Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Pháp luật việt nam về hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ANH THƯ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ANH THƯ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đức Minh

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán hàng


hoá qua Sở giao dịch hàng hố” là cơng trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các
kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác; đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung trực. Việc tham khảo các nguồn tài
liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định.
Vậy kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Trân trọng cảm ơn./.

.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Anh Thư


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA..........................8
1.1 Lý luận về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa .....8
1.1.1 Khái qt lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động mua bán hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam .......................................................8
1.1.2 Khái niệm mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hoá ....................11
1.1.3 Đặc điểm pháp lý cơ bản của mua bán hàng hóa qua SGDHH.............14
1.2 Khái quát nhận thức về pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch hàng hóa .........................................................................................20

1.2.1 Khái niệm pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hoá ............................................................................................................20
1.2.2 Đặc điểm của pháp luật về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch
hàng hoá ............................................................................................................22
1.2.3 Nội dung pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hố ............................................................................................................24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................29
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG MUA
BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
...................................................................................................................................30
2.1 Thực trạng pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa......................................30
2.1.1 Quy định về tư cách pháp lý và chức năng của Sở giao dịch hàng hoá 31


2.1.2 Quy định về điều kiện thành lập và chấm dứt hoạt động đối với Sở giao
dịch hàng hoá ....................................................................................................34
2.1.3 Quy định về tổ chức, hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá .................40
2.1.4 Việc liên kết các Sở giao dịch hàng hoá trong nước và quốc tế ...........46
2.2 Thực trạng pháp luật về các chủ thể tham gia mua bán giao dịch qua Sở
giao dịch hàng hóa ..............................................................................................46
2.2.1 Quy định về khái niệm các chủ thể tham gia giao dịch .........................46
2.2.2 Quy định về điều kiện trở thành chủ thể giao dịch................................48
2.2.3 Quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao dịch ....54
2.2.4 Quy định về chấm dứt tư cách chủ thể giao dịch ..................................58
2.2.5 Quy định về nhà đầu tư nước ngoài được tham gia giao dịch tại Sở giao
dịch hàng hoá ở Việt Nam ................................................................................61
2.3 Thực trạng pháp luật về các hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa .........................................................61
2.3.1 Quy định về khái niệm các loại hợp đồng .............................................62
2.3.2 Quy định về nội dung các loại hợp đồng ...............................................70

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................88
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH
HÀNG HĨA .............................................................................................................89
3.1 Phương hướng hồn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán
hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa .................................................................89
3.1.1 Hồn thiện pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hoá theo yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam ..........................................................................................89
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hố theo u cầu hội nhập kinh tế quốc tế ...............................................90
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hoá ..........................................................................92


3.2.1 Sửa đổi quy định về khái niệm “mua bán hàng hố qua Sở giao dịch hàng
hố”

...............................................................................................................92

3.2.2 Hồn thiện các quy định pháp luật về tổ chức hoạt động của Sở giao dịch
hàng hố ............................................................................................................93
3.2.3 Hồn thiện các quy định pháp luật về các chủ thể tham gia giao dịch qua
Sở giao dịch hàng hố ......................................................................................95
3.2.4 Hồn thiện các quy định pháp luật về các hợp đồng liên quan đến hoạt
động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá ......................................100
3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật Việt Nam về hoạt động
mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá ...............................................103
3.3.1 Nâng cao nhận thức về vai trò của hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở
giao dịch hàng hoá ..........................................................................................104

3.3.2 Nâng cao kiến thức, kỹ năng của các thương nhân và những chủ thể quản
lý và tham gia trực tiếp vào hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng
hoá

.............................................................................................................104

3.3.3 Tập trung xây dựng, vận hành các thiết chế bổ trợ cho hoạt động mua
bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hố bao gồm: các chính sách về thuế, phí,
lệ phí áp dụng đối với hoạt động mua bán hàng hố qua Sở giao dịch hàng hố
và các chính sách liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và chuyển ngoại
tệ từ nước ngoài vào Việt Nam.......................................................................106
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................108
KẾT LUẬN ............................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................111


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Sở giao dịch hàng hoá

SGDHH

Sở giao dịch

SGD


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH đã xuất hiện từ khá lâu ở nhiều
nước trên thế giới. Mục đích ban đầu của các thương nhân khi tham gia hoạt động

này là giải quyết tình trạng dư thừa hoặc khan hiếm hàng hóa, đặc biệt là những sản
phẩm nơng nghiệp vào những thời điểm nhất định trong năm. Cùng với sự tham gia
rộng rãi của các thương nhân cũng như sự phát triển của nền kinh tế thị trường, mua
bán hàng hóa qua SGDHH dần được các thương nhân sử dụng để bảo hiểm rủi ro cho
hoạt động kinh doanh hàng hóa và đầu cơ nhằm tìm kiếm lợi nhuận. SGDHH các
nước ngày nay trở thành sản giao dịch tài chính cao cấp và chuyên nghiệp, thu hút
một số lượng đơng đảo các nhà đầu tư trong và ngồi nước tham gia.
Tại Việt Nam, chúng ta đã hình thành được một số SGDHH như Trung tâm
giao dịch thủy sản Cần Giờ (Cangio ATC), Sàn giao dịch hạt điều, Sàn giao dịch
Sacom – STE, Sở giao dịch Hàng hóa và Cà phê Bn Mê Thuột (BCCE), Sở giao
dịch hàng hóa Việt Nam (MVX), Sở giao dịch hàng hóa INFO (INFO COMEX)…
Tuy nhiên, số lượng các hợp đồng mua bán qua các SGDHH khá ít ỏi và vì nhiều lý
do khác nhau mà các SGDHH này đã đóng cửa hoặc đang trong tình trạng hoạt động
cầm chừng. Hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH cho đến nay vẫn là một khái
niệm khá xa lạ với người dân, những nhà sản xuất, thậm chí cả các nhà đầu tư.
Một trong những ngun nhân chính dẫn đến tình trạng này là do cơ sở pháp
lý đối với hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH ở nước ta vẫn cịn nhiều hạn
chế, xuất phát từ nhận thức của các nhà lập pháp và các thương nhân về hoạt động
này chưa thật đầy đủ và sâu sắc. Mặc dù chúng ta đã có những quy định pháp luật
điều chỉnh trong Luật Thương mại 2005; Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ngày 28
tháng 12 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa; Nghị định số 51/2018/NĐ-CP ngày 09
tháng 4 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bố sung một số điều của Nghị định số
158/2006/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật
1


Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa và một số
văn bản hướng dẫn khác, nhưng những quy định này mới chỉ dừng lại ở các khái niệm
cơ bản, thành lập và chức năng của SGDHH, chủ thể, quyền và nghĩa vụ của các chủ

thể… tham gia vào hoạt động mua bán thông qua SGD chứ chưa tạo một hành lang
pháp lý cụ thể để các thương nhân có thể thực sự tham gia vào thị trường một cách
nhanh chóng và hiệu quả.
Đứng trước bối cảnh nhiều vấn đề thực tiễn và vấn đề pháp lý liên quan đến
hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH đang được đặt ra và cần được làm sáng tỏ
bởi các cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập, chuyên sâu để từng bước giúp triển
khai hoạt động này một cách nhanh chóng, hiệu quả và sâu rộng trên thị trường, tác
giả đã chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa” để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở các nước nơi hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH phát triển sơi động,
đã có nhiều cơng trình khoa học của các tác giả nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên,
các cơng trình nghiên cứu chủ yếu phân tích ở khía cạnh kinh tế của hoạt động mua
bán hàng hóa qua SGDHH, của các cơng cụ tài chính phái sinh là hợp đồng tương lai,
hợp đồng quyền chọn. Có thể kể đến một vài cơng trình như:
Corkish (1997), trong báo cáo “Những yếu tố quyết định thành cơng của đổi
mới tài chính: Phân tích thực tiễn từ sự thành công của công cụ phái sinh tương lai
tại LIFFE” đã chỉ ra sự thành công của hợp đồng niêm yết trên Sở giao dịch hàng
hóa và mối quan hệ giữa khối lượng giao dịch và quy mô thị trường.
Sitko & Jayne (2011), trong tài liệu “Những cản trở để phát triển Sở giao
dịch hàng hóa tại Châu Phi: Nghiên cứu tại ZAMACE” đã nghiên cứu từ góc độ
những khó khăn, vướng mắc của SGDHH trong q trình hoạt động, với bối cảnh
SGDHH nông sản của một số quốc gia tại Châu Phi được hỗ trợ của Chính phủ nhằm
giải quyết những vấn đề hạn chế của thị trường lương thực.
Belozertsev, Rutten & Hollinger (2011), trong nghiên cứu “Sở giao dịch
2


hàng hóa tại Châu Âu và Trung Á” đã tập trung tìm hiểu nhằm cải thiện các cơng cụ
quản lý rủi ro và bàn luận phương thức đưa ra các công cụ quản lý rủi ro do SGDHH

cung cấp.
Đối với Việt Nam, mua bán hàng hóa qua SGDHH là vấn đề vẫn cịn tương
đối mới mẻ nên chỉ có một số ít cơng trình nghiên cứu về vấn đề này nhưng phần
nhiều là dưới góc độ kinh tế, cụ thể như:
Viện nghiên cứu thương mại – Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) với
cuốn sách chuyên khảo “Thị trường hàng hóa giao sau”, do NXB Lao động xuất bản
năm 2000. Trong cuốn sách này, các tác giả đã khái quát sơ lược về cơ sở hình thành,
khái niệm, một số đặc điểm và vai trò của thị trường hàng hóa giao sau.
Cũng dưới góc độ tìm hiểu về thị trường hàng hoá giao sau, tác giả Nguyễn
Văn Nam (2004), trong Đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu điều kiện hình thành
sàn giao dịch nơng sản tại Việt Nam” đã nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để
hình thành thị trường hàng hóa giao sau của Việt Nam. Bước đầu Đề tài đã chuyển
hoá một số khái niệm, kiến thức ban đầu và sơ khai về thị trường giao dịch hàng hố
giao sau nói chung và SGDHH nói riêng tại Việt Nam. Đề tài được thực hiện trong
bối cảnh Việt Nam chưa có đơn vị, tổ chức thực hiện hoạt động giao dịch hàng hoá
giao sau, cũng như chưa có văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của các SGDHH;
vì vậy, nghiên cứu cịn có một số hạn chế nhất định.
Cùng đứng trên góc độ tiếp cận từ mơi trường kinh tế có thể kể đến tác giả
Nguyễn Lương Thanh (2010), trong Luận án Tiến sĩ “Sự hình thành thị trường hàng
hố giao sau cho một số nơng sản ở Việt Nam”. Ngồi ra, tác giả Đỗ Trọng Hiếu
(2017), trong Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu cơ sở khoa học phát triển Sở giao dịch
hàng hoá tại Việt Nam” đã tập trung nghiên cứu các điều kiện tiềm năng và những
thách thức để phát triển SGDHH tại Việt Nam.
Một cơng trình nghiên cứu khác khơng thể kể đến là cuốn sách tham khảo “Sở
giao dịch hàng hóa – Tương lai của thị trường nơng sản Việt Nam” của Trường đại
học Kinh tế quốc dân (2017).

