ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THANH THỦY
CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2022
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THANH THỦY
CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ THU HÀ
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn
Thị Thu Hà.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của
Luận văn này.
Người cam đoan
Lê Thị Thanh Thủy
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà
- giảng viên tổ bộ môn Luật tố tụng dân sự - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, ngƣời
đã trực tiếp hƣớng dẫn, định hƣớng và tận tình chỉ dạy trong quá trình tôi thực
hiện luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô, anh chị, bạn bè đồng nghiệp
và gia đình đã ln giúp đỡ và động viên để tơi có đầy đủ điều kiện và động lực để
hồn thành luận văn này.
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ....... 8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trị của hội thẩm nhân dân
trong tố tụng dân sự ....................................................................................8
1.1.1.
Khái niệm hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự ......................................8
1.1.2.
Đặc điểm của hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự ...............................14
1.1.3.
Vị trí của hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự ......................................17
1.1.4.
Vai trò của hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự ...................................20
1.2.
Khái niệm và vai trò của chế định hội thẩm nhân dân trong pháp
luật tố tụng dân sự .....................................................................................22
1.2.1.
Khái niệm chế định hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự ..........22
1.2.2.
Vai trò của chế định hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng
dân sự ..........................................................................................................24
1.3.
Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hội thẩm nhân
dân trong tố tụng dân sự...........................................................................27
1.3.1.
Quy định về nguyên tắc hoạt động của hội thẩm nhân dân trong tố
tụng dân sự ..................................................................................................27
1.3.2.
Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của hội thẩm nhân dân trong tố
tụng dân sự ..................................................................................................42
1.3.3.
Quy định về trách nhiệm của hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự.............54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................56
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM NHÂN
DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK NÔNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .......................................57
2.1.
Thực tiễn thực hiện chế định hội thẩm nhân dân trong pháp luật
tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông ............................................57
2.1.1.
Những kết quả đạt đƣợc trong thực tiễn thực hiện chế định hội thẩm
nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông ........57
2.1.2.
Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực hiện chế định hội thẩm
nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông ........62
2.1.3.
Những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực
hiện chế định hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông ................................................................................75
2.2.
Một số kiến nghị về chế định hội thẩm nhân dân trong pháp luật
tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông ............................................78
2.2.1.
Các kiến nghị hoàn thiện chế định hội thẩm nhân dân trong pháp luật
tố tụng dân sự ..............................................................................................78
2.2.2.
Các kiến nghị bảo đảm thực hiện chế định hội thẩm nhân dân trong
pháp luật tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông..................................83
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................90
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................92
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS năm 2011:
Bộ luật TTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
BLTTDS năm 2015:
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
HTND:
Hội thẩm nhân dân
LTCTAND năm 2014:
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối
cao số 03/2012/NQ – HĐTP hƣớng dẫn thi hành một số
Nghị Quyết
quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung”
số 03/2012/NQ-HĐTP: của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã đƣợc sửa đổi, bổ sung theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng dân sự
TAND:
Toà án nhân dân
TANDTC:
Toà án nhân dân tối cao
TTDS:
Tố tụng dân sự
VADS:
Vụ án dân sự
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong quá trình cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay, một trong những yêu
cầu trọng tâm của tiến trình cải cách tƣ pháp chính là làm cho vai trị của Toà án
ngày càng độc lập hơn đối với các cơ quan quyền lực khác. Việc độc lập của Toà án
khơng chỉ địi hỏi nâng cao năng lực xét xử của các thẩm phán, mà các Tồ án
muốn có đƣợc vị thế độc lập phải có những cơ chế hữu hiệu trong tổ chức thực hiện
quyền lực mới đảm bảo đƣợc sự độc lập của mình. Ngồi những u cầu thay đổi tố
tụng xét hỏi bằng tố tụng tranh tụng thì một địi hỏi khơng kém phần quan trọng đó
là cũng phải nhận thức và quy định lại chế định về hội thẩm nhân dân (HTND),
nghĩa là hoàn thiện chế định này theo nghĩa đây là một chế định tham gia của xã hội
vào quá trình xét xử của sự.
Lịch sử phát triển của nền tƣ pháp nƣớc ta từ năm 1945 đến nay cho thấy,
HTND giữ vai trò rất quan trọng trong trong hoạt động xét xử của Toà án. Đội ngũ
HTND qua nhiều thế hệ đã cùng với các Thẩm phán luôn luôn song hành với nhau
để thực hiện nhiệm vụ cao cả, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, các tổ chức xã hội. Sự hiện diện của
HTND trong xét xử và kết quả hoạt động của HTND lại càng thêm khẳng định rằng,
nhân dân ln phải có tiếng nói của mình trong hoạt động tƣ pháp, thể hiện quyền
làm chủ của nhân dân. Quá trình tổng kết hoạt động xét xử hàng năm, hầu hết các
bản án, các quyết định của Tồ án đƣợc ban hành đúng pháp luật, có tính thuyết
phục. Những thành tựu trong quá trình xét xử của cơ quan Tồ án với sự tham gia
tích cực và có hiệu quả của HTND đã tơn vinh thêm vị trí, vai trị và uy tín của Tồ
án, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, trong thực tiễn cơng tác xét xử cịn
có tồn tại cho thấy khơng ít HTND chƣa phát huy hết khả năng quyền và nghĩa vụ
của mình. Việc khơng phát huy hết vai trò của HTND là do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Nhiều HTND xem việc tham gia xét xử tại Toà án chỉ là công tác kiêm nhiệm
1
nên không chuẩn bị thời gian nghiên cứu hồ sơ dẫn đến khơng nắm bắt đƣợc các
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hậu quả là khi tham gia xét xử phụ thuộc rất nhiều
vào ý kiến của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa. Trình độ nhận thức của HTND về
pháp luật chƣa cao, không thiếu những vị HTND do trình độ nhận thức về pháp luật
và kiến thức xã hội cịn hạn chế nên trong q trình tham gia xét hỏi không đặt ra
đƣợc những câu hỏi sát với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hay yêu cầu phản tố
của bị đơn, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan dẫn đến không làm sáng tỏ đƣợc
các tình tiết của vụ án. Do đó khơng phát huy đƣợc hết quyền và nghĩa vụ của
HTND khi tham gia xét xử đƣợc quy định tại Điều 49 của BLTTDS. Ngồi ra cịn
có nhiều ngun nhân bất cập khác dẫn đến việc các HTND khi tham gia phiên tịa
khơng phát huy hết quyền và nghĩa vụ của mình nhƣ bất cập trong việc bổ nhiệm
HTND; chế độ đãi ngộ của Nhà nƣớc đối với HTND còn chƣa phù hợp, hoạt động
của HTND chỉ dựa vào ý thức trách nhiệm của cá nhân dẫn đến tâm lý của các
HTND khi tham gia xét xử theo hƣớng “tham gia cho có” hoặc có nhiều HTND
khơng muốn tham gia xét xử.
