
-6.38
-8.56
-12.92
22
-20
-18
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4

-2
0
NoArX14 AR X14 NoArX17
A
Decrease in Head rice
r
y, compared to shade drying,
% (decrease = - )
AR = Air Reversal; NoAr = No Air reversal.
X14 = Average Final MC 14%
X17 = Average Final MC 17%

Hình 17. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên giảm.




77

Bảng 1. Số liệu thí nghiệm với máy sấy qui mô thí nghiệm. AR = Đảo gió; NoAr = Không đảo gió; X14 =
Ẩm độ cuối 14%; X17 = Ẩm độ cuối 17%.
TỐC ĐỘ SẤY, %/hr SAI BIỆT ẨM ĐỘ
CUỐI, %
TỈ LỆ THU HỒI GẠO
NGUYÊN GIẢM, %
TỈ LỆ HẠT NỨT, %
A =
Ẩm
cuối


B =
Đảo gió
A =
Ẩm
cuối↓
B =
Đảo gió
A =
Ẩm
cuối↓
B =
Đảo gió
A =
Ẩm
cuối↓
B = Đảo gió

NoAr AR

NoAr AR

NoAr AR

NoAr AR Ctrl
X14
1.00 0.88
X14
4.20 2.00
X14
-2.99 -5.96

X14
8.00 11.33 11.33
1.37 1.54 6.30 4.00 -10.02 -9.26
0.00 7.33 4.00
1.46 1.35 7.00 4.90 -7.50 -9.32
0.00 2.00 0.67
1.59 1.53 7.89 3.90 -5.02 -9.70
0.67 8.00 1.33
Av: 1.35 1.32 Av: 6.35 3.70 Av: -6.38 -8.56 Av:
2.17 7.17 1.83
X17
1.11 1.05
X17
5.30 3.70
X17
-14.18 -5.70
X17
18.67 24.00 3.00
1.47 1.49 11.70 9.60 -10.27 -10.18
19.33 8.67 0.67
1.60 1.36 8.90 4.80 -21.83 -25.70
4.00 9.00 0.00
1.59 1.71 10.30 6.60 -5.77 -8.41
2.00 1.33 0.00
Av: 1.55 1.52 Av: 10.30 7.00 Av: -13.01 -12.50 Av:
11.00 10.75 0.92
Kết quả phân tích thống kê (ở mức ý nghĩa 5%):
Tương tác AB: Không Tương tác AB: Có Tương tác AB: Có Tương tác AB: Có
A: không quan trọng LSD = 2.14% LSD = 7.70% LSD = 7.73%
B: không quan trọng (giữa các nghiệm thức)




c. Tỉ lệ thu hồi gạo nguyên và tỉ lệ hạt nứt
Khi sấy, dù là có đảo gió hay không cũng làm giảm tỉ lệ thu hồi gạo nguyên và tỉ lệ hạt nứt
tăng so với mẫu sấy đối chứng trong bóng râm. Có thể là do tốc độ sấy quá cao (hơn
1,3%/giờ). Tuy nhiên phân tích hồi qui và vẽ đồ thị (Hình 18) cho thấy không có chiều hướng
nhất định nào. Khi ẩm độ cuối 17% thì hạt bị n
ứt nhiều và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên thấp vì
xay lúa không phải ở ẩm độ tối ưu với máy xay trong phòng thí nghiệm.

Effect of Drying rate on rice crack
0
5
10
15
20
25
0.8 1.0 1.2 1.4 1.6
Drying rate , %wb /hr
Rice crack, %
NoAr
AR

Hình 18. Ảnh hưởng của tốc độ sấy đến tỉ lệ hạt nứt.
78


Về mặt lý thuyết, tỉ lệ thu hồi gạo nguyên nhiều tương ứng với tỉ lệ hạt nứt thấp và tỉ lệ thu
hồi gạo nguyên nhiều tỉ lệ nứt ít tương ứng với sai biệt ẩm độ cuối nhiều. Vì vậy, dự đoán sai

biệt ẩm độ cuối ít khi sấy đảo gió so với sấy không đảo gió sẽ cho tỉ lệ hạ
t nứt giảm ít hơn và
tỉ lệ nứt ít hơn, nhưng số liệu cho thấy ngược lại (Bảng 1).
Nói chung ngay cả với thí nghiệm qui mô phòng thí nghiệm, số liệu thí nghiệm vẫn khó phân
tích có thể là do sự khác biệt giữa các hạt lúa.

