Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

BÀI TIỂU LUẬN MÔN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, Đề tài MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.89 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
-----  -----

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA

Đề tài: MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

Học viên:
Lớp:
Khóa học:
Hệ đào tạo:
Địa điểm:


HÀ NỘI, tháng 6 năm 2022
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

PHẦN NỘI DUNG

3

1. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay



3

1.1. Khái quát về hệ thống chính trị

3

1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị

3

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị

3

1.1.3. Cấu trúc của hệ thống chính trị

4

1.2. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay

5

1.2.1. Các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam

5

1.2.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các thành tố trong hệ thống
chính


trị

Việt

Nam

6
1.3. Mối quan hệ trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
10

2. Mối quan hệ giữa Nhà nước với mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam
12
2.1. Mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam
2


12

12
2.2. Những hoạt động chủ yếu thể hiện mối quan hệ giữa Nhà
nước với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong
hệ

thống

chính


trị

Việt

Nam

15
3. Những tồn tại, hạn chế trong mối quan hệ giữa Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam

15

3.1. Những tồn tại, hạn chế

15

3.2.

Nguyên

nhân

của

tồn

tại,

hạn


chế

21

2121
4. Một số giải pháp nhằm tăng cường, phát huy mối quan hệ giữa
Nhà nước và Mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam

22

PHẦN KẾT LUẬN

25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

27

3


PHẦN MỞ ĐẦU
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là tổng thể các thiết chế chính trị,
chính trị-xã hội được thành lập, hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai trò
lãnh đạo thuộc về đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm thực
hiện triệt để quyền lực nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa bao gồm: đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ
nghĩa, các tổ chức chính trị xã hội và các đồn thể quần chúng khác.
Xây dựng hệ thống chính trị là nhằm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của

hệ thống chính trị nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng hệ thống chính trị phải gắn liền với
xây dựng chính quyền nhân dân, đây được coi là một tất yếu của sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, dựa trên nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh “Lấy dân làm gốc”. Thể chế chính trị của nước ta được tuân theo
nguyên tắc, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây được coi là
cơ chế chung trong quản lý xã hội nhằm khẳng định bản chất của Nhà nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là nền tảng
chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc là ngôi nhà chung của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; tập hợp, vận động các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các
tôn giáo, thành phần kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tuyên truyền
sâu rộng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hướng
tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, trên thực tế, vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói
chung và mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội nói riêng chưa được đánh giá đúng và đầy đủ, từ đó dẫn đến những
hạn chế trong việc xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Mặt khác, với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, thì việc tăng
1


cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã và đang trở thành nhiệm
vụ thường xuyên, quan trọng, cấp bách hàng đầu của tồn Đảng, tồn dân ta.
Qua q trình nghiên cứu, tiếp thu, học tập bản thân chọn đề tài “Mối quan hệ
giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội trong hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm bài tiểu luận của mình. Bài

viết khơng tránh những sai sót, rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của quý
thầy cô.

2


PHÂN NỘI DUNG
1. Khái quát về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị Việ Nam hiện
nay
1.1. Khái quát về hệ thống chính trị
1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị
Chính trị hiểu theo nghĩa chung nhất là một lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ giữa các chủ thể trong
đời sống xã hội liên quan đến việc nhận diện và giải quyết các vấn đề chung của
toàn xã hội, nhất là những vấn đề có tính tranh chấp, xung đột mang tính phổ
biến trong các mối quan hệ xã hội. Để có thể giải quyết được các vấn đề trên,
một quyền lực chung được thiết lập có sức mạnh cưỡng chế nhằm duy trì trật tự,
hịa bình và công lý trong xã hội, đảm bảo các quyền, tự do của công dân. Nhà
nước được tổ chức để thực thi quyền lực này. Do vậy, quyền lực nhà nước có
nguồn gốc từ Nhân dân.
Trong các xã hội có giai cấp, các giai cấp tùy vào khả năng và tương quan
lực lượng của mình đều tìm cách để giành quyền lực nhà nước để hiện thực hóa
lợi ích của giai cấp mình, trên cơ sở và nhân danh thực hiện mục tiêu chung của
xã hội. Chính vì vậy, ở cách tiếp cận này, chính trị được khái quát là quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà
nước.
Từ đó có thể hiểu, hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị
hợp pháp trong xã hội, bao gồm các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống cấu trúc, chức năng
với các cơ chế vận hành và mối quan hệ giữa chúng nhằm thực thi quyền lực

chính trị.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị
Trong xã hội có giai cấp, các chủ thể chính trị được liên kết với nhau
trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã
hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai
3