Vì vậy, cần xem xét lại một cách khách quan các quy định của pháp luật về
chế định pháp luật về HTND và thực tiễn công tác xét xử với sự tham gia của
HTND để có một cái nhìn tổng quan về quyền và nghĩa vụ của HTND trong hoạt
động xét xử của Tồ án, cũng nhƣ mong muốn tìm ra một số nguyên nhân, hạn chế
trong hoạt động xét xử của HTND hiện nay. Từ đó đƣa ra những giải pháp, kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HTND trong hoạt động xét xử của Tồ
án. Do đó học viên chọn đề tài: “Chế định HTND trong pháp luật TTDS Việt Nam
và thực tiễn áp dụng tại các TAND trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” làm luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các nghiên cứu liên quan đến hoạt động của HTND trong xét xử các VADS
có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu sau:
- Luận văn thạc sĩ “Nhiệm vụ, quyền hạn của HTND trong TTDS và thực tiễn
thực hiện tại các TAND trên địa bàn thành phố Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Thị
2
Nghiệp bảo vệ thành công năm 2017 tại trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Luận văn đã
trình bày một cách có hệ thống về những vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của
HTND trong TTDS. Ngoài ra, phần thực tiễn, tác giả nghiên cứu chuyên sâu việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HTND trên địa bàn thành phố Hải Phịng cũng
đem đến các thơng tin về việc thực hiện hoạt động của HTND trên địa bàn một tỉnh
thành. Thông tin trong luận văn này là nguồn tài liệu tham khảo để tác giả nghiên
cứu phần thực trạng quy định của pháp luật về chế định HTND. Tuy nhiên, luận văn
này chỉ nghiên cứu chuyên sâu về nhiệm vụ, quyền hạn của HTND trong TTDS chứ
không nghiên cứu toàn diện về chế định HTND nhƣ đề tài của tác giả.
- Luận văn “Nguyên tắc:"Thẩm phán và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật" trong TTDS” của tác giả Dƣơng Thị Hà Quyên bảo vệ thành công
tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2011. Đề tài này đã trình bày đầy đủ các nội
dung về lý luận và thực tiễn liên quan đến việc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật của Thẩm phán và HTND. Đề tài này cũng là một nguồn tài liệu tham khảo để
tác giả nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về chế định HTND.
Tuy nhiên, đề tài này nghiên cứu hoạt động xét xử độc lập của cả ngƣời tiến hành tố
tụng là thẩm phán và không nghiên cứu chuyên sâu về chế định HTND. Vì vậy, đề
tài của tác giả khơng có nội dung và đối tƣợng trùng lặp với đề tài này.
Các bài viết nhƣ: “Bàn về vai trò của chế định HTND ở nước ta hiện nay”
của tác giả Cao Việt Thăng đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 09/2010;
Bài viết “Để HTND khơng chỉ là hình thức” của tác giải Nguyễn Khắc Bộ đăng
trên tạp chí TABD số 03/2004; bài viết “Địa vị pháp lý của HTND ở Việt Nam –
Một số vấn đề cần được quan tâm” của tác giả Nguyễn Huy Hoàn đăng trên tạp chí
Thanh tra số 11/2020; Bài viết “Một số kiến nghị về tổ chức và hoạt động của
HTND” của tác giả Lê Thu Hà đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số 10/2009;
bài viết “Nâng cao vai trò của HTND trong quá trình xét xử” của tác giả Lê Văn
Quyến đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 05/2021; bài viết “Địa vị pháp lý
của HTND ở Việt Nam – Một số vấn đề cần được quan tâm” của tác giả Nguyễn
Huy Hoàn đăng trên tạp chí thanh tra số 11/2020; bài viết “Những bất cập trong
3
việc HTND tham gia xét xử VADS” của tác giả Nguyễn Văn Thành đăng trên tạp
chí Luật sự số 6/2015; bài viết “Nhiệm vụ, quyền hạn của HTND trong TTDS” của
tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng đăng trên tạp chí Kiểm sát số 15/2021. Các bài viết
này nghiên cứu những góc độ khác nhau về HTND; có cơng trình nghiên cứu các
vấn đề lý luận về HTND, có cơng trình lại đánh giá thực tiễn hoạt động của HTND
trong việc tham gia xét xử các vụ án theo quy định của pháp luật. Những cơng trình
này là tài liệu tham khảo q giá để tác giả có thể hồn thiện các nội dung trong đề
tài của mình. Tuy nhiên, các cơng trình trên chỉ nghiên cứu một khía cạnh cụ thể về
HTND chứ khơng nghiên cứu tồn diện về chế định HTND trong TTDS.
Nhƣ vậy, có thể thấy, có rất ít các đề tài nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện
về chế định HTND trong pháp luật TTDS Việt Nam. Đối tƣợng nghiên cứu đề tài
của tác giả có nhiều điểm khác so với đối tƣợng nghiên cứu trong các cơng trình
trên. Tác giả sẽ kế thừa và chọn lọc những kết quả nghiên cứu ở trên để hồn thiên
cơng trình của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về HTND, chế định HTND ở
Việt Nam và có so sánh về chế định đại diện của nhân dân ở một số nƣớc trên thế
giới; nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về HTND trong
TTDS; nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về chế định
HTND trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
* Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ nghiên cứu sự tham gia của HTND trong các VADS, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh - thƣơng mại, lao động, không nghiên cứu sự tham gia
của HTND trong các vụ án hình sự và hành chính.