3



Dưới góc độ pháp lý để nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động
mua bán hàng hóa qua SGDHH và pháp luật điều chỉnh hoạt động này, ta có thể kể
đến tác giả Nguyễn Thị Yến (2011), trong Luận án Tiến sĩ “Pháp luật điều chỉnh
hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam”. Luận án đã
phân tích, đánhgiá thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua
SGDHH ở Việt Nam trong quan hệ so sánh với pháp luật của một số nước trên thế
giới; đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
mua bán hàng hóa qua SGDHH ở Việt Nam.
Ngoài ra, trong thời gian qua, lĩnh vực khoa học pháp lý cũng đã ghi nhận
thêm một số công trình nghiên cứu về hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH như:
- Tác giả Nguyễn Thị Dung với bài viết “Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền
chọn trên thị trường hàng hóa giao sau” đăng trên Tạp chí Luật học, số 10/2007,
tr.09 – 13;
- Tác giả Bùi Thanh Lam với bài viết “Mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch
hàng hố” đăng trên Tạp chí Luật học, số 1/2008, tr.26 – 32;
- Tác giả Nguyễn Viết Tý với bài viết “Quan niệm về thị trường hàng hóa
giao sau và mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa” đăng trên Tạp chí Luật
học, số 1/2010, tr.64;
- Tác giả Nguyễn Thị Yến với bài viết “Đặc trưng cơ bản của quan hệ mua
bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá theo pháp luật Việt Nam” đăng trên Tạp
chí Luật học, số 6/2007, tr.69 – 73; và bài viết “Các chủ thể tham gia giao dịch tren
Sở giao dịch hàng hố” đăng trên Tạp chí Luật học, số 7/2009, tr.61 – 66.
Tổng hợp kết quả các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài cho thấy, các
công trình đã ít nhiều góp phần vào việc hồn thiện hệ thống pháp luật của nước ta
về hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH. Tuy nhiên, đa số các cơng trình nghiên
cứu mới chỉ dừng lại ở các bài viết trên các tạp chí khoa học và chưa thực sự được áp
dụng thực tiễn đời sống. Đồng thời, các nghiên cứu này cũng chưa tập trung đưa ra
các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động
4



mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Đứng trước bối cảnh nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn đang tiếp tục được đặt ra và cần được cập nhật trong pháp luật hiện
hành, tác giả xác định đây là vấn đề cấp thiết cần được giải quyết triệt để trong tiến
trình hồn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa. Vì vậy, cần thiết có nhiều hơn nữa các nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
này, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính áp dụng thực tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật
hiện hành về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa; từ đó đề xuất
giải pháp hồn thiện chế định này.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần thực hiện nhiệm vụ cụ thể sau:
 Cung cấp nhận thức lý luận cơ bản về hoạt động mua bán hàng hóa qua
SGDHH và pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH;
 Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua
SGDHH ở Việt Nam hiện nay;
 Kiến nghị, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động
mua bán hàng hóa qua SGDHH tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy phạm pháp luật hiện hành liên
quan trực tiếp đến hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH, được ghi nhận trong
Luật Thương mại 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH tại Việt Nam,
5


không mở rộng phạm vi nghiên cứu sang các hàng hóa đã được giao dịch trên các sàn
giao dịch khác như chứng khoán (giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán), giá trị
quyền sử dụng đất (giao dịch trên sàn giao dịch bất động sản)…
Ngoài ra, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan dưới góc độ
luật kinh tế, không mở rộng sang lĩnh vực luật hành chính.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu và thực hiện luận văn, người viết vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học nói chung và phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý nói riêng, cụ thể:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin: Phương pháp này được vận dụng để luận giải nguyên
nhân ra đời, những vấn đề lý luận về hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH và
khái quá nhận thức pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH.
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương pháp so sánh luật
học: Những phương pháp này được sử dụng để phân tích thực trạng pháp luật về hoạt
động mua bán hàng hóa qua và thực tiễn thi hành tại tại Việt Nam.
Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch: Những phương pháp này
được vận dụng để đưa ra các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động

mua bán hàng hóa qua SGDHH ở Việt Nam.
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Luận văn đạt được những kết quả nghiên cứu mới như sau:
 Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các cơng trình nghiên cứu khoa học
trước đó, Luận văn hệ thống hóa và làm rõ nhận thức về pháp luật về hoạt
động mua bán hàng hóa qua SGDHH, thể hiện thơng qua việc xây dựng khái
niệm, đặc điểm của chế định này trong hệ thống pháp luật thương mại và xác
định rõ nội dung của chế định pháp luật này;

6


 Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động mua bán hàng
hóa qua SGDHH ở Việt Nam; chỉ ra những điểm phù hợp và hạn chế, bất cập
của pháp luật hiện hành về từng nội dung cụ thể của chế định này;
 Luận văn xác định phương hướng căn bản và đề xuất hoàn thiện các quy định
pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH;
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán
hàng hóa qua SGDHH trong thời gian tới, tổ chức và thực hiện chế định pháp luật
này trong thực tiễn; trong giảng dạy và nghiên cứu liên quan đến Luật Thương
mại, Luật Tài chính, Luật Chứng khốn….
7. Bố cục của luận văn
Ngồi lời nói nói đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch hàng hóa và pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa.




Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch hàng hóa và thực tiễn thi hành.



Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA VÀ PHÁP
LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ
GIAO DỊCH HÀNG HÓA
1.1

Lý luận về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa

1.1.1 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động mua bán hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam
Thị trường hàng hóa đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và được tổ chức rất
chuyên nghiệp với nhiều SGDHH lớn ở Mỹ, Anh, Nhật,… Cùng với đó là các SGD
của nhiều nước đã được liên thông với nhau để các nhà đầu tư có thể tiến hành giao
dịch mua bán hàng hóa ở nhiều nơi trên thế giới.
Tại Việt Nam, từ xa xưa ở các vùng nông thôn đã xuất hiện hoạt động “bán
lúa non” – hoạt động của những người nông dân bán những ruộng lúa của mình cho

tư thương trước khi thu hoạch với giá cả được thoả thuận vào thời điểm giao kết hợp
đồng và giao hàng khi đến vụ thu hoạch. Tuy nhiên, do việc mua bán diễn ra ở quy
mô nhỏ và mang tính chất tự phát nên quan hệ này hỉ dừng lại ở các quan hệ dân sự
giữa người nông dân và tư thương. Đến thời Pháp thuộc, loại hình chợ đầu mối nơng
sản đã được hình thành, nhưng mơ hình này chỉ thực sự xuất hiện hàng loạt thời gian
gần đây theo Chương trình phát triển chợ đến năm 2010 của Bộ Thương mại (nay là
Bộ Công thương) [16, tr. 16].
Mơ hình chợ đầu mối diễn ra khá phổ biển ở Việt Nam hiện nay. Mục đích
chính của chợ đầu mối là giúp người sản xuất rút ngắn thời gian, giảm chi phí và
thuận lợi trong khâu tiêu thụ hàng hóa. Theo đó, các thương nhân thực hiện trao đổi,
mua bán một số lượng lớn hàng nông sản, thuỷ hải sản như: chợ gạo ở Tiền Giang,
chợ cà phê ở Buôn Ma Thuộc, chợ trái cây ở Đồng Tháp… Tại đây, phương thức giao
dịch chủ yếu là giao ngay, tức là trả giả và giao hàng ngay tại thời điểm hiện tại.
8


Ngồi ra, các bên cũng có thể thoả thuận về giá hàng hoá được giao dịch tại chợ vào
thời điểm hiện tại, nhưng việc giao hàng và thanh toán sẽ diễn ra vào một thời điểm
nhất định trong tương lai (giao sau). Tuy nhiên, cả hai phương thức này đều diễn ra
trực tiếp giữa các thương nhân, tức người mua và người bán, mà không qua bất kỳ
chủ thể trung gian nào khác. Hơn nữa, phương thức giao sau ít được các bên lựa chọn
để giao dịch bởi mức độ tin cậy cũng như khả năng thực hiện không thật sự được đảm
bảo như phương thức giao ngay.
Từ hình thức chợ đầu mối, bắt đầu vào đầu những năm 2000, Việt Nam đã
nâng cấp hoạt động giao dịch hàng hóa ở một quy mơ lớn hơn, tập trung hơn. Đó là
hình thức giao dịch hàng hóa trên SGDHH với những mặt hàng đóng nhiều vai trị
quan trọng trong hoạt động kinh doanh trong và ngoài nước và phải chịu nhiều rủi ro
về biến động giá khi chưa có cơ sở để cân bằng giá hàng hóa trên thị trường.
SGDHH đầu tiên được thành lập ở Việt Nam vào ngày 07/3/2002 là Sàn giao
dịch hạt điều do Hiệp hội cây điều Việt Nam phối hợp với Trung tâm giao dịch chứng

khón thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở giao dịch chứng khốn thành phố Hồ Chí Minh)
và một đối tác của Mỹ. Tuy nhiên, Sàn giao dịch hạt điều đã ngừng hoạt động sau một
phiên giao dịch đầu tiên và khơng hoạt động trở lại kể từ thời gian đó đến nay.
Đến tháng 5/2002, Sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ (viết tắt tên Tiếng Anh là
Cangio ATC) được thành lập và hoạt động theo mơ hình cơng ty, doanh nghiệp chế
biến thủy hải sản Cholimex làm chủ đầu tư dưới sự cấp phép của Ủy ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu, sàn đã thu hút được nhiều người giao dịch vì giá
sàn, sản lượng, kích cỡ tôm đều được thỏa thuận công khái, các hạng mục hỗ trợ như
bến đậu tàu, hệ thống cung cấp nước ngọt, hệ thống nước ngọt, kho lạnh được đầu tư
chất lượng. Có thời điểm lượng tơm được giao dịch tại đây chiếm đến 80% sản lượng
nuôi tại Cần Giờ. Tuy nhiên, chỉ sau vài tháng lượng tôm và người tham gia giao dịch
giảm dần, sàn dừng hoạt động do không phát sinh thêm giao dịch [12, tr. 82].
Dự án tiếp theo là Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (viết tắt tên
Tiếng Anh là BCEC). Được khởi đầu từ chương trình thí điểm xây dựng chợ đầu mối

9


của ba vùng nguyên liệu tập trung đó là Chợ lạc của Nghệ An, Chợ gạo của Cần Thơ
và Chợ cà phê của Đắk Lắk của Bộ Công Thương, sau đó thơng qua đề xuất của Uỷ
ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã nâng cấp BCEC thành Sàn giao dịch cà phê. BCEC ra
đời đã giúp cho việc phát triển giao dịch cà phê được hiện đại hóa hơn hịa nhập vào
nên kinh tế đang phát triển ở Việt Nam. Mặc dù vậy, BCEC vẫn còn tồn tại những
yếu điểm chưa được khắc phục như một số quy định dù đã được chuẩn hóa theo quy
định của sản phẩm phái sinh nhưng vẫn chưa phù hợp (quy định về số lượng cà phê
giao dịch, vị trí của hệ thống kho bãi, chưa thu hút được nhà đầu tư…) nên bước đầu
mơ hình thí điểm cho giao dịch hàng hóa giao ngay vẫn chưa thu hút được đông đảo
thành viên người sản xuất và kinh doanh tham gia.
Cùng với BCEC, vào tháng 3/2010, Sàn giao dịch hàng hóa Sài Gịn Thương
Tín Sacom được thành lập bởi Công ty cổ phần giao dịch hàng hóa Sài Gịn Thương