cấp cầm quyền, đồng thời thực hiện lợi ích của các chủ thể khác ở mức độ nhất
định.
- Tính quyền lực: Hệ thống chính trị của bất kỳ chế độ, xã hội nào cũng là
hệ thống tổ chức phân bổ và thực thi quyền lực chính trị của các chủ thể, lực
lượng trong xã hội. Chẳng hạn, bên cạnh chủ thể nắm giữ và thực thi quyền lực
nhà nước, còn có các chủ thể khác tham gia, tác động đến việc thực thi quyền
lực nhà nước theo những cách thức nhất định, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
của mình trong xã hội.
- Tính vượt trội: Hệ thống chính trị được xác lập và hoạt động theo các
thể chế, luật lệ và cơ chế nhằm tạo ra sức mạnh, tính vượt trội của hệ thống.
Theo đó, những tương tác có hại làm triệt tiêu động lực và kết quả hoạt động của
nhau sẽ bị hạn chế, ngăn chặn, đồng thời cho phép và khuyến khích những
tương tác mang tính hỗ trợ, hợp tác nhằm đạt được kết quả tốt nhất cho các bên
và cho xã hội.
1.1.3. Cấu trúc của hệ thống chính trị
- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị (hợp pháp) thực
thi những chức năng nhất định trong xã hội, gồm có:
+ Đảng chính trị: Đảng cầm quyền là lực lượng chủ yếu thực thi quyền
lực nhà nước, quyết định chính sách quốc gia. Các đảng khác (trong mơ hình hệ
thống chính trị có nhiều đảng) đóng vai trị hợp tác, tham gia phản biện, giám
sát, kể cả tìm cách hạn chế, ngăn cản hoạt động của đảng cầm quyền nhằm bảo
vệ lợi ích của đảng mình.

+ Nhà nước: được cấu thành bởi 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Ba cơ quan này thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước khác
với quyền lực của các tổ chức chính trị khác ở tính “độc quyền cưỡng chế hợp
pháp”.
+ Các tổ chức chính trị - xã hội: là những tổ chức của công dân được lập
ra nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, có thể tác động đến việc thực hiện
quyền lực của Đảng cầm quyền, Nhà nước để bảo vệ lợi ích của tổ chức mình và
lợi ích của các thành viên. Mức độ sự tác động này phụ thuộc vào vị trí, khả
4


năng, nguồn lực của tổ chức đó trong xã hội.
- Sự tương tác của các thể chế chính trị
Sự tương tác của các thể chế chính trị theo các cơ chế và mối quan hệ đã
được xác lập, chủ yếu trên cơ sở của luật pháp. Theo đó, các tổ chức này có sự
liên kết tương hỗ, hỗ trợ hoặc đối trọng, ngăn cản nhau trong các quá trình nhất
định nhằm thực thi quyền lực chính trị, đạt được mục đích chung của hệ thống
và xã hội cũng như lợi ích của các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị.
Chẳng hạn, trong hệ thống chính trị, các đảng chính trị thường đề ra
cương lĩnh, mục tiêu, đường lối phát triển đất nước để vận động, thuyết
phục Nhân dân ủng hộ, bỏ phiếu nhằm giành được đủ phiếu bầu trở thành đảng
cầm quyền hoặc đảng đối lập có vị trí trong bộ máy nhà nước.
Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng cầm quyền sẽ thể chế hóa cương
lĩnh, mục tiêu, đường lối chính trị của đảng thành luật pháp, chương trình, dự án,
chính sách và tổ chức thực hiện. Các đảng đối lập và các tổ chức chính trị - xã
hội, phương tiện truyền thơng có thể tham gia vào q trình này để giám sát,
phản biện chính sách của đảng cầm quyền tùy theo vị trí, nguồn lực mà họ có,
nhằm làm tăng tính cẩn trọng, hợp lý của chính sách được ban hành hoặc phản
đối, ngăn cản chính sách nhằm bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người dân và
xã hội theo quan điểm của họ.

1.2. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
1.2.1. Các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam gồm có:
- Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội gồm có:
Cơng đồn Việt Nam, Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một
tổ chức thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội,
5


là hạt nhân của hệ thống chính trị; Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị.
Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ Nghị
quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1989).
Việc chuyển từ “hệ thống chun chính vơ sản” sang “hệ thống chính trị” có ý
nghĩa nhấn mạnh đến sự tương tác, hợp tác của các chủ thể trong đời sống chính
trị - xã hội, nhằm tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và khả năng thích
nghi của hệ thống với những thay đổi của mơi trường xã hội.
1.2.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các thành tố trong hệ thống
chính trị Việt Nam
* Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp cơng nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, đồng thời là hạt
nhân lãnh đạo của tồn bộ hệ thống chính trị.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Chức năng lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, chủ trương phát triển