Máy sấy vỉ ngang 4 tấn/mẻ, sử dụng năng lượng mặt trời
Máy sấy SDG-4 loại lắp ghép, gồm các bộ phận sau:
i.) Quạt hướng trụ
c hai tầng cánh, kéo bằng động cơ diesel Trung Quốc 15 HP.
ii.) Lò đốt than đá, mức tiêu thụ điều chỉnh được từ 5 đến 12 kg/giờ.
iii.) Buồng sấy diện tích sàn 4.50 m *3.27 m, đặt trên 7 chân thép, do đó dễ lắp đặt trên
đất không phẳng. Không khí sấy có thể thổi lên (Hình 19) hoặc xuống (Hình 20) bằng
cách đảo bạt vải nhựa.
iv.) Bộ thu nhiệt NLMT do Trung tâm Năng lượng và Máy Nông nghiệp ĐHNL thiết kế,
gồ
m 2 ống trụ bằng plastic trong (Hình 19 và 20), mỗi ống trụ φ1.0 m * dài 27 m.
Phía trong ống trụ là lớp nhựa PE đen để hấp thu nhiệt. Hai ống trụ đồng qui vào một
hộp chuyển tiếp, cũng là hộp nhận nhiệt từ lò đốt than đá. Bộ thu nhiệt NLMT và lò
than có thể sử dụng riêng rẽ hoặc phối hợp. Các thí nghiệm thực hiện ở tỉnh Long An
vào tháng 03 năm 2007, là tháng khô nhất trong năm.


Hình 19. Máy sấy SDG-4B bộ thu NLMT, với không
khí sấy thổi lên.

Hình 20. Máy sấy SRA-4B bộ thu NLMT, với không
khí sấy thổi xuống.

Đã thí nghiệm 5 mẻ sấy vào tháng 3- 2007: Mẻ 1 sử dụng nhiệt từ than đá; Mẻ 2 và 3 sử

dụng nhiệt từ NLMT, Mẻ 4 và 5 sử dụng nhiệt phối hợp từ than đá và NLMT.
Kết quả đạt được tóm tắt như sau:
• Năng suất sấy 3,8 – 4,1 tấn/mẻ 7- 12 giờ với ẩm độ giảm (trung bình±độ lệch chuẩn) từ
23.8 ±1.7 % xuống 14.2 ± 0.8 %.

Nhiệt độ sấy có thể điều chỉnh trong khoảng 38- 44
o
C với lò than đá. Với NLMT, nhiệt
độ sấy đạt 38
o
C khi nắng tốt (nhật chiếu hơn 800 W/m
2
), và chỉ đạt 36
o
C khi trời có mây
(nhật chiếu khoảng 500 W/m
2
, mức tiêu biểu trong mùa mưa). Khi nắng kém, thời gian
sấy kéo dài đến 12 giờ như ở Mẻ 3.
79

• Phối hợp NLMT và năng lượng than đá rất tiện lợi để kết thúc mẻ sấy trong ngày. Do
mùa vụ thu hoạch tại địa phương thường không quá 25 ngày, không thể “ung dung” với
mẻ sấy dài đến 2 ngày.
• Độ gạo nguyên trong tất cả các mẻ sấy đều tương đương với phơi trong bóng râm, và còn
tốt hơn với 2 mẻ sấy NLMT, có lẽ do nhiệt độ sấy hơi thấp.

Phân tích sử dụng năng lượng mặt trời trên cơ sở Mẻ 4 và Mẻ 5, cả hai đều sử dụng nguồn
nhiệt kết hợp từ than đá và NLMT, các kết luận như sau:
• NLMT đóng góp giúp tiết kiệm 43– 78 % than đá.

• Tiết kiệm này qui ra tiền bằng 46 000– 82 000 đồng mỗi mẻ (≈ US$ 3– 5 /mẻ ) hay
2 000– 22 000 đồng /tấn (≈ US$ 0.7– 1.3 /tấn).
• Để ước tính, giả định mỗi n
ăm máy sấy 100 mẻ hay 400 tấn, với khoảng ½ số mẻ dùng
NLMT hoàn toàn, và ½ số mẻ dùng NLMT phụ tiết kiệm được 50 % than, hay lần lượt là
US$1.6 và US$0.8 mỗi tấn. Vậy tổng tiết kiệm là US$480 mỗi năm hay 7 triệu đồng.
• So sánh với đầu tư thêm cho bộ thu nhiệt NLMT khoảng 9 triệu đồng, và chi phí thay
thế vật liệu ống plastic khoảng 2 triệu đồng (US$120) sau mỗi 7 tháng sử dụng, thì thời gian
hoàn vốn chỉ là 2 n
ăm.
• Với chủ máy sấy đơn lẻ, có thể không sấy được 100 mẻ mỗi năm. Ngược lại, chủ nhà
máy xay xát có máy sấy có thể sấy hơn thế. Như vậy, NLMT nên nhắm đến đối tượng là các
liên hợp sấy - xay xát.