Tín (viết tắt tên Tiếng Anh là Sacom – STE) vớ hai mặt hàng là đường thô và đường
tinh. Rút kinh nghiệm từ các sàn đi trước, Sacom – STE đã đầu tư một hệ thống cơ
sở hạ tầng gồm có các phần mềm giao dịch, bảng điện tử, hệ thống lưu ký và đặc biệt
có tập tồn tài chính Sacombank đứng sau hỗ trợ cho giao dịch thanh toán. Là sàn ra
đời sau với sự hỗ trợ từ ngân hàng Sacombank ở trang bị và hệ thống khách hàng
nhưng các giao dịch phái sinh hàng hóa tại Sacom – STE vẫn chưa thể phát triển, đa
số các giao dịch tại sàn vẫn là mua bán ngay các hàng hóa được niêm yết. Qua 08
tháng hoạt động, khối lượng giao dịch tại mỗi phiến chỉ khoảng 10 tấn đường. Những
tháng sau đó, sàn gần như dừng hoạt động vì khơng phát sinh thêm được giao dịch từ
phía người bán [16, tr. 18].
Kể từ đó đến nay, chúng ta chỉ có Sở Giao dịch Hàng hố Việt Nam (viết tắt
tên Tiếng Anh là MXV) – Là đơn vị tổ chức thị trường giao dịch hàng hoá phái sinh
cấp quốc gia duy nhất được Bộ Công Thương cấp phép. SGDHH đầu tiên tại Việt
Nam được thành lập ngày 01/9/2010 theo giấy phép số 4596/GP-BCT của Bộ Công
thương với tên gọi tiếng Anh ban đầu là Vietnam Commodity Exchange (VNX), được
phép thực hiện các giao dịch cà phê, cao su và thép. Ngày 08/6/2018, Bộ Cơng
Thương chính thức ban hành giấy phép số 486/GP-BCT thành lập SGDHH, cho phép
10


sử dụng tên chính thức giao dịch trong nước là Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam và
tên giao dịch quốc tế là Mercantile Exchange of Vietnam (MXV).
Đến nay MXV đã có thể cung cấp cho nhiều nhà đầu tư cơ hội để giao dịch
các mặt hàng nông sản, nguyên liệu công nghiệp, năng lượng, kim loại thông qua các
thành viên kinh doanh. Việc giao dịch được thực hiện thông qua phần mềm CQG là
phần mềm cung cấp cho khả năng giao dịch hàng hóa với dữ liệu thị trường chuẩn
xác cùng với nhiều cơng cụ phân tích kỹ thuật.
Nhìn chung các SGDHH được thành lập và hoạt động từ năm 2002 đến nay
đã bắt đầu quá trình phát triển và hoàn thiện. Mỗi SGD khi mới đi vào hoạt động đều
cố gắng khắc phục thiếu sót và nhược điểm của các SGD trước đó. Tuy nhiên, hoạt

động của các SGDHH ở Việt Nam vẫn còn hạn chế do sự phức tạp và độ rủi ro trong
giao dịch cao; hiểu biết của các thương nhân về phương thức giao dịch này cịn khiêm
tốn; thói quen giao dịch nhỏ lẻ, manh mún và tự phát còn rất phổ biển trong nền kinh
tế thị trường ở nước ta; hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động này chưa đầy đủ; và
danh mục hàng hố được phép giao dịch nghèo nàn. Do đó, đa số các SGD mới chỉ
hoạt động cầm chừng hoặc chỉ tồn tại được trong một thời gian khá ngắn.
1.1.2 Khái niệm mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hố
1.1.2.1 Dưới góc độ kinh tế
Dưới góc độ kinh tế, hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH được hiểu là
phương thức mua bán hàng hóa có sự xuất hiện chủ thể trung gian là SGDHH với
những quy tắc giao dịch bắt buộc các bên tham gia phải tuân theo.
Ở phương thức mua bán này, tùy thuộc vào điều kiện của từng khách hàng,
đặc biệt là điều kiện về tài chính mà khách hàng có thể đặt lệnh trực tiếp thông qua
thành viên của SGD hoặc đặt lệnh thông qua người mơi giới của mình (nếu có). Sau
đó, người môi giới của khách hàng sẽ chuyển lệnh trực tiếp đến thành viên SGD hoặc
chuyển cho một hay một số chủ thể trung gian trước khi chuyển đến thành viên SGD.
Để đảm bảo khả năng và nghĩa vụ của mình, thơng thường khách hàng sẽ phải trả phí
cho người mơi giới nếu họ có nhu cầu và phải ký quỹ với SGDHH mà họ lựa chọn.

11


Khi một lệnh mua được khớp với một lệnh bán có nghĩa là một giao dịch đã
được thực hiện hay một hợp đồng mua bán hàng hóa đã được hình thành. Trong giao
dịch này, giá hàng hóa được bên đặt bán, bên đặt mua và được khớp lệnh không phải
là giá hàng hóa đang giao dịch trên thị trường vào thời điểm hiện tại, mà đó là giá
giao sau – mức giá được cả bên bán, bên mua tiên liệu sẽ xảy ra trong tương lai tại
thời điểm hợp đồng đến hạn, có tính đến độ rủi ro và biến động của thị trường [8].
Như vậy, SGDHH với tính chất là một cơ chế trung gian đã góp phần tạo nên
sự khác biệt của loại hình mua bán hàng hóa này với mua bán hàng hóa thơng thường