kinh tế, xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương
lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng tổ chức, thực hiện tuyên truyền, thuyết phục, vận động các tổ chức
và xã hội ủng hộ, thực hiện đường lối, chủ chương của Đảng.
Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới
thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong
các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo thơng qua tổ chức
đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh
đạo thơng qua việc thực hiện, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu
của đảng viên.
* Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
6


xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước là trụ cột
của hệ thống chính trị Việt Nam. Nhà nước gồm các có các cơ quan trung ương
như Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính
quyền địa phương.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Quốc hội được tồn thể Nhân dân bầu ra theo hình thức phổ thông đầu
phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước,
Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc
hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tồ án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán
nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề

nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và
thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao; phê chuẩn
danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và an ninh, Hội đồng Bầu cử quốc
gia.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu
trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo cơng tác
trước Quốc hội.
Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành
của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác
7


trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ gồm Thủ tướng chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên chính
phủ do Quốc hội quyết định.
Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra là người đứng đầu Chính phủ.
Chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hoạt động của Chính phủ và những nhiệm
vụ được giao.
Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp, “tổ chức thi hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”, thống nhất quản lý về các lĩnh
vực, ngành và nền hành chính quốc gia.
Tịa án nhân dân là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp. Tòa án

gồm Tòa án nhân dân được thành lập từ cấp trung ương đến cấp huyện và các
tòa án khác do luật định.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân
theo pháp luật. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; thực hiện chế
độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Cấp chính
quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức
phù hợp với đặc điểm nơng thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt theo luật định.
- “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
8


nước cấp trên”. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là 05 năm.
Hội đồng nhân dân có hai chức năng cơ bản là: (1) quyết định các vấn đề
của địa phương do luật định; (2) giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
- “Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên”.
Ủy ban nhân dân có 3 chức năng chính: (1) Tổ chức việc thi hành Hiến

pháp và pháp luật ở địa phương; (2) Tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng
nhân dân; (3) Thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có tên gọi ban đầu
là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18/11/1930.
Từ khi được thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cùng trải
qua các thời kỳ hoạt động cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận là
tổ chức tập hợp, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc của
Việt Nam - một nhân tố quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Kế tục và phát huy vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt
Nam các thời kỳ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục đại diện cho
lợi ích, tiếng nói rộng rãi của các nhóm xã hội, các giai cấp, tầng lớp nhân dân,
tạo sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, huy động nguồn lực, sức mạnh của toàn thể
nhân dân vào xây dựng đảng, chính quyền, xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
9


minh.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành
viên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trị tập hợp, thu hút các tầng lớp Nhân
dân, các tổ chức chính trị - xã hội; tuyên truyền động viên Nhân dân phát huy

quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật; phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị của Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng
và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà
nước chăm lo, bảo vệ quyền với lợi ích chính đáng của Nhân dân; tham gia phát
triển tình hữu nghị, hợp tác giữa Nhân dân Việt Nam với Nhân dân các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: “Cơng đồn Việt Nam, Hội Nơng
dân Việt Nam, Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thành lập trên cơ sở tự nguyện,
đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên,
tổ chức của mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và
thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của hệ
thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng,
tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, nơi
hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Ðảng Cộng
sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận.
1.3. Mối quan hệ trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Các quan hệ trong hệ thống chính trị Việt Nam, các quan hệ chính trị được
xác lập theo một cơ chế chủ đạo là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ.
10


Tồn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đồn thể chính trị - xã hội của Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện

vai trò, chức năng lãnh đạo đối với toàn xã hội, nhằm phát huy và thực hiện
quyền làm chủ của Nhân dân.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Quyền lực của Nhà nước là quyền lực của Nhân
dân giao cho để phục vụ Nhân dân. Nhà nước thể chế hóa đường lối, mục tiêu,
chủ trương lãnh đạo của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước và tổ
chức thực hiện.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi ích
rộng rãi của các giai cấp, tầng lớp xã hội, của toàn thể Nhân dân lao động và yêu
nước Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuỳ theo tính chất, tơn chỉ và mục đích đã
được xác định, các tổ chức vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành
luật pháp, chính sách; đồng thời chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đồn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ
về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Mọi hành vi lợi dụng dân chủ, lợi dụng quyền lập hội để chống phá Đảng,
chính quyền nhân dân, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân và dân tộc đều vi phạm
pháp luật Việt Nam và bị xử lý theo pháp luật.
Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền địa phương tơn trọng tính tự chủ,
tự nguyện, ủng hộ và tạo mọi điều kiện để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã
hội hoạt động tích cực, sáng tạo đóng góp cho Đảng, chính quyền và đất nước,
mang lại lợi ích cho Nhân dân. Đảng, chính quyền lắng nghe ý kiến đóng góp
của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính
sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động có
hiệu quả, thực hiện vai trị giám sát và phản biện xã hội.
Trong hệ thống chính trị, các bộ phận cấu thành đều có chung một mục
11