Ở ĐBSCL Việt Nam, nông hộ thường sử dụng hầu hết máy sấy tĩnh để sấy lúa trong mùa
mưa. Đối với mùa khô, chủ yếu là sử d
ụng vệ đường để phơi nắng nhằm tiết kiệm chi phí
chất đốt cho công đoạn sấy. Do đó, vào mùa khô hiện tượng hạt nứt gãy còn trầm trọng hơn
như các khuyến cáo thường xuyên của các trung tâm nghiên cứu và khuyến nông nhưng kết
quả đạt được không như mong đợi vì thật sự chi phí phơi dưới ánh mặt trời rất thấp.
Lần đầu tiên ở Việt Nam, NLMT đã đượ
c sử dụng để sấy lúa ở qui mô sản xuất với chi phí
chấp nhận được. Các nỗ lực sấy NLMT của thập niên 1980 chỉ xoay quanh các mẻ sấy 50-
300 kg và kéo dài 2 ngày. Các khảo nghiệm đã xác nhận chất lượng lúa sấy. Về kinh tế, đã
bác bỏ được câu thường nghe “Năng lượng mặt trời thì miễn phí nhưng không rẻ” với phân
tích hoàn vốn đầu tư thêm trong vòng 2 năm. Về môi trường NLMT là sạch nhấ
t. Vấn đề còn
lại là giới thiệu NLMT đến các nhà máy xay xát có máy sấy. Các thí nghiệm đã làm rõ vai trò
của NLMT để tiết kiệm chất đốt, đặc biệt trong vụ Đông Xuân.


KHÁO SÁT
Số liệu chung:
Bốn tỉnh được khảo sát tương đối giống nhau về khí hậu và các điều kiện nông nghiệp khác.
Nhiệt độ trung bình tháng 27- 28
o
C, tối đa 29
o
C vào tháng Tư và tối thiểu vào tháng Giêng
25
o
C. Nhưng sai biệt nhiệt độ giữa ngày và đêm thì rõ rệt hơn, ví dụ 25 và 36
o
C vào các
tháng nóng, hoặc 23 và 33
o
C trong các tháng mùa mưa. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10,
còn lại là mùa nắng, không Xuân Hạ Thu Đông như ở Bắc bộ. Lượng mưa hàng năm 1 400
mm ở Long-An, và cao hơn ở Cần Thơ và Kiên -Giang, lần lượt là 1 600 and 1800 mm. Ẩm
độ không khí trung bình là 80- 82 %. Điều này chỉ nói rằng đây là khi hậu nhiệt đới, chưa cụ
thể gì liên quan đến sau thu hoạch. Số liệu một ngày tiêu biểu ở Cần Thơ vào tháng 3 nắng
hay tháng 8 mưa, ẩm độ không khí vào ban
đêm rất cao, hơn 90 %; khác hẳn với Australia ẩm
độ nhỏ hơn 70 % ngay cả ban đêm. Ý nghĩa là hạt sẽ hồi ẩm khi bảo quản. Số liệu cho mỗi
tỉnh ghi ở Bảng 2.
80


Bảng 2. Số liệu khảo sát trên 4 tỉnh.
Cần-Thơ Kiên-Giang Long-An Tiền-Giang
Dân số (2005), 1,14 1,65 1,41 1,70

% dân nông nghiệp 50 76 83 85
Diện tích trồng lúa hằng năm , h
a
231 000 596 000 430 000 252 000
Sản lượng gạo, 1,23 2,90 1,93 1,31
% thu hoạch trong mùa mưa 47 48 35 60
Tổng số máy sấy
≈350
1100 580
#
300
##

% lúa hè thu sấy bằng máy
≈15
(10- 20)
24 22 12
Nguồn: Tổng cục thống kê, Hà-Nội, Việt Nam, (2005); Báo cáo Danida ASPS (2004);
# Ông. Cỏn, Chi cục Phát triển Nông thôn (2006); ## Ông Việt, Chuyên viên sau thu hoạch tỉnh Tiền Giang
(2006).