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về HTND và chế định HTND
trong việc tham gia giải quyết các VADS tại TAND theo thủ tục TTDS.
- Luận văn chỉ nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật TTDS Việt
Nam về chế định HTND.
4
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn thực hiện chế định HTND trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông. Thông qua các thực tiễn này, tác giả chỉ ra các kết quả đạt đƣợc
cũng nhƣ các vƣớng mắc, bất cập, khó khăn và nguyên nhân của nó trong việc thực
hiện chế định HTND. Từ đó, tác giả đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật và năng cao hiệu của hoạt động của HTND trong
việc giải quyết các VADS.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng đƣợc khái niệm HTND và chế định HTND trong TTDS.
- Làm rõ đƣợc đặc điểm của chế định HTND trong TTDS.
- Đánh giá đƣợc thực trạng quy định của pháp luật TTDS về chế định HTND.
- Đánh giá đƣợc thực tiễn thực hiện chế định HTND trên địa bàn tỉnh Đắk Nơng.
- Đƣa ra đƣợc các kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật TTDS về chế
định HTND và các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết các VADS của HTND.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các tài liệu tham khảo từ các cơng trình có liên quan để xây
dựng đƣợc khái niệm HTND và chế định HTND trong TTDS.
- Nghiên cứu pháp luật của một số nƣớc trên thế giới về chế định địa diện
của nhân để làm rõ đƣợc đặc điểm của chế định HTND trong TTDS.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành để đánh
giá đƣợc thực trạng của các quy định này về HTND.
- Nghiên cứu hồ sơ giải quyết VADS trên địa bản tỉnh Đắk Nông để làm rõ
thực tiễn thực hiện chế định HTND ở địa phƣơng này.
- Nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan để đƣa ra các định hƣớng
hồn thiện quy định của pháp luật về HTND.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
5
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu đã đặt
ra, luận văn đã sử dụng những nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học. Cụ thể,
phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng để nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của
chế định HTND; phƣơng pháp phân tích và bình luận đƣợc sử dụng để đem lại góc
nhìn đa chiều và làm rõ các quy định HTND trong pháp luật TTDS hiện hành;
phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng để chỉ ra những điểm khác biệt về HTND trong
pháp luật TTDS Việt Nam so với chế định đại diện của Nhân dân ở một số nƣớc
trên thế giới; phƣơng pháp nghiên cứu học thuyết pháp lý (một phƣơng pháp nghiên
cứu luật học truyền thống) đƣợc sử dụng để nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề lý
luận liên quan đến HTND và chế định HTND, từ đó dùng làm cơ sở vững chắc
trong việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật; phƣơng pháp diễn dịch, quy nạp và tổng
hợp đƣợc tác giả sử dụng để khái quát các ý chính trong từng vấn đề cụ thể, giúp
cho các ý tƣởng trong luận văn đƣợc sáng rõ.
6. Những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài trên có thể đem lại những điểm mới sau:
- Luận văn là cơng trình đầu tiên trình bày đƣợc khái niệm, đặc điểm của chế
định HTND trong TTDS. Kết quả nghiên cứu ở phần lý luận đã chỉ rõ điểm giống
và khác nhau của chế định đại diện của nhân dân trong hoạt động xét xử giữa pháp
luật TTDS Việt Nam và pháp luật của một số nƣớc trên thế giới. Những vấn đề lý
luận trong luận văn này có thể là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các học
giả, sinh viên, học viên khi nghiên cứu về chế định HTND nói chung và chế định
HTND trong TTDS nói chung.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách tƣơng đối toàn diện và sâu sắc
các quy định của pháp luật TTDS Việt nam về HTND và thực tiễn thực hiện chế
định HTND trên địa bản tỉnh Đắk Nông. Từ những nghiên cứu này, luận văn đã làm
sáng rõ những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về HTND.
Đồng thời, luận văn đƣa ra những luận giải cụ thể về nguyên nhân của những vƣớng
mắc, bất cập đó.
- Luận văn đã có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
6
luật nhằm hoàn thiện chế định HTND và các giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng
tham gia của HTND trong việc tham gia giải quyết của VADS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục; nội
dung cụ thể của luận văn đƣợc chia thành 2 chƣơng và 9 mục.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trị của hội thẩm nhân dân trong
tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự
Để xây dựng khái niệm HTND trong TTDS, trƣớc hết chúng ta cần phải làm
rõ đƣợc các khái niệm TTDS và HTND.
Thứ nhất, về khái niệm HTND
Trong quá trình giải quyết VADS thì khơng chỉ thẩm phán thể hiện vai trị
của mình là ngƣời bảo vệ công lý dựa trên các chứng cứ và quy định của pháp luật
mà cịn có vai trò của HTND. HTND ở các nƣớc trên thế giới đƣợc hiểu khơng
hồn tồn giống nhau.
