Đề bài: Vai trò của Mặt trận tổ quốc VN trong việc bầu cử Đại biểu
Quốc Hội, bầu cử Đại biểu HĐND.
Họ và tên : Nguyễn Thu Giang
Mã SV : 11120992
I.Vai trò của Mặt trận tổ quốc VN trong bộ máy nhà nuớc:
Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay,
nước ta đã có 4 bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1960 và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
một số điều năm 2001).
Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới. Đến
nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh quốc tế, có những
biến đổi to lớn và sâu sắc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011). Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Báo cáo chính trị của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn
và lý luận 25 năm đổi mới, đã xác định rõ mục tiêu, định hướng phát
triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm
xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu nước mạnh, dân chủ, công
bằng văn minh. Vì vậy cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992 cho phù hợp với yêu cầu tình hình mới.
Ở đây xin bàn một số vấn đề về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong chế độ chính trị nhà nước dân chủ - và việc sửa đổi, bổ sung,
phát triển Hiến pháp năm 1992.
1. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền dân chủ XHCN và xây dựng
một nhà nước dân chủ thật sáng rõ, như Người khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ xã đến Chính phủ do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”
1
.
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và quyền làm chủ
của nhân dân, thể hiện trong quan hệ giữa nhân dân với nhà nước, Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã quy định: “Nhà nước Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001).
Như thế, dân chủ XHCN là một hình thức chính trị - nhà nước của xã
hội. Trong đó con người là thành viên trong xã hội có đầy đủ tư cách
công dân - tư cách làm chủ xã hội và như thế mọi công dân có quyền
làm chủ nhà nước mà mình cử ra.
Vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong chế độ chính trị
lần đầu tiên được khẳng định trong Hiến pháp tại Điều 9, Hiến pháp năm
1980: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - bao gồm các chính đảng, Tổng
Công đoàn Việt Nam, tổ chức Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam và các thành viên khác của Mặt trận - là chỗ dựa vững chắc của
nhà nước.
Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự
nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên nhân dân đề cao ý
thức làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc”. Vị trí vai trò của Mặt trận còn được cụ thể trong các cơ quan
nhà nước, như điều 86 Hiến pháp 1986 quy định: “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội”. Đối với Hội
đồng Bộ trưởng điều 106 quy định: “Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và người phụ trách chính của các đoàn thể nhân
dân trong mặt trận được mời tham dự hội nghị Hội đồng Bộ trưởng khi
cần thiết”. Đối với Hội đồng nhân dân: “Trong hoạt động của mình Hội
đồng nhân dân dựa vào sự cộng tác chặt chẽ của Mặt trận ” (điều 114).
“Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được mời tham dự hội nghị Uỷ
ban nhân dân khi cần thiết”.
Bổ sung và phát triển vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
trong chế độ chính trị Hiến pháp năm 1992, tại điều 9 quy định: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn
dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham
gia, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân cùng nhà nước chăm lo
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức
nhà nước ”. Đối với Quốc hội: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền
trình dự án luật ra trước Quốc hội (Điều 87). Tại điều 125 quy định Chủ
tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là người đứng đầu các đoàn thể nhân
dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp của Hội đồng nhân dân
và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các
vấn đề có liên quan”.
Trong các văn kiện chủ yếu, quan trọng của Đảng đều nhấn mạnh:
Phát huy dân chủ gắn liền với những nội dung xây dựng Đảng, xây dựng
và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Gần đây nhất,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá X,
Đảng ta coi công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và
phát huy dân chủ xã hội là một trong những nhiệm vụ và giải pháp lớn
cần tiếp tục tập trung chỉ đạo để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
X của Đảng. Theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ, Đảng đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
chủ động trình Bộ Chính trị đề án: “Về giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân”.
Sau khi xem xét Đề án này Bộ Chính trị đã có những kết luận, chỉ đạo
hết sức quan trọng:
“Một là, Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với Đảng đoàn
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban đảng có liên quan xây dựng văn
bản hướng dẫn để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội đối với các tổ chức
đảng về việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách, quyết định
lớn của Đảng kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ, trình Bộ Chính
trị xem xét quyết định.
Hai là, hằng năm, trong chương trình làm việc liên tịch giữa Đoàn
Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Thường trực Chính phủ, cần xác định nội dung,
chương trình giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị, xã hội đối với hoạt động của Quốc hội,
Chính phủ. Trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị xã hội tổ chức thực hiện.
Ba là, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì, phối hợp với
Ban Cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo
chuẩn bị tiến hành tổng kết 10 năm thi hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Qua đó, đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới, trong
đó có nội dung về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội X của Đảng”
2
. Như trên, có thể khẳng định vai trò to lớn
của Mặt trận và Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân trong việc tạo dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (2011): Một trong 8 phương hướng cơ bản là: “Xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở
rộng Mặt trận thống nhất”. Trong một chế độ chính trị dân chủ với ba
yếu tố cấu thành “xã hội, quốc gia, dân tộc”, “dân chủ XHCN” là bản
chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước. Xây dựng từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân
chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế
hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”. Trong chế độ dân chủ đó,
Đảng ta khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ”
3
.