Hiện trạng sau thu hoạch và sấy:
a) Số lượng máy sấy tĩnh vỉ ngang của 4 tỉnh được thể hiện trong Bảng 3. Long-An và
Tiền-Giang chậm hơn về phát triển máy sấy.
b) Máy sấy tĩnh vỉ ngang đầu tiên được lắp đặt tại các tỉnh này vào những năm đầu 1990.
Những máy sấy này là những mẫu máy đầu tiên với buồng gió giữa, sử dụng lò đốt trấu
ghi nghiêng có buồ
ng lắng tro (Hình 1). Mẫu máy thứ hai là máy sấy có buồng gió hông
(Hình 2) và lò đốt trấu đã cải tiến được lắp đặt từ năm 1995 đến 1997. Cuối cùng mẫu
máy sấy có đảo gió (nguyên lý hoạt động như Hình 5) với những ưu điểm tiết kiệm công

lao động và mặt bằng lắp đặt máy, được lắp đặt đầu tiên ở Long An vào năm 2000, Tiền-
Giang và Kiên -Giang năm 2002. Hiện tại đã có 400 máy sấy đảo gió
ở ĐBSCL, trong đó
khoảng 30 máy là mẫu ban đầu và do Đại học Nông Lâm lắp đặt.
c) Phần trăm lúa sấy bằng máy vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các tỉnh. Như tại Kiên
Giang trung bình là 24%, nhưng ở một số huyện mới chỉ 3 % lúa thu hoạch vụ hè thu
được sấy bằng máy.
d) Phần trăm lúa sấy bằng máy có thể không tương ứng với số lượng máy sấ
y hiện có,
nhưng phụ thuộc vào thời tiết. Điều này giải thích tại sao tại Cần Thơ lượng lúa sấy bằng
máy mới chỉ từ 10 đến 20 %.
e) Sấy bằng máy không chỉ giảm tổn thất sau thu hoạch mà còn giữ được chất lượng hạt.
Hiện tại, nhiều nông dân, các chủ nhà máy xay, các cán bộ nhận ra điều này, khác so với
quan điểm 10 năm về trước.
f)
Mặc dù những ưu điểm trên nhưng hiện tại phơi nắng vẫn còn là chủ yếu. Như tại Cần
Thơ, trong khi khả năng đáp ứng về năng suất sấy của các máy sấy đã lắp đặt là 25%
nhưng vẫn chỉ 15% được sấy bằng máy. Thậm chí có nguồn khác cho rằng đến 90% là
phơi nắng, trong đó 40% phơi trên sân đất, 40 % phơi trên sân xi măng, và 10 % phơi trên
đường nhựa.
g) Lý do là chi phí sấy, trong khi chất lượng lúa chưa được quan tâm nhiều trong phương
pháp và hệ thống sản xuất ở hiện tại. Số liệu thu thập tại tỉnh Long-An cho thấy trên
Bảng 3.

81

Từ Bảng 3, một số ghi nhận như sau:
• Trong mùa khô, chi phí sấy bằng máy sấy SRA-4 (98 đồng/ kg) vẫn còn cao hơn đối với
phơi nắng thông thường.
• Trong mùa mưa, chi phí sấy máy thì thấp hơn so với chi phí phơi. Do đó, mức phí 5 %

giá trị lúa, hoặc khoảng 130 đồng/kg, qua đó chủ máy có thể thu hồi vốn đầu tư sau 2- 4
năm tuỳ giá trị đầu tư.
• Quan điểm c
ủa nông dân là không muốn trả chi phí sấy cao hơn chi phí phơi trong điều
kiện thời tiết bình thường. Nhưng khi thời tiết bất lợi thì chi phí sấy máy cũng phải thấp
hơn phơi để nông dân chọn sấy.
• Máy sấy SRA-8 với lò đốt trấu, và máy sấy SDG-4 với lò đốt trấu là các lựa chọn để giảm
chi phí sấy.
• Tuy nhiên, không khuyến cáo máy sấy SDG-4 với lò đốt than đá vì chi phí sấy cao, chủ
máy khó hoàn vốn.
• Chi phí sấy tính ở trên chưa bao gồm phí vận chuyển, từ 10 đến 12 đồng/kg hoặc
US$0,6- 0,7/tấn, tương đương 10 % chi phí sấy.