Ở các nƣớc theo truyền thống pháp luật án lệ mà đại diện điển hình là Anh,
Mỹ … thì sử dụng bồi thẩm đồn. Chẳng hạn theo pháp luật của Mỹ thì xét xử
theo thủ tục bồi thẩm đoàn (Jury Trial) trong hệ thống pháp luật Mỹ đƣợc thực
hiện bởi 3 loại: Đại bồi thẩm đồn (Grand Jury), Tiểu bồi thẩm đồn xét xử án
hình sự và Tiểu bồi thẩm đoàn xét xử án dân sự. Tiểu bồi thẩm đoàn bao gồm 12
thành viên và đôi khi trong các vụ kiện dân sự chỉ gồm 6 thành viên. Các Bồi
thẩm đƣợc trao quyền quyết định rất lớn, cho phép họ thực hiện việc xem xét thận
trọng một cách kín đáo và đƣa ra những phán xét cuối cùng của mình mà khơng
cần nêu rõ căn cứ; sau khi thời gian phục vụ nhất thời cho chính quyền kết thúc,
họ đƣợc yêu cầu giải thể và trở về cuộc sống riêng tƣ. Trong các vụ kiện dân sự,
cả hai bên có thể đồng ý để đƣa vụ kiện ra toà do Thẩm phán xét xử. Nhƣ vậy, xét
xử bởi Bồi thẩm đồn nói chung chỉ đƣợc tiến hành khi một bên trong vụ kiện dân
sự cho rằng lựa chọn của họ là có lợi nhất. Theo pháp luật tố tụng Mỹ, Thẩm phán
thƣờng giải quyết những vấn đề khơng thuộc thẩm quyền của bồi thẩm đồn, hay
nói cách khác là những vấn đề liên quan đến việc áp dụng pháp luật hoặc giải
8
thích một nguyên tắc của luật hay một đạo luật thành văn (question of law). Cịn
bồi thẩm đồn sẽ xem xét những vấn đề liên quan đến giải quyết một tranh chấp
hay tranh cãi giữa các bên về sự đúng đắn, sự chân thực của một sự việc (question
of fact). Phƣơng pháp thông thƣờng để chọn lấy ra các bồi thẩm là rút thăm ngẫu
nhiên từ danh sách cử tri, danh sách giấy phép lái xe, hoặc danh sách không hạn
chế những ngƣời dân cƣ trú tại một cộng đồng dân cƣ (theo đăng ký thuế, danh
sách khách hàng tiêu thụ dịch vụ cơng cộng). Các Tồ án thƣờng kết hợp nhiều
danh sách để tổng hợp thành một danh sách tổng thể các Bồi thẩm.
Thủ tục chọn ra một bồi thẩm đoàn (voir dire) đƣợc dựa trên cơ sở một hệ
thống thẩm tra, theo đó nguyên đơn trong các vụ, việc dân sự và luật sƣ biện hộ có
thể phản đối một bồi thẩm. Hệ thống thẩm tra có thể gồm có những câu hỏi chung
để hỏi tồn bộ nhóm làm nguồn lựa chọn bồi thẩm đoàn với sự trả lời bằng cách giơ
tay và những câu hỏi đối với cá nhân những bồi thẩm tƣơng lai và đề nghị trả lời
miệng. Tại một số địa hạt tƣ pháp, luật sƣ cho các bên có thể đặt câu hỏi cho các bồi
thẩm tiềm năng, trong khi ở một số nơi khác, Thẩm phán xét xử tiến hành thủ tục
voir dire. Pháp luật tố tụng Mỹ cho phép cả hai bên và luật sƣ biện hộ áp dụng một
số lƣợng nhất định việc loại một bồi thẩm tiềm năng mà không cần nêu ra lý do bác
bỏ (peremptory challenges). Nhìn chung, bên luật sƣ biện hộ thƣờng loại những bồi
thẩm có chun mơn hoặc hồn cảnh tƣơng tự nhƣ nạn nhân và vì vậy họ có thể có
những mối liên hệ tình cảm với nạn nhân [33]. Việc quy định xét xử có bồi thẩm
đồn đƣợc xem là để phân tách quyền lực quan trọng. Lợi ích của việc bồi thẩm
đồn xét xử là cung cấp một phƣơng tiện giáo dục cơng dân về chính phủ. Nhiều
ngƣời cịn tin rằng bồi thẩm đồn có khả năng đƣa ra một phiên điều trần nhân văn,
thực tế, công bằng cho một bên không phải thành viên của chính phủ hoặc lợi ích
thành lập khác.
Ở các nƣớc theo truyền thống pháp luật dân sự mà đại diện điển hình Cộng
hồ Pháp thì việc xét xử dân sự, khơng có đại diện của cơng dân hay nói cách khác
khơng có sự tham gia của bồi thẩm đoàn [29, tr. 104-105].
Ở Việt Nam, trƣớc đây HTND đƣợc gọi là phụ thẩm nhân dân và chỉ tham
9
gia trong các vụ án hình sự. Phụ thẩm nhân dân đƣợc quy định trong Sắc lệnh số
13/SL, Sắc lệnh số 33/SL và trong cả bản Hiến pháp đầu tiên của nƣớc ta - Hiến
pháp năm 1946. Bƣớc vào những năm 50, sau cuộc cải cách tƣ pháp lần đầu tiên, hệ
thống tƣ pháp đƣợc kiện toàn một bƣớc và thể hiện đậm nét tính nhân dân. Chế định
HTND đƣợc đổi mới cơ bản, Phụ thẩm nhân dân đƣợc đổi thành HTND và đƣợc
tham gia xét xử các VADS. Vậy thế nào là HTND?
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện Khoa học xã
hội Việt Nam thì "HTND" đƣợc hiểu là: “đại biểu nhân dân cùng ngồi xử án với các
thẩm phán" [30, tr. 461]. Cũng theo Từ điển này, “bồi thẩm" là "thẩm phán cùng
ngồi xét xử với chánh án trong một phiên tòa". Theo Từ điển Luật học của Viện
Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tƣ pháp thì “HTND" là “Ngƣời đƣợc bầu hoặc cử theo
quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của
Toà án" [28, tr. 387]. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh khơng đƣa ra định nghĩa
“HTND" song có giải thích nghĩa riêng rẽ của hai từ Hán Việt là “Hội" và “Thẩm".
Từ “Hội" có nghĩa là: “Họp nhau - Cơ quan có nhiều ngƣời họp để làm việc - Gặp Ý tứ và sự lý hợp nhau - Bản lĩnh và sự tình hợp nhau" [2, tr.184]. Cịn từ “Thẩm"
đƣợc hiểu là “Biết rõ tình hình – Khảo xét kỹ năng – Xử đoán”. Căn cứ vào từng
từ riêng rẽ, có thể hiểu “HTND” là ngƣời thấu suốt tình lý tham gia vào việc giải
quyết vụ án.