đích là duy trì và đại diện cho quyền lực và lợi ích của giai cấp và dân tộc. Cả hệ
thống chính trị Việt Nam đều có chung một mục tiêu là phấn đấu vì một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo
hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Mặt trận và các
đồn thể chính trị - xã hội góp phần quan trọng trong việc thực hiện cương lĩnh,
mục tiêu, phương hướng chính trị của Đảng cầm quyền và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội góp phần bảo đảm sức mạnh
của hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể quyết định việc tập hợp
lực lượng nhân dân, tổ chức các phong trào nhân dân và xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc.
Cơ chế và các nguyên tắc vận hành
Hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo những ngun tắc phổ biến
của hệ thống chính trị nói chung như: nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân; nguyên tắc ủy quyền có điều kiện và có thời hạn; ngun tắc pháp
quyền. Ngồi ra hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo những nguyên tắc
riêng như: tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nguyên tắc
quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, khơng phân chia, nhưng có sự phân
cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
2. Mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam
2.1. Mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam
Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là hai tổ chức cùng nằm trong hệ thống
chính trị. Tuy có vị trí và vai trị khác nhau, nhưng cùng chung một mục tiêu,
một điểm tương đồng đó là vì lợi ích của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân.

12


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện rộng rãi nhất của các tổ chức và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp,
các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, các thành phần kinh tế và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài. Do đặc điểm này mà Mặt trận Tổ quốc có những
điều kiện để phối hợp với Nhà nước tập hợp, vận động đông đảo các tầng lớp
nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp tham gia xây dựng, củng cố và giữ vững
chính quyền.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cịn là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Mặt trận giới thiệu những người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện để quần
chúng nhân dân bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, vận động nhân
dân tham gia xây dựng pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại
biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước.
Theo quan điểm của Đảng ta, cải cách bộ máy nhà nước còn bao hàm một
nội dung quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ nhà nước, nhà nước dựa vào
Mặt trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của
nhân dân. Đó cũng chính là sức mạnh của bản thân nhà nước. Trong quá trình ra
quyết định và quản lý, điều hành, Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Chính phủ và
Uỷ ban nhân dân các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các
đoàn thể. Nhà nước cần có quy chế tổ chức và cơ chế hoạt động giải quyết tốt
mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận và thực tiễn
cách mạng nước ta. Đảng là một thành viên của Mặt trận nhưng với tư cách là
thành viên giữ vai trị lãnh đạo, thơng qua Mặt trận để tập hợp các lực lượng
quần chúng nhân dân tự nguyện theo Đảng làm cách mạng. Trong sự nghiệp

xây dựng và phát triển đất nước hiện nay quan điểm của Đảng là phải phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn
với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
13


Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở các
cấp, các ngành để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.
Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013 đã xác định rõ tính chất, nội dung, quan hệ,
quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt
trận, đây là cơ sở cụ thể hoá thành các quy định của pháp luật.
Thể chế hoá Hiến pháp, nhiều đạo luật đã quy định cụ thể mối quan hệ
giữa Nhà nước với Mặt trận, giữa Uỷ ban Mặt trận với cơ quan Nhà nước trên
các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại nhân dân, trong
cơng tác tuyên truyền, vận động nhân dân, công tác tập hợp, xây dựng khối đại
đồn kết tồn dân tộc… điển hình trong việc thể chế Hiến pháp là Nhà nước đã
ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó quy định cụ thể nguyên tắc
của mối quan hệ, hình thức của mối quan hệ.
Quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc là quan hệ phối hợp để thực
hiện nhiệm vụ chính trị, quyền hạn theo quy định của pháp luật, trên cơ sở quy
chế phối hợp công tác do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan Nhà
nước hữu quan ở từng cấp ban hành. Đây là phương thức thể hiện quan hệ phối
hợp giữa Mặt trận và Nhà nước ở mỗi cấp hành chính.
Ở Trung ương, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp
với Quốc Hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thông qua quy chế phối hợp cơng tác giữa Đồn Chủ tịch với
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, giữa Đoàn Chủ tịch với lãnh đạo Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao. Ban Thường trực ký quy chế

phối hợp công tác với lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ.
Ở địa phương, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ký quy chế với Uỷ ban nhân dân,
Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ban Thường trực ký quy chế phối hợp công tác
với lãnh đạo các sở, ngành cùng cấp.
Nguyên tắc của mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước là quan hệ phối
hợp để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bên tham gia theo
14


quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc của sự phối hợp là bình đẳng,
hợp tác, tạo điều kiện để mỗi bên thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình. Sở dĩ
Nhà nước phải phối hợp với Mặt trận vì bản chất nhà nước ta là nhà nước của
dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà
nước có chức năng quản lý toàn bộ đất nước. Mặt trận là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đại diện
cho quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân. Nhà nước và Mặt trận
đều do Đảng lãnh đạo. Tuỳ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm có
khác nhau nhưng đều là công cụ của nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện các quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về quan hệ
phối hợp công tác, đến nay tất cả các tỉnh, thành phố, các quận, huyện, xã,
phường, thị trấn trong cả nước đều đã xây dựng và ban hành quy chế phối hợp
công tác ở mỗi cấp. Sự phối hợp công tác giữa Mặt trận với Nhà nước đã đi vào
nề nếp theo quy định của pháp luật.
2.2. Những hoạt động chủ yếu thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
Việt Nam
- Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
- Phối hợp vận động nhân dân tham gia giám sát thực hiện Quy chế dân

chủ ở cơ sở.
- Phối hợp vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, phối hợp
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân.
- Phối hợp vận động nhân dân tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn
Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân.
- Phối hợp vận động nhân dân đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi
phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp, kiểm sát, giám sát các hoạt động tư
pháp, tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn Kiểm sát viên.
3. Những tồn tại, hạn chế trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt
15


trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt
Nam
3.1. Những tồn tại, hạn chế
- Còn một bộ phận nhân dân chưa thực sự quan tâm đúng mức đến công tác
tham gia xây dựng chính quyền. Có nhiều hội nghị cử tri rất ít cử tri tham dự hoặc
có tham dự cũng chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ, chưa thẳng thắn góp ý cho các
ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Việc tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử (Hội đồng bầu cử, Uỷ ban
bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử) của Mặt trận tổ quốc cũng cịn mang tính hình
thức và chưa được chính quyền một số địa phương tơn trọng thực hiện. Về
nguyên tắc và theo hướng dẫn của Trung ương, các tổ chức thành viên của Mặt
trận như: Cơng đồn, Hội Nơng dân, Hội Phụ nữ, Đồn thanh niên… phải là
những cơ cấu bắt buộc trong các tổ chức phụ trách bầu cử. Tuy vậy, ở một số
địa phương đã không làm đúng theo hướng dẫn của Trung ương, đã tự ý bớt cơ
cấu các đoàn thể và thay vào đó là đại diện các cơ quan nhà nước.
- Việc tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri cũng còn nhiều bất cập. Hầu hết
thành phần cử tri tham dự các cuộc tiếp xúc là cử tri đại diện cho các cơ quan, tổ
chức, đoàn thể ở cơ sở. Mặt khác, số lượng các cuộc tiếp xúc cử tri ở một số địa

phương cịn ít; một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tại mỗi đơn vị bầu
cử việc tổ chức các cuộc tiếp xúc chưa đủ so với mức tối thiểu theo hướng dẫn
của Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Một số
nơi có hiện tượng tranh cử thiếu bình đẳng của một số người ứng cử nhưng địa
phương còn lúng túng và bị động trong việc xử lý vì thiếu chế tài cụ thể. Ở một
số nơi, nhất là những xã, phường, thị trấn có tình hình phức tạp trong việc thực
hiện chính sách đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, mất đồn kết nội bộ, có
tham nhũng, tiêu cực, mất dân chủ và những nơi có khiếu kiện kéo dài khơng
được giải quyết dứt điểm thì tại các hội nghị tiếp xúc, ý kiến cử tri rất gay gắt,
căng thẳng…
- Công tác giám sát bầu cử cũng cịn hình thức và kết quả chưa cao.
Ngồi việc giám sát cơ quan nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về bầu
16


cử, Mặt trận Tổ quốc còn phải vận động nhân dân tự giác tham gia bầu cử để
thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định
pháp luật về bầu cử. Tuy nhiên, trong một số cuộc bầu cử vừa qua, tình trạng
cử tri bầu hộ, bầu thay cịn rất phổ biến nhưng ít được phát hiện, ngăn chặn
kịp thời.
- Việc tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú đối
với người ứng cử cũng có một số khó khăn, hạn chế nhất định. Một số nơi, hội
nghị được tổ chức chưa thực sự chu đáo, chất lượng của hội nghị chưa cao.
Mặt khác, do các văn bản hiện hành khơng có hướng dẫn cụ thể về việc hỗ trợ
kinh phí cho các hội nghị cử tri nơi cư trú nên việc thực hiện không thống nhất.
Trong cùng một khu dân cư, người do cơ quan, tổ chức ở Trung ương giới
thiệu thì được hỗ trợ một phần kinh phí tổ chức hội nghị, người do cơ quan, tổ
chức ở địa phương giới thiệu hoặc người tự ứng cử thì nơi có, nơi khơng.
- Mặt trận Tổ quốc ở một số nơi còn tham gia chưa thường xuyên và chưa
chủ động phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện Quy chế dân chủ; cơng tác