Bảng 3. Chi phí sấy đối với từng loại năng suất khác nhau.
Cách sấy /phơi đồng /kg US$ /tấn
Máy sấy SRA-4 (đảo gió, 4-tấn/mẻ), lò đốt trấu 98 6.1
Máy sấy SRA-8 (đảo gió, 8-tấn/mẻ), lò đốt trấu 79 4.9
Máy sấy SDG-4 (đảo gió, 4-tấn/mẻ), lò đốt trấu
#
1 80 5.0
Máy sấy SDG-4 (đảo gió; 4-tấn/mẻ) , lò than đá 130 8.1
Phơi nắng, trong mùa nắng
70 4.4
Phơi nắng, trong mùa mưa, thời tiết bình thường 140 8.8
Phơi nắng, trong mùa mưa, thời tiết xấu 210 13.1
Ghi chú :#1: SDG-4 = Một loại máy sấy đảo gió chi phí thấp 4 tấn/ mẻ, do nhà chế tạo tại tỉnh Đồng Tháp.
Máy sấy này sử dụng quạt do đHNL thiết kế, nhưng giảm chi phí chế tạo bin sấy trong khi vẫn đảm bảo đồng
đều qua ống phân bố gió giữa.



Kết quả khảo sát năm 2007:
• Nhu cầu về máy sấy có năng suất lớn từ 12- 20 tấn/ mẻ; phản ảnh bằng yêu cầu lắp đặt
máy sấy 10- 16 tấn trong 2 năm vừa qua, khác với 5 năm trước yêu cầu máy sấy 4- 8 tấn/
mẻ; năm 2007 có yêu cầu máy sấy 20 tấn/mẻ .
• Vai trò của nhà chế tạo tại địa phương và người làm công tác khuyến nông: Tỉnh có số
lượ
ng máy sấy phát triển nhanh như An-Giang và Tiền -Giang có nhiều nhà chế tạo cung
cấp những máy sấy có độ tin cậy và hiệu suất cao cho nông dân. Người làm công tác
khuyến nông có sự hiểu biết sâu về cấu tạo và hoạt động của máy sấy là yếu tố quan trọng
trong việc triển khai ứng dụng những mẫu máy mới.
• Hỗ trợ từ phía Chính phủ, đặc biệt là giảm lãi vay cũng là một yếu tố tác
động đến sự phát
triển máy sấy.
• Thu hoạch vào mùa khô, hiện tại cũng nhiều nơi sấy bằng máy được phổ biến chiếm 30-
90 % như tại huyện Giồng-Riềng, tỉnh Kiên-Giang, huyện Kế-Sách và Mỹ-Tú, tỉnh
Sóc-Trăng, huyện Gò-Công và Chợ-Gạo, tỉnh Tiền-Giang… Nông dân chỉ bán lúa tươi.
82

• Dự án Danida ở Cần Thơ và Sóc Trăng năm 2001-2006, và Hợp phần sau thu hoạch cho
ĐBSCL đã làm tốt việc khuyến nông máy sấy đến nhiều người trong lĩnh vực lúa gạo, với
một tổ chức và phương tiện khá đầy đủ. Khuyến nông vốn là yếu tố hạn chế phổ biến
máy sấy vào những năm 1990, đến những năm 2000 đã đóng vai trò tích cực. Nếu nông
dân vẫn chưa chấp nhận máy sấy, cần xét các yếu tố khác.
Những vấn đề được giải quyết từ năm 2007:
Những dữ liệu và phân tích trên làm nhận ra một vấn đề quan trọng nhất trong khâu sấy tại
các tỉnh, đó là sự mất cân đối giữa chi phí sấy và lợi ích từ khâu sấy
.
Trong khi chi phí sấy khá rõ ràng, thì lợi ích từ sấy lại không cụ thể. Gạo chất lượng tốt hơn
nhờ sấy máy có thể không được các thương lái mua với giá cao hơn để bù lại chi phí sấy. Một
số lý do khác là:

 Lúa sấy không đảm bảo chất lượng do sấy không đúng kỹ thuật.
 Ngay cả sấy đúng kỹ thuật nhưng lúa sấy cũng không đảm bảo chất lượng do nông dân
ch
ỉ đem lúa đến sấy khi đã bị lên một sau một vài ngày mưa.
 Lúa sấy đạt chất lượng tốt được trộn với lúa phơi nắng khi đổ lẫn với nhau trong cùng
phương tiện vận chuyển.
 Chất lượng lúa sấy bằng máy không được coi trọng trên thị trường. Một vài phần trăm
thu hồi gạo nguyên chưa đủ để có thể bán giá lúa cao hơn để bù lại chi phí sấ
y.
 Ngay cả trường hợp giá lúa sấy cao hơn, nhưng lợi ích cũng không thuộc về nông dân
trồng lúa bởi vì chủ máy xay xát sẽ hưởng phần thu hồi gạo nguyên cao hơn. Nông dân là
chủ hạt lúa, trong khi chủ máy xay xát và thương lái là chủ hạt gạo trắng !
Do đó, vấn đề sấy trong năm 2007 sẽ khác năm 1997 vì không còn là vấn đề tổn thất số lượng
mà là tổn thất về chất lượng sau thu hoạch.
Đề
xuất các biện pháp cho vấn đề sấy từ năm 2007:
Từ các dữ liệu và phân tích trên, có thể đề xuất 3 cụm biện pháp sau:
a) Công nghệ: Cần cải tiến thiết kế máy sấy để bảo đảm chất lượng xét theo độ nứt hạt và
gạo nguyên, và bớt phụ thuộc vào lao động thủ công. Điều này không dễ dàng với ràng
buộc về chi phí sấy. Chủ đề của chươ
ng trình CARD có thể sắp xếp theo yêu cầu này.
b) Khuyến nông: Theo yêu cầu “mới” về nhận thức chất lượng lúa gạo, các hoạt động khuyến
nông nên theo hướng sử dụng máy sấy để đạt chất lượng, chứ không phải giảm hao hụt về số
lượng. Không phải chỉ trình diễn máy sấy để giảm hư hại hạt, mà trình diễn sấy sao cho xay
xát nhiều gạo nguyên hơn và ít độ nứ
t hơn. Nói cách khác, nông dân không chỉ thấy hạt
lúa sấy khô, mà còn thấy hạt gạo nguyên. Vì vậy, những máy sấy đơn lẻ sẽ khó tồn tại từ
2007 vế sau.
c) Chính sách: Các yếu tố trên (công nghệ và khuyến nông) chỉ là điều kiện cần nhưng chưa
đủ. Từ cuối xâu chuỗi, thị trường gạo chất lượng cao phải được xác lập, với giá cả phân

biệt rõ rệt. Tiếp theo, l
ợi ích từ giá gạo cao phải được phân bố tương xứng cho cả nông
dân và nhà chế biến/ doanh nghiệp. Chính sách có thể tác động vào các việc này thông
qua các biện pháp tài chính.
Chính sách ảnh hưởng đến toàn hệ thống lúa gạo thì phức tạp và không phải chỉ vài tháng là
có được. Nhưng liên quan đến chương trình CARD, cần thiết lập tại một số tỉnh vài mô hình
trình diễn đồng bộ từ cung cấp nguyên liệu đến sấy đến xay xát, với sự tham gia c
ủa nông
dân.
83

KẾT LUẬN
 Theo dõi việc lắp đặt và tiến hành thí nghiệm với máy sấy vỉ ngang 8 tấn đảo gió ở Kiên
Giang và Cần Thơ, khảo nghiệm và phân tích về độ nứt vỡ hạt trong điều kiện sản xuất thực
tế. Thí nghiệm trên hai máy sấy 20 kg/mẻ trong phòng thí nghiệm để khảo nghiệm theo
cặp: có và không đảo gió và hai ẩm độ cuối. Trong cả hai chế độ, đảo gió làm giả
m sai biệt
ẩm độ cuối nhưng thời gian sấy không giảm. Tác động của đảo gió đến tỉ lệ thu hồi gạo
nguyên và hạt nứt không nhất quát và liên quan đến các tương tác với ẩm độ cuối và có thể
là với các yếu tố khác chưa được khảo sát.
 Theo dõi đặc tính sấy của một máy sấy tháp lắp đặt tại Long An với bộ thu năng lượng mặt
trời cho kết qu
ả chất lượng hạt tốt và kinh tế.
 Khảo sát nhanh về hiện trạng sử dụng máy sấy vỉ ngang tại 7 tỉnh. Các kết luận chính
gồm: Khuynh hướng tăng năng suất sấy; vai trò của nhà sản xuất và cán bộ khuyến nông
địa phương ; sự hỗ trợ của Nhà nước với việc giảm lãi suất vay làm máy sấy; và sấy máy
trong vụ Đông Xuân.