Nghiên cứu tài liệu nƣớc ngoài đề cập đến vấn đề HTND, trƣớc hết cần chú
ý đến Cuốn sách Thuật ngữ pháp lý phổ thông (tập I) do tập thể các nhà khoa học
pháp lý Xô viết nhƣ L.A. Azovkin và các tác giả khác viết, Nhà xuất bản “Sách
pháp lý" xuất bản năm 1973, đƣợc dịch và công bố ở Việt Nam vào năm 1986.
Theo các tác giả của cuốn sách này ở mục “HTND" thì: “Việc xét xử các vụ án tại
các Toà án cấp sơ thẩm do một thẩm phán và hai HTND tiến hành. Cơng dân Liên
xơ có quyền bầu cử và đủ 25 tuổi có thể đƣợc bầu làm HTND”. Với cách tiếp cận
này, có thể thấy chế định HTND ở Liên Xô (trƣớc đây) cũng tƣơng tự nhƣ ở nƣớc
ta hiện nay.
Mở rộng nguồn tải liệu nghiên cứu sang các tài liệu khoa học pháp lý
10
phƣơng Tây, Từ điển pháp lý (dictionnaire juridique) của Pháp định nghĩa: Trong
ngôn ngữ pháp lý tố tụng, thuật ngữ HTND (Assesseur) đƣợc sử dụng để chỉ những
ngƣời có thẩm quyền, thành lập và hoạt động theo thể thức tập thể, hỗ trợ thẩm
phán chủ tọa phiên tòa. Thuật ngữ nói trên cũng cịn đƣợc dùng để chỉ tất cả những
ngƣời nào tham gia vào việc đƣa ra các quyết định (phán quyết), bao gồm cả
những thành viên không chuyên nghề xét xử trong một số thiết chế tƣ pháp nhƣ
Toà án Thƣơng mại, Toà án về những vụ việc liên quan đến an sinh xã hội hay
Toà án về những vấn đề nơng thơn. Từ điển Larousse giải thích nguồn gốc từ
HTND (Assesseur) trong tiếng Pháp bắt nguồn từ thuật ngữ “Assessor" của tiếng
La tinh, có nghĩa là "giúp đỡ hoặc đưa ra lời khuyên". Các tác giả Từ điển
Larousse cho rằng từ "HTND" (Assesseur) trong tiếng Pháp có 4 nghĩa sau đây:
(i) Là thẩm phán giúp đỡ, hỗ trợ chủ tọa phiên tòa và nghị án cùng với ông ta; (ii)
Là danh từ dùng để chỉ thành viên của một số thiết chế tƣ pháp đặc biệt (nhƣ Tồ
án về những vấn đề nơng thơn hay Tịa thƣơng mại liên quan đến các giao thƣơng
trên biển) hoặc thành viên của các văn phòng bầu cử quốc gia; (iii) Dƣới thời đế
chế La Mã thống trị, HTND (Assesseur) là những luật gia cố vấn có nhiệm vụ hỗ
trợ về mặt pháp lý cho các thẩm phán ra phán quyết; (iv) Trong chế độ cũ (trƣớc
cách mạng 1789 ở Pháp), HTND là những ngƣời giúp đỡ cho ngƣời đứng đầu các
tổ chức tƣ pháp hoặc là những nhân viên tƣ pháp tham dự hoạt động xét xử với
các thẩm phán trong các phiên tịa.
Theo Từ điển phổ thơng wikipedia.org trên mạng Internet thì: HTND
(Assesseur) là ngƣời ngồi bên cạnh một ngƣời khác để giúp đỡ ngƣời này thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của họ và bổ sung, hỗ trợ họ khi thấy cần thiết. Trong các quy
định pháp luật, HTND là ngƣời hoạt động trong lĩnh vực tƣ pháp có chức năng hỗ
trợ cho thẩm phán. Ở một nghĩa khác, thuật ngữ Assesseur (HTND) còn đƣợc dùng
để chỉ những ngƣời có nhiệm vụ bảo đảm cho các cuộc bầu cử diễn ra suốn sẻ, nhất
là trong việc kiểm tra tƣ cách cử tri hoặc tỉnh hợp pháp của cuộc bầu cử. Ở Thụy Sĩ,
ngƣời ta còn gọi là Assesseur (HTND) những ngƣời là thành viên không giữ chức
vụ chủ tịch, thƣ ký hay kế toán trƣởng trong cơ quan điều hành của các tổ chức xã
11
hội. Từ những điều đã trình bày trên, có thể thấy, ở nƣớc ta, chế định HTND chính
thức chỉ xuất hiện từ năm 1945 trở lại đây với hai tên gọi thay thế nhau theo thời
gian là “phụ thẩm" và “HTND". Có thể nói “phụ thẩm" và "HTND" là hai thuật ngữ
tƣơng đƣơng ngang nghĩa nhau song khải niệm "phụ thẩm" đƣợc sử dụng trƣớc năm
1950. Từ năm 1950 đến nay, chúng ta thống nhất dùng thuật ngữ “HTND". So sánh
với quan niệm của các nhà khoa học pháp lý Liên Xơ trƣớc đây, có thể thấy quan
niệm của giới nghiên cứu luật học Việt Nam về “HTND" chịu ảnh hƣởng của
trƣờng phái pháp luật Xô viết.