tun truyền cịn chưa sâu; hoạt động giám sát cịn hình thức; việc lồng ghép các
cuộc vận động, các phong trào vào việc thực hiện Quy chế dân chủ có nơi cịn lúng
túng, chưa hiệu quả. Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư
cộng đồng ở một số nơi cịn mang tính hình thức.
- Do nhận thức về dân chủ còn hạn chế, chưa thấy hết được tầm quan
trọng, ý nghĩa sâu sắc, tính cấp bách và lâu dài của vấn đề dân chủ cũng như
phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung và thực hiện Quy chế dân chủ
nói riêng nên khơng ít cán bộ, đảng viên cịn có biểu hiện thiếu trách nhiệm
trong cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu gương mẫu trong việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở xã, phường, thị trấn; không nhận thức được tầm quan trọng của cuộc
vận động “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố ở khu dân cư”. Ở
nhiều nơi, các cấp uỷ Đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc cịn thiếu tập
trung, chỉ đạo về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ gắn với việc thực hiện
cuộc vận động; chỉ tập trung thực hiện trong thời gian đầu mới triển khai, sau đó
chưa được duy trì, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thường xuyên; một số nơi triển
17


khai thực hiện Quy chế nhưng chưa gắn kết một cách chặt chẽ, khoa học với
việc thực hiện các giải pháp quan trọng khác như: nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, cải cách hành chính, xây dựng hệ thống chính trị ở
cơ sở…Bên cạnh đó, trình độ dân trí của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, ý
thức làm chủ chưa được nâng cao, sự hiểu biết về dân chủ và pháp luật cịn chưa
đầy đủ; tư tưởng tự do, vơ tổ chức, bè cánh, dòng họ…còn khá nặng nề; năng
lực giám sát của nhân dân còn hạn chế nên nhiều người dân còn thờ ơ với việc
thực hiện Quy chế dân chủ hoặc chỉ quan tâm tới quyền lợi mà xem nhẹ trách
nhiệm, nghĩa vụ; thậm chí có địa phương cịn để xảy ra tình trạng một số phần tử
xấu đã lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật làm mất an ninh, trật tự xã hội.
- Ở một số nơi, việc thực hiện những nội dung trong Pháp lệnh dân chủ
thường khốn trắng cho chính quyền, cịn Mặt trận và Ban cơng tác Mặt trận tham
gia với tính chất hỗ trợ (như làm thư mời, vận động nhân dân tham gia hội nghị

cử tri, phát phiếu lấy ý kiến…), điều này chưa phù hợp với Pháp lệnh dân chủ vì
vai trị của Mặt trận Tổ quốc là phối hợp với chính quyền cùng cấp thực hiện,
đồng thời cũng là tiến hành giám sát chính quyền cùng cấp trong việc thực hiện
những nội dung đề ra trong Pháp lệnh. Cũng do tham gia với tính chất hỗ trợ, bị
động nên có lúc Mặt trận Tổ quốc chưa làm tốt chức năng giám sát, dẫn đến có
nơi chính quyền chưa cơng khai đầy đủ một số nội dung theo quy định về thu, chi
ngân sách, việc kê khai tài sản hoặc quyết định xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công
chức, quy hoạch sử dụng đất đai trên địa bàn…,hay việc tổ chức cho nhân dân
thảo luận, lấy ý kiến chỉ mang tính hình thức.
- Những quy định trong Hiến pháp và pháp luật về quyền làm chủ của
nhân dân đã có khơng ít, là đúng đắn và cụ thể nhưng lại thiếu những điều quy
định ràng buộc để thực hiện trên thực tế những quy định đó, dẫn đến tình trạng
tuỳ tiện và buông lỏng thực hiện. Trong Quốc hội và cơ quan dân cử các cấp tuy
có nhiều uỷ ban và ban chun mơn, nhưng chưa có bộ máy giám sát và xử lý
việc thực thi không nghiêm túc pháp luật, sắc lệnh và các nghị quyết của những
cơ quan này. Do không được đảm bảo về quyền làm chủ, một số quần chúng e
ngại, sợ bị thành kiến, trù úm, dẫn đến thờ ơ với việc làm chủ.
18


