đại học quốc gia hà nội
khoa luật
nguyễn thanh hà
pháp luật việt nam trong t-ơng quan
với pháp luật quốc tế về lao động
luận văn thạc sĩ luật học
Hà nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH HÀ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG TƯƠNG QUAN
VỚI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Luật
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TƢƠNG QUAN GIỮA PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG
7
1.1.
Cơ sở lý luận về sự tương quan giữa pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế
7
1.1.1.
Pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế tương quan với nhau
như thế nào
7
1.1.2.
Tại sao pháp luật quốc gia tương quan với pháp luật quốc tế?
10
1.1.3.
Tính phức tạp của mối tương quan giữa pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế
13
1.2.
Một số lý thuyết về tương quan giữa pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế dưới góc nhìn áp dụng pháp luật
18
1.2.1.
Lý thuyết pháp luật quốc tế ưu thế hơn pháp luật quốc gia
19
1.2.2.
Lý thuyết pháp luật quốc gia ưu thế hơn pháp luật quốc tế
20
1.2.3.
Lý thuyết pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia có ưu thế
ngang nhau (như nhau)
20
Chương 2: Một Số Vấn Đề CHUNG Về TƢƠNG QUAN Giữa Pháp
Luật lAO Động Việt NAM Với Pháp Luật LAO Động
Quốc Tế Của ILO
23
2.1.
Đặc điểm về tình hình pháp luật lao động Việt Nam hiện nay
23
2.1.1.
Giới thiệu sơ lược về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
lao động nước ta
23
2.1.2.
Đặc điểm của quan hệ lao động hiện nay ở nước ta
26
2.1.3.
Một số vấn đề mới về pháp luật lao động
30
2.2.
Khái quát về ILO và Các công ước quốc tế về lao động
33
2.2.1.
Về Tổ chức Lao động Quốc tế
33
2.2.2.
Về quá trình Việt Nam tham gia Tổ chức Lao động Quốc tế
35
2.2.3.
Một số nội dung pháp luật quốc tế về Lao động của ILO
38
Chương 3: Một Số Giải Pháp nhằm góp phần làm tƣơng thích Pháp
Luật LAO Động Việt NAM Với Các CAM Kết Quốc Tế
Của Nƣớc TA Về LAO Động
49
3.1.
Tham gia chọn lọc điều ước quốc tế về lao động và nhu cầu
làm hài hòa pháp luật lao động Việt Nam và pháp luật quốc
tế về lao động của ILO
49
3.2.
Xác định nguyên tắc áp dụng luật trong tương quan giữa
pháp luật lao động Việt Nam với pháp luật quốc tế
50
3.2.1.
áp dụng pháp luật quốc gia
51
3.2.2.
áp dụng luật nước ngoài
51
3.2.3.
áp dụng pháp luật quốc tế
52
3.3.
Nội luật hóa các cam kết quốc tế
54
3.3.1.
Về nguyên tắc
54
3.3.2.
Vấn đề đánh giá tác động luật khi nội luật hóa các cam kết
quốc tế
55
3.4.
Luận về làm hài hòa một số nội dung giữa dự thảo Bộ luật
lao động (sửa đổi) với các quy định của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO)
57
3.4.1.
Về quan hệ lao động
57
3.4.2.
Về vấn đề lương của người lao động
58
3.4.3.
Các hành vi phân biệt đối xử bị cấm
59
3.4.4.
Về thương lượng - thỏa ước lao động tập thể
60
3.4.5.
Về thời giờ làm việc và nghỉ ngơi đối với những người lao
động làm không trọn ngày hoặc tuần
63
3.4.6.
Về bảo đảm an toàn và sức khỏe cho người lao động tại nơi
làm việc
63
3.4.7.
Về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
65
3.4.8.
Về bồi thường bằng hiện vật
67
3.4.9.
Về môi trường làm việc an toàn và lành mạnh
67
3.4.10.