Mặt khác, sự tham gia của HTND trong xét xử làm tăng cƣờng tính chất dân
chủ trong hoạt động xét xử của Toà án. HTND là những ngƣời đƣợc Hội đồng nhân
dân cùng cấp tín nhiệm bầu ra, thay mặt cho nhân dân tham gia hoạt động xét xử
các vụ án sơ thẩm, đảm bảo cho hoạt động xét xử đúng ngƣời, đúng tội và đúng
pháp luật. Sự tham gia của HTND trong xét xử vụ án tại Toà án thể hiện sự tham
gia của nhân dân vào quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội. Thông qua hoạt động xét xử
các vụ án của HTND cùng với Thẩm phán chuyên nghiệp, để nhân dân tham gia
vào công việc của Nhà nƣớc và xã hội, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo các
bản án của Tồ án tun chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng
của quần chúng nhân dân. Mặt khác, HTND là ngƣời sinh sống trong các cụm dân
cƣ, làm việc trong cơ quan, xỉ nghiệp trƣờng học, đơn vị sản xuất ... là ngƣời có
kinh nghiệm hoạt động xã hội, có mối quan hệ khá rộng với nhiều tầng lớp dân cƣ,
nên có khả năng hiểu đặc điểm, hoàn cảnh, tâm lý của ngƣời vi phạm pháp luật nói
chung, ngƣời phạm tội nói riêng, từ đó giúp Toà án giải quyết vụ án kịp thời và
đúng đắn, phù hợp nguyện vọng quần chúng nhân dân, đáp ứng u cầu đấu tranh
phịng chống tội phạm. Thơng qua hoạt động của HTND, Tồ án có điều kiện nắm
bắt ý kiến quần chúng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Toà án; giúp quần
chúng nhân dân hiểu rõ về hoạt động của Tồ án nói chung, hoạt động xét xử nói
riêng. Quần chúng nhân dân đƣợc nâng cao ý thức pháp luật, tự giác chấp hành và
bảo vệ pháp luật. HTND cịn góp phần tun truyền, phổ biến pháp luật nói chung,
kết quả xét xử các vụ án cho quần chúng nhân dân nói riêng Là những ngƣời cùng
12
sinh sống, làm việc trong các cụm dân cƣ, các đơn vị sản xuất, các cơ quan hành
chính, sự nghiệp; ngƣời có sự hiểu biết pháp luật nhất định. Sau mỗi phiên toà,
HTND trở về với dân cƣ nơi sinh sống và nơi làm việc, nên HTND có điều kiện phổ
biến pháp luật và kết quả xét xử vụ án của Toà án cho quần chúng nhân dân [32].
Nhƣ vậy, HTND là người đại diện của nhân dân, được bầu hoặc cử theo quy
định của pháp luật để cùng thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc
thẩm quyền của Toà án để giúp Toà án giải quyết vụ án kịp thời và đúng đắn, phủ
hợp nguyện vọng quần chủng nhân dân, đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp
trong xã hội [4].
Thứ hai, về khái niệm TTDS
Xét về thuật ngữ, Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của tác giả Nguyễn Lân, tố
tụng đƣợc hiểu là “việc kiện cáo trước Toà án”. Xét về pháp lý, trên thế giới có
nhiều hệ thống pháp luật khác nhau trong đó có hai hệ thống luật cơ bản chi phối
đến sự hình thành và phát triển pháp luật của các nƣớc đó là hệ thống thơng luật
(Common Law) và hệ thống dân luật (Civil Law). Mỗi hệ thống luật có những cách
hiểu khác nhau về TTDS. Quan niệm thứ nhất cho rằng, các nƣớc trong hệ thống
thông luật (Common Law) theo mơ hình tố tụng tranh tụng khơng có sự phân biệt
giữa luật cơng và luật tƣ, trừ hệ thống pháp luật Anh [26, tr. 200]. Quan niệm thứ
hai cho rằng, các nƣớc theo hệ thống dân luật (Civil Law) theo mơ hình tố tụng xét
hỏi lại có sự phân biệt giữa luật công và luật tƣ. Mặc dù có cách tiếp cận khác nhau
về khái niệm TTDS nhƣng nhìn chung cả hai truyền thống pháp luật đề có cách hiểu
chung TTDS là trình tự, thủ tục để giải quyết đối các tranh chấp dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động.
Theo Giáo sƣ Vũ Văn mẫu, “tố tụng” tức là “thủ tục kiện cáo”. Hay theo phân
tích của Giáo sƣ Nguyễn Huy Đẩu từ việc nghiên cứu luật của Nhật Bản và Pháp thì
nói đến “tố tụng” là nói đến “mơn luật liên quan đến Tồ án, đến quyền tư pháp” và
theo đó, TTDS là “định lệ tổ chức việc chi phối là điều hành công lý, đặt ra để đảm
bảo cho tư nhân các chế tài và tôn trọng quyền lợi trong tư luật”. Trong khoa học pháp
lý ngày nay, TTDS đƣợc lý giải là thủ tục giải quyết VVDS tại Toà án [5, tr. 10].
13
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: TTDS là quy trình, thủ tục do pháp
luật quy định để giải quyết các tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật
dân sự (theo nghĩa rộng) tại Toà án.
Nhƣ vậy, có thể định nghĩa HTND trong TTDS là người đại diện của nhân
dân, được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để cùng thẩm phán thực hiện
nhiệm vụ xét xử những VADS thuộc thẩm quyền của Toà án để giúp Toà án giải
quyết VADS theo thủ tục TTDS kịp thời và đúng đắn, phù hợp nguyện vọng quần
chủng nhân dân, đáp ứng yêu cầu giải quyết các tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ
quan hệ pháp luật dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự
Với tƣ cách là ngƣời đại diện của nhân dân, đƣợc bầu hoặc cử theo quy định
của pháp luật để cùng thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc
thẩm quyền của Toà án để giúp Toà án giải quyết vụ án kịp thời và đúng đắn, phủ
hợp nguyện vọng quần chủng nhân dân, đáp ứng yêu cầu giải quyết các tranh chấp,
yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự. HTND có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, HTND là những người đại diện của nhân dân tham gia vào quá
trình xét xử VADS
Với tƣ cách là cơ quan thực hiện chức năng tƣ pháp và xét xử của một nhà
nƣớc, Tồ án ln có một vị thế hết sức đặc biệt. Cùng với lập pháp, hành pháp thì
tƣ pháp đƣợc hiểu là quyền xét xử hoặc để chỉ một nhánh quyền lực nhà nƣớc phụ
trách công việc xét xử và bảo vệ pháp luật. Nhằm để cho các phán quyết của Toà án
đƣợc đƣa ra đúng pháp luật, thể hiện sự công bằng, dân chủ nên vấn đề có HTND
hay bồi thẩm đồn, phụ thẩm tham gia HĐXX cùng với Thẩm phán luôn đƣợc quan
tâm, ghi nhận và thực hiện ở các nƣớc khác nhau.