- Trình độ dân trí là một yếu tố quan trọng làm cho người dân có thể tìm
hiểu, bàn bạc, tổ chức hành động, kiểm tra, giám sát. Chủ trương, chính sách,
pháp luật tuy đã có nhiều nhưng cịn thiếu đồng bộ, nhiều khi bị sai lệch trong
hướng dẫn thực hiện. Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn yếu nên nhân
dân khơng thể bàn bạc để đóng góp ý kiến, để thi hành pháp luật, để phân biệt
đúng sai nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình và đấu tranh chống những sai
lệch trong xã hội.
Việc tổ chức các kênh chuyển tải thông tin từ trên xuống dưới, từ dưới lên
trên chưa thực hiện tốt. Do nhiều nguyên nhân về trình độ, hạn chế về kinh phí,
phương tiện vật chất kỹ thuật nên ảnh hưởng đến việc chuyển tải thông tin đến

nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Thông tin từ dưới lên, nhất là người dân
bình thường, nhiều khi ách tắc, chậm trễ, lưu chuyển loanh quanh, cịn có hiện
tượng né tránh, bưng bít, bị bỏ qua, nhất là những ý kiến đụng chạm đến một số
cán bộ có chức, có quyền ở địa phương. Lãnh đạo cấp trên thì rất muốn để “dân
biết, dân bàn, dân kiểm tra” nhưng tại một số địa phương, lãnh đạo cấp sát dân
thì lại có phần ngần ngại để thực hiện chủ trương đó. Tình trạng thơng tin bị
nhiễu loạn đang là vấn đề đáng lo ngại hiện nay đối với sự lãnh đạo cấp vĩ mô.
Cũng phải chỉ ra rằng, người dân thường được biết, được bàn nhiều về những
vấn đề thuộc về trách nhiệm và nghĩa vụ nhiều hơn là những vấn đề thuộc về
quyền lợi được hưởng thụ.
- Cơng tác giám sát gần đây có nhiều tiến bộ, tuy nhiên Mặt trận Tổ quốc
các cấp mới chỉ làm tốt công tác giám sát đại biểu dân cử và giám sát hoạt động
của chính quyền cơ sở thông qua các Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn.
Một mảng quan trọng là giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước thì cịn nhiều lúng túng, chủ yếu do thiếu cơ chế.
- Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào các dự án luật như Bộ Luật dân sự, Bộ
Luật hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Hơn nhân và Gia đình… cịn khá hình thức,
chưa thực sự phát huy được trí tuệ của đơng đảo các tầng lớp nhân dân.
- Cán bộ Mặt trận cịn ít am hiểu về pháp luật, kinh phí hạn hẹp nên các
cuộc tổ chức lấy ý kiến nhân dân chưa được sâu rộng, việc tập hợp ý kiến nhân
19


dân để phản ánh với cấp trên và với cơ quan có thẩm quyền của Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc các cấp nhìn chung là cịn yếu và khơng kịp thời.
- Công tác tuyên truyền, vận động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp
nhiều nơi còn hạn chế, mang tính hình thức, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc một số
nơi còn chưa thực sự chủ động, sáng tạo trong tun truyền, hình thức tun
truyền cịn đơn điệu, nội dung chưa sâu, nên hiệu quả chưa cao, chưa đủ sức hấp
dẫn để thu hút nhân dân. Một số nơi, việc phối hợp với các tổ chức thành viên

trong công tác tuyên truyền còn yếu. Do vậy, đòi hỏi phải có biện pháp khắc
phục trong thời gian tới.
- Hoạt động phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể ở cơ sở có nơi cũng chưa sát hợp với nhu cầu tìm hiểu
của nhân dân, chỉ tập trung giới thiệu, phổ biến các đạo luật, pháp lệnh mà chưa
chú ý đến việc phổ biến các văn bản dưới luật, nhất là các văn bản hướng dẫn thi
hành; chưa kết hợp được với việc phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy tính thiết thực, hướng
dẫn và hiệu quả chưa cao. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung cịn
nặng về tổ chức hội nghị, tập huấn, chưa khai thác một cách có hiệu quả các
hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác.
- Việc thi hành các quy định pháp luật về việc giới thiệu Hội thẩm nhân
dân các cấp (trừ việc giới thiệu Hội thẩm nhân dân tối cao) trong thực tiễn chưa
thật đầy đủ. Một số Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh đã cố gắng chủ động
trong việc lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn để làm Hội thẩm nhân dân. Tuy
nhiên có thể hầu hết các Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chưa chủ động trong vấn đề
này, nhất là Mặt trận Tổ quốc cấp huyện. Danh sách Hội thẩm nhân dân cấp
huyện chủ yếu do Toà án nhân dân cùng cấp lựa chọn, còn Mặt trận Tổ quốc
chưa chủ động tìm người.
- Sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc với các cơ quan Nhà nước cịn nhiều
hạn chế. Ngồi việc tham gia tích cực, có hiệu quả trong cơng tác bầu cử đại
biểu dân cử, các công việc khác Mặt trận Tổ quốc phối hợp với Nhà nước còn
khá hình thức. Chính vì vậy, mặc dù pháp luật quy định rất rõ quyền và nghĩa vụ
20


của Mặt trận Tổ quốc trong việc giới thiệu Hội thẩm nhân dân nhưng Mặt trận
Tổ quốc nhiều địa phương chưa phát huy tốt vai trò và trách nhiệm của mình.
- Mặt khác, thực tiễn quan hệ giữa các ngành trong việc tổ chức, giúp đỡ
Hội thẩm nhân dân hoạt động hiện nay rất đáng để chúng ta suy ngẫm. Sau khi