và mua bán hàng hóa tương lai ngồi SGDHH (thị trường Over the counter – OTC).
Sở giao dịch hàng hóa – chủ thể được thành lập theo đúng quy định của pháp luật –
là nơi cung cấp các điều kiện mua bán cần thiết và đảm bảo cho hoạt động mua bán
hàng hóa tương lai được tiến hành nghiêm chỉnh và có tính thực thi cao.
Ở một số quốc gia phát triển, SGDHH có phạm vi hoạt động rộng hơn với mục
tiêu khuyến khích các hoạt động giao dịch trong ngành hàng. Các giao dịch này sử
dụng các công cụ khác biệt với cơng cụ hàng hố phái sinh, ví dụ như: các giao dịch
giao ngay khi thực hiện giao hàng trực tiếp, hợp đồng kỳ hạn trên cơ sở chứng chỉ
kho hàng hoặc giao dịch các thoả thuận mua lại sản phẩm của nơng dân với mục đích
đầu tư vốn [12, tr. 62].
1.1.2.2 Dưới góc độ pháp lý
Trong nhiều cơng trình nghiên cứu cũng như các từ điển pháp lý, khái niệm
mua bán hàng hoá qua SGDHH được hiểu theo các phân tách từ hai khái niệm “mua
bán hàng hoá” và “SGDHH”.
Theo đó, hoạt động mua bán là phương thức chủ yếu để dịch chuyển tài sản
và quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Một số lượng lớn các giao
dịch dân sự diễn ra trong đời sống kinh tế hàng ngày là giao dịch mua bán tài sản.
Bản chất của mua bán tài sản là những giao dịch theo đó, người bán có nghĩa vụ giao
tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản đó cho người mua và nhận tiền, cịn người
mua có nghĩa vụ thanh toán cho người bán, nhận tài sản và quyền sở hữu tài sản theo

12


sự thoả thuận của các bên. Dựa vào chủ thể, mục đích và đối tượng của hành vi mua
bán, giao dịch mua bán có thể được phân chia thành mua bán tài sản có tính chất dân
sự và mua bán trong thương mại (mua bán hàng hoá).
Tuy nhiên, hoạt động mua bán hàng hố qua SGDHH có điểm khác biệt so với
các hoạt động mua bán hàng hoá theo phương thức truyền thống, bởi trong hoạt động
mua bán hàng hoá này có sự xuất hiện của một chủ thể đặc biệt đóng vai trị trung

gian là SGDHH. Đặc biệt, hàng hố là những đối tượng chính trong giao dịch này
phải đảm bảo đạt chuẩn về chất lượng và phải tuân thủ nguyên tắc giao dịch chặt chẽ
của các SGDHH.
Trong luận án tiến sĩ về “Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hố
qua Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam”, tác giả Nguyễn Thị Yến đã đưa ra một khái
niệm mua bán hàng hóa qua SGDHH mà tác gỉa nhận thấy khái niệm này đã khái
quát một cách tồn diện hoạt động mua bán hàng hàng hóa qua SGDHH dưới góc độ
kinh tế và pháp lý, cụ thể như sau:
Mua bán hàng hóa qua SGDHH là hoạt động mua bán hàng hóa tương lai
qua trung gian, được thực hiện trên cơ sở hợp đồng, qua đó các bên mua bán một
lượng nhất định của một loại hàng hóa xác định với giá cả được thỏa thuận vào thời
điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được ấn định vào một thời điểm trong
tương lai; hoặc mua bán quyền chọn mua, quyền chọn bán một lượng hàng hóa nhất
định với giá cả ấn định và giao hàng vào một thời điểm xác định trong tương lai.
Việc mua bán này phải tuân thủ các quy định pháp luật, quy tắc của SGDHH và
nguyên tắc của một hoặc các chủ thể trung gian. [17, tr. 22]
Ở Việt Nam, khái niệm mua bán hàng hóa SGDHH được nói đến nhiều từ
khoảng 15 năm gần đây, sau khi có những nghiên cứu về các phương thức hoạt động
giao dịch hàng hóa nơng sản hiện đại. Theo đó, Khoản 1 Điều 63 Luật Thương mại
2005 quy định:
“Mua bán hàng hóa qua SGDHH là hoạt động thương mại, theo đó các bên
thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất

13


định qua SGDHH theo những tiêu chuẩn nhất định của SGDHH với giá được thỏa
thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một
thời điểm trong tương lai.”
Việc đưa ra khái niệm “mua bán hàng hóa qua SGDHH” là một bước tiến đáng

ghi nhận của nền lập pháp Việt Nam, giúp các thương nhân Việt Nam có thể hiểu về
hoạt động mua bán hàng hóa mới mẻ này và giúp định hình quan niệm của pháp luật
Việt Nam về hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH. Theo đó, các nhà lập pháp
khẳng định hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH trước tiên là một hoạt động
thương mại, nói cách khác là mang đầy đủ tính chất của một hoạt động thương mại
nói chung. Đồng thời, hoạt động mua bán hàng hóa này được thực hiện qua SGDHH
với giá cả được thỏa thuận trước tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao
hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai. Điều này có nghĩa là các bên
trong quan hệ mua bán tìm đến nhau khơng vì mục đích ký kết hợp đồng giao hàng
ngay thời điểm hiện tại, mà thực chất là để ký kết cam kết mua bán hàng hóa tại thời
điểm hiện tại và thực hiện chúng trong tương lai nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với
thỏa thuận của các bên. Chính thời điểm tương lai và có sự xuất hiện của SGDHH là
điều tạo nên sự khác biệt của hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH.
1.1.3 Đặc điểm pháp lý cơ bản của mua bán hàng hóa qua SGDHH
Từ những phân tích trên, có thể thấy việc mua bán hàng hố qua SGDHH có
những dấu hiệu riêng biệt. Đó là:
Thứ nhất, mua bán hàng hóa qua SGDHH là loại hình mua bán hàng hóa qua
trung gian, hay nói cách khác người mua và người bán thông qua chủ thể thực hiện
dịch vụ trung gian để hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở [17].
Đây là điểm khác biệt cơ bản của hoạt động mua bán hàng hố thơng qua
SGDHH với hoạt động mua bán hàng hố thơng thường và hoạt động mua bán hàng
hoá tương lai trên thị trường phi tập trung OTC (Over the counter – Đây là thị trường
được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường sàn giao
dịch (thị trường giao dịch tập trung), mà dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế

14


chào giá cạnh tranh và thương lượng thông qua sự trợ giúp của các phương tiện thông
tin). Trong hoạt động mua bán hàng hố thơng thường, các bên trực tiếp thoả thuận

với nhau về giá cả, số lượng, phẩm cấp hàng hố, thời hạn giao nhận… mà khơng cần
phải thơng qua trung gian nếu khơng có nhu cầu. Trong hoạt động mua bán hàng hoá
tương lai trên thị trường OTC, các bên cũng có thể chủ động thoả thuận với nhau việc
mua, bán một lượng hàng hoá nhất định với các điều khoản về chất lượng, giá cả và
thời điểm giao hàng trong tương lai... Nhưng đối với hoạt động mua bán hàng hoá
qua SGDHH, thoả thuận mua bán hàng hố của các bên nhất thiết phải thực hiện
thơng qua SGDHH, cụ thể như sau:
Các chủ thể không trực tiếp giao kết hợp đồng với nhau mà bằng đặt lệnh
thông qua các thành viên của SGDHH: Hành vi tham gia giao dịch tại SGDHH là
việc đưa ra các lệnh mua, bán một cách độc lập, sẵn sàng bán và sẵn sàng mua. Tuy
nhiên, các khách hàng không phải là thành viên của sở không đặt các lệnh mua, bán
trực tiếp tới sở mà thông qua trung gian là thành viên của SGDHH. Vì vậy, thơng
thường trong các giao dịch trên SGDHH, những người tham gia giao dịch không biết
và cũng không quan tâm ai là người bán hoặc người mua trong hợp đồng với mình,
điều cần hơn cả là họ được xác nhận các quyền hợp đồng từ SGDHH. Do đó, có người
nhận định các hợp đồng được giao kết trên SGDHH là hợp đồng mang tính chất “vơ
danh” về đối tác. Ngồi ra, việc các lệnh đó khớp với nhau thuộc thẩm quyền và trách
nhiệm của SGDHH.
Như vậy, SGDHH đóng vai trị trung gian, kết nối quan hệ mua bán hàng hoá
của các bên mua bán hàng hoá, người mua và người bán không cần biết nhau, chỉ cần
đặt lệnh thông qua các thành viên của SGDHH.
Các chủ thể thực hiện việc thanh tốn theo hợp đồng thơng qua Trung tâm
thanh toán bù trừ: Trung tâm thanh toán bù trừ có thể là một tổ chức thuộc SGDHH
hoặc là một pháp nhân hoàn toàn độc lập. Trung tâm này đóng vai trị như một trung
gian cho mỗi giao dịch. Theo đó, một hợp đồng giữa người bán và người mua bất kỳ
đều được chuyển hoá thành hai loại hợp đồng: Một hợp đồng giữa người bán và Trung

15



tâm; và một hợp đồng giữa người mua và Trung tâm. Người bán thực hiện thanh toán
phần chênh lệch theo hợp đồng không phải trực tiếp cho người mua mà cho Trung
tâm và ngược lại, người mua chỉ cần thực hiện thanh tốn cho Trung tâm chứ khơng
phải cho người bán. Nhờ vậy, các bên tham gia mua bán trên SGDHH không nhất
thiết phải xem xét khả năng thực tế của bên kia. Người mua không phải quan ngại về
chuyện hàng hóa là đối tượng của hợp đồng có đảm bảo hay không; và ngược lại,
người bán cũng không phải lo ngại về khả năng thanh toán thực tế của người mua.
Đồng thời, với quy chế ký quỹ giao dịch cho mỗi hợp đồng được ký kết,
SGDHH đứng ra đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ của các bên tham gia mua bán
tại sở, vì nếu khơng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguy cơ gánh chịu trách nhiệm còn
nặng nề hơn đối với bên vi phạm. Việc ký quỹ giao dịch nhằm đảm bảo khả năng
thực hiện nghĩa vụ chứ khơng phải bảo đảm khả năng thanh tốn cho hợp đồng.
Việc giao nhận hàng hóa khơng thực hiện trực tiếp giữa người bán và người
mua mà thông qua Trung tâm giao nhận hàng hóa: Trong việc giao hàng theo hợp
đồng, hàng hóa sẽ được bên bán chuyển đến kho lưu giữ của SGDHH. Trung tâm
giao nhận hàng hóa của SGDHH thực hiện kiểm duyệt hàng hóa theo tiêu chuẩn của
sở. Việc giao hàng được hiểu là chuyển quyền sở hữu hàng hóa lưu kho từ bên bán
sang bên mua chứ người bán và người mua không phải giao hàng trực tiếp cho nhau.
Thứ hai, mua bán hàng hóa qua SGDHH là loại hình mua bán hàng hóa trong
tương lai, theo đó giá của hàng hố do các bên mua bán thoả thuận là giá của hàng
hố đó tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại thời
điểm trong tương lai.
Đây là điểm đặc trưng của hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH, khiến
nó trở nên khác biệt so với các hoạt động mua bán hàng hoá theo phương thức truyền
thống. Trong quan hệ mua bán hàng hố thơng thường, sau khi các bên mua và bán
đã thoả thuận xong về việc mua bán, bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán và
nhận hàng hoá, bên bán nhận tiền và có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua thì quan hệ
mua bán sẽ chấm dứt, trừ khi các bên có những thoả thuận khác. Nhưng trong quan