Một đề nghị chính: C
ần nghiên cứu tích hợp máy sấy trong toàn bô dây chuyền hệ thống lúa

gạo, để ích lợi của sấy máy được phản ảnh qua sự gia tăng lợi tức của nông dân, với sự tham gia
tích cực của họ, như phân tích ở trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ASABE. 2005. Standards ASAE S248.3 MAR1976 (R2005): Construction and Rating of
Equipment for Drying Farm Crops
- Brooker D.B., F.W. Bakker-Arkema, C.W. Hall. 1992. Drying and storage of grains and
oilseeds, AVI Publ. Van Nostrand Reinhold, New York.
- Kamaruddin A. 2003. Fish drying using solar energy. Proceedings of the Regional
Seminar and Workshop on Drying Technology. ASEAN Sub Committee on Non-
Conventional Energy Research.
- Ministry of Agriculture-Rural Development, and Danida ASPS. 2004. Study on the
current status and need assessment for post-harvest equipment in the Mekong Delta
(Compiled from Reports and 12 Provinces). Internal Report (in Vietnamese)
- Phan Hieu Hien. 1987. Grain dryer for the summer-autumn crop in Southern Vietnam.
Journal of Agricultural Science and Technology (In Vietnamese), No 6-1987, Ministry of
Agriculture, Ha-Noi.
- Phan Hieu Hien. 1998. Grain dryers and rice quality in the Mekong Delta of Viet Nam:
Development process and perspective (In Vietnamese).
Paper presented at the 15
th

Science and Technology Conference of the Mekong Delta , Ca Mau City 24 & 25 –9 –
1998.
- Phan Hieu Hien, Nguyen Hung Tam, Nguyen Van Xuan. 2003. The reversible air dryer
SRA: One step to increase the mechanization of post-harvest operations. Proceedings of
the International Conference on Crop Harvesting and Processing, 9-11 February 2003
(Louisville, Kentucky USA) ASAE Publication Number 701P1103e.
- Phan Hieu Hien. 2006, 2007, 2008. Flat-bed dryer Sub-Component Reports to CARD
Project. Nong-Lam University (unpublished),

- Phan Hieu Hien, Le Quang Vinh, Tran Thi Thanh Thuy. 2007. The Solar Macaroni
Dryer. Proceedings of the International Conference on Crop Harvesting and Processing,
11-14 February 2007 (Louisville, Kentucky USA). ASABE Publication Number
701P0307e
- RNAM (Regional Network for Agricultural Machinery. 1991. RNAM Test codes and
procedures for farm machinery: Part 16 (Batch Dryer).
88

Phụ lục 2B
Ảnh hưởng của chế độ sấy tầng sôi ủ ở nhiệt độ cao đến hiện
tượng nứt gãy và chất lượng gạo
THÁNG 04- 2010
Tóm tắt
Nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng của chế độ sấy tầng sôi và ủ ở nhiệt độ cao đến chất lượng
được thực hiện trên hai giống gạo Việt Nam là A10 (30-33% cơ sở ướt) và OM2717 (25-26%
cơ sở ướt). Lúa tươi được sấy tầng sôi ở nhiệt độ 80 và 90
o
C trong 2.5 và 3.0 phút, sau đó ủ
ở 75
o
C và 86
o
C trong khoảng 1 giờ và tiếp tục được sấy nhẹ 35 xuống ẩm độ 14%. Tỉ lệ thu
hồi gạo nguyên cải thiện đáng kể khi thời gian ủ kéo dài đến 40 phút. Tỉ lệ thu hồi gạo
nguyên tăng với tỉ lệ hạt nứt gãy giảm. Độ cứng và độ chặt của hạt gạo nguyên (lần lượt là
30-55N và 162-168 N/mm) cao hơn gạo sấy bằng phương pháp truyền thống (sấ
y lớp mỏng ở
35
o
C). Độ trắng của gạo sau xát bị ảnh hưởng nhẹ bởi chế độ sấy nhiệt độ cao.