Về chính sách của nhà nước đối với về lao động nữ
68
3.4.11.
Về lao động trẻ em
72
3.4.12.
Quy trình hòa giải tranh chấp tập thể về lợi ích tại Hội đồng
trọng tài lao động
74
3.4.13.
Về các trường hợp đình công bất hợp pháp
74
3.4.14.
Thanh tra nhà nước về lao động
76
Kết Luận
80
DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo
82
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Về phương diện pháp luật quốc gia, Nhà nước ta đang tiến hành sửa
đổi Bộ luật lao động. Dự thảo Bộ luật này đã được công bố lấy ý kiến rộng rãi
của nhân dân. Nhiều cuộc hội thảo quốc gia và hội thảo quốc tế đã được tổ
chức để bàn luận về nội dung Dự thảo Bộ luật. Dự kiến Bộ luật lao động (sửa
đổi) sẽ được Chính phủ trình Quốc hội vào năm 2011.
Về phương diện pháp luật quốc tế, Nhà nước ta đã gia nhập 18 công
ước quốc tế về lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Việt Nam
đang phải thực hiện các công ước này. Đồng thời nước ta sẽ tiếp tục đàm
phán với Tổ chức Lao động Quốc tế, trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), một số diễn đàn khác để đạt được những cam kết quốc tế mới
trong lĩnh vực lao động. Đó là một nhiệm vụ kép rất nặng nề trong xây dựng
và thực thi pháp luật lao động của Việt Nam.
Về phương diện xây dựng pháp luật, xét theo góc nhìn của đề tài luận
văn, pháp luật lao động nước ta cần phải được xây dựng phù hợp với các cam
kết quốc tế của nước ta về lao động, từng bước tương thích với các tiêu chuẩn
pháp luật quốc tế đã được thừa nhận phổ cập. Yêu cầu này được đặt ra một
cách hiển nhiên.
Về phương diện thực tiễn, trong lĩnh vực lao động ở nước ta đang phát
sinh nhiều vấn đề mới. Hàng loạt vấn đề như về đại diện người sử dụng lao
động; công đoàn; thỏa ước lao động tập thể ngành; đình công; tranh chấp lao
động và giải quyết tranh chấp lao động; việc làm; vệ sinh, an toàn lao động v.v
đang diễn ra rất phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu kỹ về phương diện
pháp lý.
2
Các mặt của tình hình nêu trên đang diễn ra và tác động cộng hưởng
với nhau trong lĩnh vực pháp luật về lao động ở nước ta.
Trong bối cảnh như đã nêu ở trên, một mặt, có nhiều vấn đề đặt ra về
pháp luật lao động cả về phương diện pháp luật quốc gia của nước ta, cả về
phương diện pháp luật quốc tế. Mặt khác, trong thời đại hiện nay - thời đại
phát triển kinh tế thị trường và toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như lĩnh vực thương
mại, đầu tư, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, lao động, có xu hướng thâm nhập và hội
nhập lẫn nhau. Mối tương quan và thâm nhập lẫn nhau giữa các lĩnh vực pháp
luật sâu đến mức thậm chí khó phân biệt được khía cạnh đối nội hay khía
cạnh đối ngoại, khía cạnh quốc gia và khía cạnh quốc tế của chính sách pháp
lý.
Vì vậy việc nghiên cứu một số vấn đề pháp luật lao động của nước ta
trong tương quan với pháp luật quốc tế về lao động là một nhu cầu có thực,
rất thời sự và rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Theo tác giả luận văn biết, trong quá trình xây dựng Dự thảo Bộ luật
lao động (sửa đổi), cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội đã đối chiếu, so sánh các công ước quốc tế của ILO mà nước ta gia
nhập để xây dựng những qui định mới tương thích. Những nghiên cứu đó
mang tính phục vụ tác nghiệp cho công tác soạn thảo Bộ luật lao động (sửa đổi).