Hội đồng nhân dân bầu ra Hội thẩm nhân dân, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc
và Hội đồng nhân dân coi như hoàn thành. Việc tập huấn chuyên mơn, sử dụng
Hội thẩm nhân dân là việc của Tồ án. Các quy định của pháp luật hiện hành
không giao cho cơ quan nào theo dõi, giúp đỡ hay quản lý Hội thẩm nhân dân.
Quan hệ giữa Toà án với Hội thẩm nhân dân chỉ là quan hệ với cá nhân người
Hội thẩm đó. Chỉ có Tồ án là cơ quan duy nhất có thể đánh giá chất lượng
chun mơn và các mặt khác của Hội thẩm nhân dân, còn Mặt trận Tổ quốc và
Hội đồng nhân dân thì hầu như có rất ít thơng tin để nhận xét, đánh giá Hội thẩm
nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc các cấp chưa thực sự chủ động trong xây dựng kế
hoạch giám sát đối với công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
3.2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
* Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức trong hệ thống chính trị chưa đầy đủ và thống nhất về cơ sở
của mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, tính chất, nội dung, quyền
và trách nhiệm của mỗi bên trong mối quan hệ giữa cơ quan Đảng, cơ quan Nhà
nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở mỗi cấp, nhất là cấp huyện và cơ sở. Bản thân
cán bộ Mặt trận còn tự ti, e dè trong việc thực hiện các mối quan hệ phối hợp.
- Phương thức quan hệ phối hợp giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với cơ
quan Nhà nước chưa được thực hiện rộng rãi trên các mặt công tác của mỗi bên.
Các cấp ở địa phương mới chỉ xây dựng quy chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ
quốc với Hội đồng nhân dân, với Uỷ ban nhân dân, chưa mở rộng sự phối hợp
thông qua các văn bản liên tịch nhiều bên, giữa cơ quan Nhà nước với Ban
Thường trực Mặt trận Tổ quốc.
21


- Đội ngũ cán bộ, viên chức của cơ quan lãnh đạo, quản lý đông nhưng
vẫn chưa đủ mạnh, lại ít được đào tạo bồi dưỡng, việc tuyển chọn chưa chặt chẽ,

việc sử dụng chưa hợp lý, một số người thiếu gương mẫu về phẩm chất, đạo
đức, lối sống, thậm chí quan liêu, mệnh lệnh, áp đặt đối với nhân dân, làm giảm
lòng tin của nhân dân và tổn hại đến Đảng và Nhà nước.
* Nguyên nhân khách quan
- Xét về vai trò, chức năng của Mặt trận Tổ quốc, từ trước đến nay nhiều
người hiểu Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức có chức năng vận động quần chúng
là chủ yếu, nhưng trên thực tế Mặt trận Tổ quốc cịn có quyền tham gia vào
nhiều lĩnh vực cụ thể về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Chính vì
vậy trong ý thức của nhiều người, kể cả cán bộ các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị vẫn cho rằng sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc vào công việc
của Nhà nước chỉ là hình thức, mang nặng tính tượng trưng.
- Cơng tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về vị trí, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc, nhất là các quy định về công tác Mặt trận tham gia xây dựng và củng
cố chính quyền cịn chưa được thường xun, sâu rộng trong hệ thống chính trị
và các tầng lớp nhân dân. Sự phối hợp của các cơ quan Nhà nước với Mặt trận
để thực hiện các quy định về vấn đề này chưa thực sự chặt chẽ.
- Trong phối hợp công tác thơng qua các văn bản liên tịch sự bình đẳng,
tạo điều kiện từ phía cơ quan Nhà nước cịn hạn chế, tư tưởng xin - cho, ban ơn
vẫn còn ở nơi này, cấp nọ trong mối quan hệ phối hợp giữa hai bên.
- Ở nhiều nơi, sự chủ động phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước và Mặt
trận Tổ quốc trong công tác xây dựng và củng cố chính quyền cịn yếu, đặc biệt
là ở cấp địa phương (giữa Mặt trận Tổ quốc và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân cùng cấp), do vậy gây khó khăn trong việc phản ánh tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân, từ đó dẫn đến hạn chế trong việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
4. Một số giải pháp nhằm tăng cường, phát huy hiệu quả mối quan hệ
giữa Nhà nước với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong
hệ thống chính trị Việt Nam
22



×