Từ xa xƣa, ngƣời Hy Lạp cổ đại đã có HTND tham gia xét xử và việc có nhiều
hay ít HTND tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của phiên tòa, nhƣng bao giờ cũng
là số lẻ. Tại Mỹ sự tham gia của ngƣời dân vào hoạt động xét xử cũng đƣợc quy định
khá chặt chẽ thơng qua Bồi thẩm đồn, cịn ở Nhật Bản khi xét xử một số vụ án sơ
thẩm quan trọng thì HĐXX bao gồm 3 Thẩm phán và 6 HTND [15, tr. 37].
14
Tại Trung Quốc, pháp luật tạo điều kiện cho ngƣời dân tham gia vào hoạt
động tố tụng bằng việc quy định chế độ HTND. Chế độ HTND là chế độ xét xử
trong đó Thẩm phán và HTND viên nhân dân cùng tham gia Toà hợp nghị để tiến
hành xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự và hành chính theo quy định của
pháp luật. Điều 10 LTCTAND Trung Quốc năm 1954 có quy định, Tồ hợp nghị do
các Thẩm phán tham gia hoặc Thẩm phán và HTND cùng tham gia tiến hành xét xử
sơ thẩm các vụ án mà Toà án nhân dân đã thụ lý hồ sơ.
Ở nƣớc ta, HTND là thành phần không thể thiếu trong HĐXX sơ thẩm các
VADS. Việc tham gia của HTND vào thành phần HĐXX là sự thể hiện bản chất
dân chủ nhân dân của Nhà nƣớc ta, biểu hiện cho nền dân chủ trong hoạt động tƣ
pháp. Theo tác giả Tân Chi: “Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đối
với cơng tác xét xử cịn được thực hiện bằng chế độ HTND vì các HTND là đại
diện của nhân dân tham gia xét xử. Họ giúp cho việc xét xử được chính xác vì họ
là những người sát với sản xuất và sinh hoạt của quần chúng” [15, tr. 37]. Nhƣ
vậy, dù theo các mơ hình pháp luật khác nhau nhƣng pháp luật mỗi quốc gia đều
có các quy định về chủ thể đại diện cho lợi ích, tiếng nói của nhân dân tham gia
vào q trình TTDS.
Thứ hai, HTND là những cá nhân được tuyển chọn theo những quy trình
mang tính đại diện và do cơ quan có thẩm quyền bầu ra
Ở Việt Nam, xuất phát từ việc “để thực hiện chế độ dân chủ trong việc xây
dựng hệ thống Toà án, Hiến pháp quy định các thẩm phán và HTND đều do các cơ
quan quyền lực bầu và có thể bị cơ quan quyền lực bãi miễn”. Vì vậy,
HTND khác với thẩm phán là khơng chun mơn làm cơng tác Tồ án,
mà là những ngƣời trực tiếp tham gia sản xuất hoặc công tác trong các
ngành. Hàng ngày sống và làm việc trong quần chúng, các HTND hiểu
rõ mọi mặt trong đời sống xã hội nên có thể tham gia ý kiến quyết định
cơng việc xét xử của Toà án một cách khách quan [11, tr.72].
Theo LTCTAND năm 1960 thì Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội chỉ cử các
HTND cho từng vụ án mà TANDTC xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. LTCTAND
15
năm 1981 quy định TANDTC có sẵn một danh sách HTND của TANDTC do Hội
đồng nhà nƣớc cử theo sự giới thiệu của Đoàn chủ tịch Uỷ ban trung ƣơng Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Các HTND của TAND địa phƣơng do hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phƣơng.
Nhiệm kì của các HTND của TAND địa phƣơng là 2 năm, nhiệm kì của HTND của
TANDTC là 2 năm rƣỡi vì nhiệm kì của Quốc hội là 5 năm cho nên trong mỗi khoá,
Hội đồng nhà nƣớc sẽ 2 lần cử HTND cho TANDTC.
Theo Điều 17 LTCTAND năm 2014 thì:
Chế độ bầu HTND đƣợc thực hiện đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ƣơng, Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng. Chế độ cử HTND quân nhân đƣợc
thực hiện đối với Toà án quân sự quân khu và tƣơng đƣơng, Toà án
quân sự khu vực.
Nhƣ vậy, HTND do Hội đồng nhân dân tƣơng ứng với cấp Toà án sơ thẩm
bầu theo sự lựa chọn và giới thiệu của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, để chọn bồi thẩm viên, Tồ án sẽ triệu tập một số
cơng dân vào hầu toà rồi mở cuộc rút thăm. Tiêu chuẩn lựa chọn là vơ tƣ, tránh có
định kiến. Luật sƣ hai bên bị cáo và nguyên cáo có quyền chất vấn những ngƣời
đƣợc chọn rồi loại bỏ nếu bồi thẩm viên đã có sẵn thành kiến (quy trình “voir
dire”). Bồi thẩm đồn sau đó sẽ chọn một ngƣời làm trƣởng đoàn. Một số trƣờng
hợp Toà án sẽ ấn định ngƣời trƣởng đoàn, tuỳ pháp luật của các bang. Trƣởng
đoàn có trách nhiệm đệ trình lên chánh án những câu hỏi của Bồi thẩm đoàn và
cũng là ngƣời đại diện của Bồi thẩm đoàn khi tuyên án [11, tr.72]. Nhƣ vậy, dƣới
góc độ so sánh nếu Bồi thẩm đồn đƣợc lựa chọn ngẫu nhiên thì HTND do Tồ
án đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu
ngƣời đủ tiêu chuẩn để hội đồng nhân dân có thẩm quyền theo luật định. Quy
trình lựa chọn HTND cơ bản đáp ứng đƣợc yêu cầu lựa chọn cá nhân đủ tiêu
chuẩn đại diện lợi ích, tiếng nói cho nhân dân.