Văn phòng ILO tại Hà Nội cũng đã phối hợp với Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội tổ chức một số cuộc thảo luận về Dự thảo Bộ luật lao
động (sửa đổi) của nước ta. Những hội thảo đó thường tập trung chủ yếu vào
kỹ thuật lập pháp, tính khả thi và một số điểm nhậy cảm của Dự thảo Bộ luật
như về công đoàn, đình công, mà chưa nghiên cứu một cách tổng quát về
3
tương quan giữa pháp luật lao động Việt Nam với pháp luật quốc tế về lao
động dưới giác độ lý luận khoa học pháp lý.
Có thể nói, chưa có công trình nghiên cứu nào bàn tổng quan về pháp
luật lao động của nước ta trong tương quan với pháp luật lao động quốc tế. Vì
vậy tác giả chọn đề tài "Pháp luật Việt Nam trong tương quan với pháp luật
quốc tế về lao động" làm luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tác giả đề ra cho mình mục đích nghiên cứu chính sau đây:
- Góp phần nâng cao sự hiểu biết về đặc thù của lao động và đặc thù
của pháp luật về lao động cả ở phương diện quốc gia và phương diện quốc tế
trong thời đại ngày nay.
- Góp phần tăng cường nhận thức khoa học về lý luận và thực tiễn
mối quan hệ lẫn nhau giữa pháp luật lao động quốc gia và các cam kết quốc tế
của quốc gia về lao động trong bối cảnh hiện nay của thế giới.
- Góp phần phục vục việc nâng cao chất lượng dự thảo Bộ luật lao
động (sửa đổi) dưới góc nhìn tương thích với những cam kết quốc tế của nước
ta về lao động.
- Góp phần vào việc phục vụ soạn thảo Bộ luật lao động tương thích
với các cam kết quốc tế của nước ta về lao động cả trong xây dựng Dự thảo,
cả từ góc độ thực thi những qui định của pháp luật lao động.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Một là, xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn mối tương quan giữa pháp
luật lao động nước ta với pháp luật quốc tế về lao động.
4
Hai là, trình bày tổng quan về pháp luật lao động của nước ta; và tổng
quan các cam kết quốc tế của nước ta về lao động trong khuôn khổ Tổ chức
Lao động Quốc tế.
Ba là, đề xuất một số giải pháp làm cho pháp luật lao động nước ta
tương thích với các cam kết quốc tế của nước ta bắt nguồn từ các công ước
quốc tế của ILO mà nước ta đã gia nhập để thực thi hiệu quả những qui định
pháp luật về lao động cả trong quan hệ đối nội lẫn trong quan hệ đối ngoại.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài này trong phạm vi sau
đây:
Thứ nhất: Tên gọi đề tài ngụ ý nói về "Pháp luật lao động Việt Nam
trong tương quan với pháp luật lao động quốc tế". Nhưng để tránh lặp lại từ
ngữ "lao động", đề tài được viết tắt thành "Pháp luật Việt Nam". Tác giả
không nghiên cứu pháp luật Việt Nam nói chung, mà chỉ nghiên cứu về "pháp
luật lao động Việt Nam trong tương quan với pháp luật quốc tế về lao động".
Thứ hai: Pháp luật quốc tế về lao động là một khái niệm rộng. Tác giả
xin không bàn về pháp luật quốc tế nói chung về lao động, mà chỉ khoanh
vùng và bàn về những cam kết quốc tế của nước ta về lao động trong khuôn
khổ các công ước quốc tế về lao động của ILO trong mối tương quan với pháp
luật lao động của nước ta. Vì những cam kết của nước ta trong các công ước
của ILO mà nước ta đã gia nhập thể hiện tập trung nhất, điển hình nhất những
vấn đề pháp lý mà chúng ta đang rất quan tâm.