GIỚI THIỆU
Ngành sản xuất lúa gạo ở Việt Nam rất quan tâm đến chất lượng lúa gạo, đặc biệt trong mùa
mưa khi ẩm độ hạt sau gặt có thể cao đến 35% cơ sở ướt [1]. Do đó, lúa cần được sấy càng
nhanh càng tốt để ngăn chặn sự hư
hỏng và bảo tồn chất lượng hạt. Phương pháp sấy tĩnh có
thể tiêu tốn đến 8 giờ hay nhiều hơn để hạ ẩm độ của khối hạt đến độ ẩm an toàn cho công tác
bảo quản (14% cơ sở ướt). Là một hệ thống sấy mẻ chậm, máy sấy tĩnh không thể sấy một
khối lượng lớn lúa trong một khoảng thời gian ngắn. Sấ
y hạt ở nhiệt độ cao cho phép quá
trình sấy diễn ra nhanh hơn, do đó có thể làm giảm thời gian sấy và diện tích mặt bằng. Tuy
nhiên, sấy ở nhiệt cao tạo gradient ẩm trong hạt làm cho hạt có thể bị nứt vỡ do ứng suất tác
động, vì vậy hạt cần được ủ để cân bằng ẩm [2, 3, 4]. Máy sấy tầng sôi tích hợp với hệ thống
ủ có thể được sử dụng như m
ột máy sấy gọn. Sấy tầng sôi nhiệt độ cao là một trong những
biện pháp hữu hiệu để làm giảm ẩm độ của khối hạt một cách nhanh chóng, vốn rất dễ hư
hỏng trong điều kiện thời tiết ẩm ướt của khí hậu nhiệt đới [5, 6, 7]. Với kỹ thuật sấy tầng sôi,
tác nhân sấy là dòng khí nóng đi qua lớp hạt theo chiều từ dưới lên làm hạt chuy
ển động
mãnh liệt và hỗn độn. Nhờ đó, ẩm trên bề mặt hạt nhanh chóng thoát ra nhờ tiếp xúc bề mặt
lớn giữa các hạt rời chuyển động hỗn độn trong dòng tác nhân sấy chảy rối. Ẩm độ đầu ra của
hạt vì thế cũng đồng đều. Sấy tầng sôi nhiệt độ cao thường được ứng dụng để sấy khối hạt
trong giai đoạ
n đầu, khi cần hạ ẩm độ khối hạt xuống 18% cơ sở ướt hay ít hơn. Sau đó có thể
tiếp tục sấy bảo quản hay sấy tĩnh khối hạt.

Các báo cáo trước đây cho biết có thể sử dụng kỹ thuật sấy tầng sôi ở nhiệt độ cao (hơn 100
o
C) [8, 9]. Tuy nhiên, nhiệt độ sấy không nên vượt quá 150
o

C để tránh ảnh hưởng của quá
trình sấy đến độ trắng của gạo. Khoảng nhiệt độ sấy thấp (40-90
o
C) cũng được Sutherland và
Ghaly [7], Tirawanichakul và ctv [8] sử dụng để sấy hạt. Theo các tác giả này, có thể sử dụng
nhiệt độ sấy cao hơn 80
o
C miễn là ẩm độ đầu ra của khối hạt sau sấy tầng sôi trên 18% cơ sở
ướt. Tuy vậy, có thể xảy ra hiện tượng hồ hóa riêng phần do sự kết hợp giữa nhiệt độ cao
trong quá trình sấy và tự thân ẩm độ cao của hạt. Tỉ lệ thu hồi của gạo nguyên có thể được
bảo toàn như mẫu đối chứng sấy ở chế độ dịu nhẹ khi nhi
ệt độ sấy dưới 70
o
C. Đó là do
gradient ẩm chưa đủ lớn để gây ra sự nứt hạt [8]. Hạt nên được ủ trong khoảng thời gian 25-
30 phút nếu sử dụng nhiệt độ cao trong sấy tầng sôi [9, 10] theo đề nghị của một số nhà
nghiên cứu. Bên cạnh đó, độ trắng và tỉ lệ thu hồi gạo nguyên cũng cao hơn nếu hạt được thổi
khí sau mỗi giai đoạn ủ. Thao tác này còn cho hiệu suất sấy cao và làm gi
ảm năng lượng tiêu
tốn [10].
Khả năng và hiệu quả của sấy hạt bằng kỹ thuật sấy tầng sôi đã được trình bày trong nhiều
nghiên cứu, tuy nhiên có rất ít thông tin về tác động của sấy tầng sôi và ủ nhiệt độ cao đến sự

×