16



hệ mua bán hàng hoá qua SGDHH, tại thời điểm thoả thuận, các bên đồng ý mua, bán
một lượng hàng hố với giá của hàng hố đó tại thời điểm giao kết (hay còn gọi là
thời điểm hiện tại) nhưng việc giao hàng lại diễn ra tại thời điểm trong tương lai.
Quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ phát sinh tại thời điểm giao kết hợp đồng và chấm
dứt khi các bên hoàn thành nghĩa vụ giao nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương
lai do hai bên ấn định. Điều này cũng xuất phát từ đặc trưng của hàng hố trong quan
hệ mua bán hàng hố thơng qua SGD. Đó là những loại hàng hố có thể được hình
thành trong tương lai.
Thứ ba, mua bán hàng hóa qua SGDHH hướng tới những đối tượng hàng hóa
đặc thù. Đó là hàng hóa thỏa mãn các điều kiện giao dịch qua sở; hợp đồng tương lai,
hợp đồng quyền chọn đối với hàng hóa tương lai phát sinh từ các giao dịch hàng thực
tại đây [7, tr.30].
Đối tượng của mua bán hàng hóa qua SGDHH đầu tiên (nhưng khơng phải
chủ yếu) là hàng hóa thực, hàng hóa là nguyên liệu đầu vào cho các hoạt động sản
xuất, chế biến, xuất khẩu, nhập khẩu… Hàng hóa thực giao dịch qua sở phải thỏa mãn
các điều kiện nhất định, cụ thể: có thể tích trữ trong một thời gian dài (để phù hợp
với việc giao nhận trong tương lai); dễ phân loại phẩm cấp (để phù hợp với các nhu
cầu khác nhau của nhà đầu tư); giao dịch với số lượng lớn (để phù hợp với thị trường
giao dịch tập trung, quy mơ lớn); biến động giá hồn tồn phụ thuộc vào cung cầu
(khi cung tăng – giá giảm; khi cầu tăng – giá tăng)…
Những hàng hóa thực thỏa mãn các điều kiện được giao dịch qua SGDHH
gồm các nhóm hàng như nông sản, năng lượng, kim loại và là đối tượng của hợp đồng
tương lai.
Đối với hợp đồng quyền chọn, bên cạnh đối tượng là hàng hố thực thì nó cịn
hướng đến đối tượng là quyền thực hiện hoặc không thực hiện các nghĩa vụ được phát
sinh theo hợp đồng. Nói cách khác, mua bán hàng hóa qua SGDHH hướng tới đối
tượng chính là các cơng cụ tài chính phái sinh, bởi vì các nhà kinh doanh khi giao
dịch qua SGDHH chủ yếu với mục đích đầu cơ về giá hàng hóa trong tương lai để


17


tìm kiếm khoản chênh lệch. Hàng hóa thực chỉ là công cụ, phương tiện để các bên
thiết lập giao dịch qua sở mà không phải là đối tượng chủ yếu của giao dịch. Do vậy,
đây là điểm đặc thù để phân biệt hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH với mua
bán hàng hóa truyền thống.
Thứ tư, trong mua bán hàng hóa qua SGDHH tồn tại song song hai nhóm quan
hệ. Đó là quan hệ mua bán được thiết lập giữa người mua và người bán thông qua
SGDHH và quan hệ ủy thác (quan hệ môi giới) được thiết lập giữa khách hàng với
thành viên SGD hay người môi giới, trừ trường hợp thành viên SGDHH hoạt động tự
doanh [15, tr. 69].
Trước khi thiết lập quan hệ mua bán hàng hóa qua SGDHH, người bán, người
mua (gọi chung là khách hàng) phải tham gia vào quan hệ dịch vụ, đó là dịch vụ môi
giới hay ủy thác mua bán hàng hóa theo pháp luật từng nước. Nếu khách hàng thỏa
mãn điều kiện do thành viên SGD yêu cầu, họ sẽ tham gia quan hệ dịch vụ trực tiếp
với thành viên SGD. Nếu không, họ sẽ tham gia quan hệ với người mơi giới của mình,
mà theo đó, người mơi giới của khách hàng có thể trực tiếp hoặc thơng qua một hoặc
một vài chủ thể trung gian để chuyển lệnh mua, lệnh bán của khách hàng đến thành
viên SGD. Như vậy, một hoặc một chuỗi quan hệ dịch vụ sẽ được thiết lập trước khi
khách hàng mua, bán hàng hóa qua SGDHH. Nói cách khác, quan hệ dịch vụ này là
tiền đề để khách hàng tiến hành hoạt động mua, bán hàng hóa qua SGDHH. Khi quan
hệ dịch vụ đã được xác lập, lệnh mua, lệnh bán hàng hóa của khách hàng sẽ được các
chủ thể thực hiện dịch vụ chuyển lên SGDHH để khớp lệnh nhằm thỏa mãn yêu cầu
hoặc mục tiêu của khách hàng. Đồng thời, các chủ thể thực hiện dịch vụ trung gian
bao gồm: thành viên SGD, người môi giới của khách hàng, một hoặc một số chủ thể
trung gian (nếu có) và bản thân SGD cũng sẽ được hưởng thù lao khi lệnh mua, lệnh
bán của khách hàng được khớp trên SGD. Tuy nhiên, quan hệ dịch vụ sẽ không xảy
ra nếu thành viên SGDHH tự mua, bán hàng hóa cho chính mình nhằm mục đích tìm

kiếm lợi nhuận.

18


×