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các
dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên
vừa là người lãnh đạo Mặt trận ”
4
.
Với vị thế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên trên, Mặt trận cùng
với Nhà nước là chủ thể đại diện của nhân dân đối với mọi quyền lực
trong nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Vì vậy vị trí, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong chế độ chính trị cần được thừa nhận, quy
định trong sửa đổi bổ sung Hiến pháp mới - Hiến pháp của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Làm cơ sở pháp lý “gốc” cho việc
hoàn thiện Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các luật có liên quan đến
Mặt trận.
2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong kiểm soát quyền
lực nhà nước
Tìm hiểu khái niệm “Kiểm soát quyền lực nhà nước” là nội dung
tiếp cận trực tiếp, góp phần luận giải vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
“Kiểm soát” được giải nghĩa là: “1. Kiểm tra, xem xét nhằm ngăn ngừa
những sai phạm các quy định; 2. Đặt trong phạm vi quyền hành và trách
nhiệm dưới sự kiểm soát của cơ quan chủ quản”
5
. Nếu đặt trong phạm vi
quyền hành và trách nhiệm thì có thể nói nhân dân là chủ thể kiểm soát
nhà nước của mình. Một số ý kiến cho rằng “Kiểm soát quyền lực nhà
nước” chủ yếu là để hạn chế phạm vi quyền lực nhà nước (TS. Trịnh Thị
Xuyên - 2008) hoặc có tác giả bàn đến “Sự hạn chế quyền lực nhà nước”
(PGS.TS Nguyễn Đăng Dung - 2005). Vấn đề kiểm kê, kiểm soát đã
được V.I. Lênin bàn nhiều trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô (cũ) (V.I. Lênin, Bàn về kiểm kê, kiểm soát, Nxb CTQG, H,
1998). Theo Lênin nếu không kiểm kê, kiểm soát được nhà nước và xã
hội, đặc biệt là kiểm kê, kiểm soát về kinh tế thì không thể có chủ nghĩa
xã hội được. Hồ Chí Minh đã dạy rằng, lãnh đạo phải gắn với kiểm soát.
Bằng bút danh X.Y.Z, Hồ Chủ tịch viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
vào tháng 10-1947. Người dạy cán bộ, đảng viên cách lãnh đạo và kiểm
soát như sau: “Muốn chống bệnh quan liêu; bệnh bàn giấy; muốn biết
các nghị quyết có được thi hành không; thi hành có đúng không; muốn
biết ai ra sức làm; ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát.
Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm
tra khéo, về sau khuyết điểm nhất định bớt đi.
Song muốn kiểm soát có kết quả tốt, phải có hai điều: Một là việc
kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là người đi kiểm soát
phải là những người rất có uy tín”. Hồ Chí Minh dạy cách kiểm soát rất
ngắn gọn, dễ hiểu: “Kiểm soát có hai cách: Một cách là từ trên xuống,
tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả công việc của cán bộ mình. Một
cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai
lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó, cách
này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”
6
.
Đã hơn 60 năm qua, đến nay những lời dạy của Bác vẫn còn
nguyên giá trị lý luận và giá trị thực tiễn, mang tính thời sự. Quần chúng
nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Vì vậy, khi nói nhân dân
kiểm soát quyền lực nhà nước là bao hàm toàn bộ hoạt động có ý thức
của nhân dân trong việc theo dõi, xem xét, kiểm tra, giám sát và phản
biện đối với đời sống nhà nước, tức là đối với hoạt động lao động quyền
lực của nhà nước, cả trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Khái quát lại, kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân là việc
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân bằng cả hai hình thức dân chủ đại
diện và dân chủ trực tiếp. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là lực lượng
lãnh đạo nhà nước và xã hội vừa là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà
nước vừa là đối tượng chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nhà nước tổ
chức thực hiện quyền lực nhà nước do nhân dân giao phó, nhà nước vừa
là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước (tự kiểm soát) vừa là đối tượng
của sự kiểm soát của nhân dân. Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước,
bao hàm cả giám sát và phản biện, tham gia vào quản lý nhà nước nhằm
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hạn chế quyền lực
nhà nước. Phản biện xã hội là xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; tham
gia vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách, quyết định
lớn của Đảng; phản biện các dự án sửa đổi bổ sung Hiến pháp, luật và
pháp lệnh cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác. Giám sát hoạt
động của Đảng, hoạt động của Nhà nước, của cán bộ công chức trong
việc thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Thực chất giám sát là chống các bệnh quan liêu, cửa quyền,
lạm quyền, mất dân chủ và tham nhũng của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Những bệnh này phần nhiều là hậu quả của những hành vi vi
phạm Hiến pháp và pháp luật mà ra. Với vị trí và thành phần của Mặt
trận cho thấy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
có vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện kiểm soát một cách hệ
thống thường xuyên và bằng pháp luật đối với quyền lực nhà nước.
3. Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và pháp
luật liên quan tới Mặt trận
Có thể nêu những định hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong chế
độ chính trị trong pháp luật như sau:
Một là, sửa đổi điều 2 Hiến pháp sửa đổi năm 2002, giữ nguyên
toàn văn điều 2 này, bổ sung từ “và giám sát”. Cụ thể: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp và giám sát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”.
Hai là, sửa đổi điều 9 Hiến pháp năm 1992 như sau:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội
và các cá nhân tiêu biểu trong giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn
giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ tri thức và nhân dân các dân
tộc.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về bầu cử. Trong đó đổi mới Luật bầu
cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp;
quy định cụ thể việc cử tri bầu trực tiếp chủ tịch Uỷ ban nhân dân ở
những cấp chính quyền không có Hội đồng nhân dân.
Bốn là, sửa đổi Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999, trong
đó bổ sung nội dung về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đối với Đảng và Nhà nước. Quy định cụ thể mối quan hệ
giữa các cơ quan của Mặt trận Tổ quốc các cấp đối với các thành viên
của Mặt trận, thể hiện rõ cơ chế hoạt động và phương pháp hiệp thương
trong bầu cử và trong giám sát và phản biện xã hội.
Năm là, xây dựng Luật về Hội (mới) phù hợp với điều kiện hiện
nay nhằm bảo đảm quyền lập hội theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2005 và để thay thế Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20-5-1957 ban hành
luật quy định quyền lập hội và thay thế Nghị định 88/2003/NĐ-CP,
trong đó cần quy định quyền và nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội
của các Hội (các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp) và quy
định các quyền tự do dân chủ khác của công dân phù hợp với tính chất
của các Hội.
Sáu là, hoàn thiện pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở của nhân dân
ở các loại hình cơ sở. Trong đó có cơ sở là cơ quan nhà nước, đơn vị
kinh tế nhà nước và đơn vị hành chính sự nghiệp; các tổ chức cơ sở của
hệ thống chính trị, đơn vị dân cư Trên cơ sở quy chế thực hiện dân chủ
cơ sở trong cơ quan nhà nước, trong đơn vị kinh tế nhà nước, đánh giá
việc thực hiện để có cơ sở sửa đổi, bổ sung và mở rộng các nội dung
thực hiện cơ sở đó ra các loại hình cơ sở khác đã nêu trên.
Bảy là, xây dựng luật thông tin, bảo đảm quyền được thông tin
(được biết) của công dân. Đặc biệt là quyền được thông tin về đường lối,
chủ trương, quyết sách lớn của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các
chính sách kinh tế - xã hội của Chính phủ, các dự án kinh tế - xã hội của
các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương. Đó là cơ sở để nhân
dân giám sát và phản biện; nhằm nâng cao hiệu lực giám sát và chất
lượng hiệu quả phản biện của nhân dân. Như vậy, mới có thể một mặt
nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của nhân dân, mặt khác tạo sự
đồng thuận cao trong xã hội.
II.Vai trò của Mặt trận tổ quốc VN trong việc bầu cử Đại biểu
Quốc hội:
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có đóng góp to lớn trong sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội, vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từ trung ương đến
địa phương thể hiện qua những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Tổ chức các hội nghị hiệp thương để thoả thuận về cơ cấu, thành
phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu làm đại
biểu Quốc hội; lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội; lập
danh sách sơ bộ và danh sách chính thức những người được giới thiệu
ứng cử đại biểu Quốc hội; lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi
cư trú và nơi công tác (nếu có) về những người ứng cử đại biểu Quốc
hội;
- Tổ chức để những người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và vận
động bầu cử;
- Tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội;
- Tham gia ý kiến với Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc dự
kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội được bầu của tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng
vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương;
- Tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử ở các cấp như Hội
đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử, Tổ bầu cử để chỉ đạo và tổ chức công tác
bầu cử.
III.Vai trò của Mặt trận tổ quốc VN trong việc bầu cử đại biểu
HĐND
Theo quy định của Luật Bầu cửđại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã có những nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
1. Tham gia giám sát việc bầu cửđại biểu Hội đồng nhân dân;
2. Phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
cùng cấp trong việc thành lập Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử;
3. Chủ trì tổ chức Hội nghị hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những
người ra ứng cửđại biểu Hội đồng nhân dân; lập danh sách sơ bộ và
danh sách chính thức những người ứng cử;
4. Phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
cùng cấp triệu tập và chủ trì Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn để lấy
ý kiến nhận xét về những người ứng cửđại biểu Hội đồng nhân dân;
5. Tổ chức để người có tên trong danh sách những người ứng cử
gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri để tiến hành vận động bầu cử thông qua việc
báo cáo với cử tri dự kiến việc thực hiện trách nhiệm của người đại biểu
nếu trúng cử.