Có thể nhận xét rằng, việc thực hiện chế độ bầu cử các thẩm phán và HTND
16
nhƣ đã nêu trên cho thấy rằng nhân dân lao động hiện nay đã thực sự là những
ngƣời nắm quyền xét xử của các TAND, thực hiện quan điểm của Lênin là trong
chế độ xã hội chủ nghĩa, quần chúng nhân dân là ngƣời thẩm phán của chính mình.
Thứ ba, HTND hoạt động theo nhiệm kì
HTND gồm những ngƣời đƣợc bầu, cử hoặc bổ nhiệm tùy theo pháp luật của
mỗi nƣớc. Nhiệm kỳ của HTND theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra họ. Việc đảm
nhiệm cƣơng vị HTND là quyền và nghĩa vụ của công dân. HTND tham gia xét xử
sơ thẩm hầu hết các vụ án hình sự, dân sự và hành chính. Tuy nhiên, khơng phải tất
cả các phiên tịa dân sự đều có HTND tham gia. Công dân muốn đƣợc làm HTND
phải hội đủ các tiêu chuẩn: Trung thành với Hiến pháp; đủ độ tuổi nhất định; tuân
thủ kỷ luật và pháp luật, có tƣ cách đạo đức, cơng bằng; có đủ sức khỏe làm việc.
Theo quy định pháp luật TTDS Trung Quốc, một ứng viên thỏa mãn các điều
kiện trên có thể đƣợc đề cử hoặc ứng cử. Số lƣợng đề cử không đƣợc vƣợt quá 1/5
tổng số HTND. Sau khi TAND cấp cơ sở và phòng tƣ pháp thẩm định, danh sách
các ứng viên đạt yêu cầu sẽ đƣợc trình lên chánh án TAND cấp cơ sở. Chánh án sẽ
có quyền đệ trình danh sách này lên Hội đồng nhân dân cùng cấp để bổ nhiệm
HTND. Quyết định bổ nhiệm phải đƣợc thông báo đến ngƣời đƣợc bổ nhiệm cũng
nhƣ đơn vị đề cử bằng văn bản. Ngƣời đƣợc lựa chọn làm HTND sẽ đƣợc cấp
“Giấy chứng nhận HTND” theo mẫu thống nhất của TANDTC. Tổng số HTND
không vƣợt quá 3 lần tổng số Thẩm phán của Toà án cùng cấp [5, tr. 10].
Nhiệm kỳ của HTND là 5 năm. HTND đƣơng nhiên miễn nhiệm khi hết nhiệm
kỳ mà không cần phê chuẩn của Hội đồng nhân dân. TAND cấp cơ sở có trách nhiệm
thông báo bằng văn bản cho cá nhân HTND viên và cơ quan cơng tác, chính quyền địa
phƣơng nơi cƣ trú. TAND cấp cơ sở cũng chịu trách nhiệm xóa tên HTND viên khỏi
danh sách HTND, báo cáo lên TAND cấp trên và thơng báo rộng rãi.
1.1.3. Vị trí của hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự
Ở nƣớc ta, việc tham gia của HTND - những ngƣời đại diện của nhân dân
vào q trình xét xử của Tồ án đƣợc Nhà nƣớc ta ghi nhận là một nguyên tắc hiến
định, đƣợc ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp. HTND chính là những cá nhân
17
đƣợc nhân dân tín nhiệm bầu ra (thơng qua Hội đồng nhân dân cùng cấp), đại diện
cho ngƣời dân địa phƣơng tham gia vào hoạt động xét xử tại các Tồ án dân sự ở
khu vực của mình. HTND có địa vị pháp lý và vai trò rất quan trọng trong cơng tác
xét xử, vì khi tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, HTND chiếm đa số trong HÐXX (2/3
hoặc 3/5) và khi xét xử HTND ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết các vấn
đề của vụ án. Nhận thức thật đúng đắn về vai trò, tỉnh chất của HTND là hết sức cần
thiết để đáp ứng đƣợc đòi hỏi của thực tế, tránh những quy định mang tính hình
thức và những lãng phí về mặt xã hội, phát huy đƣợc quyền làm chủ của nhân dân,
giúp cho Tồ án ban hành đƣợc những bản án “thấu tình, đạt lý". Khi tham gia xét
xử các VADS vị trí của HTND đƣợc xác định nhƣ sau:
Thử nhất, HTND là những người do nhân dân bầu ra thông qua việc tham
gia vào quá trình xét xử mà thực hiện quyền tư pháp do nhân dân giao phó, giúp
nhân dân quản lý có hiệu quả lĩnh vực tư pháp
Sự tham gia của HTND vào hoạt động xét xử của Toà án nhằm bảo đảm
nguyên tắc quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân, nhân dân tham gia vào mọi
hoạt động của Nhà nƣớc. Cùng với Thẩm phán, HTND trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình nhân danh nhà nƣớc để đƣa ra phán quyết giải quyết vụ án
đúng pháp luật, cơng bằng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân và bảo
đảm pháp chế XHCN; thông qua việc tham gia vào quá trình xét xử để thực hiện
quyền tƣ pháp do nhân dân giao phó, giúp nhân dân quản lý có hiệu quả lĩnh vực
tƣ pháp. Để làm đƣợc điều đó, HTND khơng những phải vơ tƣ, khách quan mà
cịn phải có tầm nhìn, có bản lĩnh, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Mặc dù
việc xét xử cơng khai cũng là một hình thức để nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt
động xét xử của Toà án, nhƣng đây chỉ là sự giám sát bề ngoài, mang tính hình
thức, khơng đáp ứng đƣợc nguyện vọng của nhân dân và cũng khơng phát huy một
cách có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, cần phải để nhân dân tham
gia vào hoạt động xét xử của Tồ án thơng qua HTND. "Nếu coi ngun tắc xét
xử cơng khai là sự kiểm tra có tính chất tổng thể, chung nhất của xã hội đối với
hoạt động xét xử của Tồ án thì ngun tắc HTND tham gia xét xử là sự kiểm tra
18