Thứ ba: Tác giả không có tham vọng và nhận thức rằng mình chưa đủ
điều kiện và trình độ để bàn về tất cả các vấn đề có liên quan của pháp luật
lao động dưới giác độ pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, vì vậy tác giả
chỉ xin bàn về một số vấn đề chung nhất nhằm góp phần phục vụ xây dựng
Dự thảo Bộ luật lao động sửa đổi.
5
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Các điều ước quốc tế của Tổ chức Lao động Quốc tế về lao động:
Công ước số 5 về quy định tuổi tối thiểu của trẻ em được vào làm việc trong
các công việc công nghiệp; Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu được nhận
vào làm việc thông qua ngày 26/7/1973; Công ước số 100 về trả công bình
đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang
nhau thông qua ngày 29/6/1951; Công ước số 111 về phân biệt đối xử trong
việc làm và nghề nghiệp ngày 25/6/1958; Công ước số 155 về an toàn lao
động và vệ sinh lao động và môi trường làm việc ngày 22/6/1981; Công ước
số 29 về lao động cuỡng bức; Công ước số 144 về tham khảo ý kiến ba bên;
Công ước số 87 về quyền tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được liên kết;
Công ước số 98 về quyền được tổ chức và thương lượng tập thể…
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa
đổi năm 2001).
- Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2007).
- Dự thảo (sửa đổi) Bộ luật lao động Việt Nam, năm 2010.
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, năm 2008.
- Luật Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, năm 2005.
- Công ước Viên về luật điều ước quốc tế, năm 1969.
- Các văn bản dưới luật có liên quan đến lĩnh vực lao động.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tác giả luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau đây:
6
- Phương pháp duy vật lịch sử và phương pháp duy vật biện chứng.
Nghĩa là nghiên cứu quan hệ qua lại hai chiều lẫn nhau (biện chứng) giữa
pháp luật lao động Việt Nam với pháp luật quốc tế về lao động thể hiện thông
qua các công ước của ILO mà nước ta đã gia nhập và nghiên cứu nó trong bối
cảnh hiện nay (tính lịch sử).
- Phương pháp so sánh.
- Tác giả tiếp cận các nội dung nghiên cứu từ: 1) nhu cầu thực tiễn
của quan hệ lao động cần được điều chỉnh bằng luật pháp; 2) đòi hỏi của quản
lý nhà nước đối với lao động và quan hệ lao động; 3) yêu cầu thực hiện các
cam kết quốc tế của nước ta về lao động trong khuôn khổ ILO.
5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài có nhiều ý nghĩa lý luận về pháp luật lao động trong bối cảnh
hiện nay của thời đại, đồng thời nó góp phần phục vụ thực tiễn xây dựng và
thực hiện pháp luật lao động ở nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự tương quan giữa pháp luật lao động
Việt Nam với pháp luật quốc tế về lao động.
Chương 2: Một số vấn đề chung về tương quan giữa pháp luật lao
động Việt Nam với pháp luật lao động quốc tế của Tổ chức Lao động Quốc
tế.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm góp phần làm tương thích pháp luật
lao động Việt Nam với các cam kết quốc tế của nước ta về lao động.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TƢƠNG QUAN
GIỮA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
VỚI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG
Cơ sở lý luận về sự tương quan giữa pháp luật lao động Việt Nam với
pháp luật quốc tế về lao động trước hết nằm ở nhận thức lý luận về sự tương
quan giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TƢƠNG QUAN GIỮA PHÁP LUẬT QUỐC
GIA VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
Nói về sự tương quan giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là
nói về mối quan hệ qua lại và sự tác động tương hỗ nhau giữa hai hệ thống
pháp luật này.
Mối quan hệ qua lại và sự tác động tương hỗ giữa pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế là hai mặt không thể tách rời của một hiện tượng, diễn ra
như một quá trình liên tục không ngừng và luôn luôn được điều chỉnh. Mặc
dù có sự khác nhau về một số đặc trưng (đối tượng điều chỉnh, chủ thể, cơ chế
thực hiện, tuân thủ giữa hai hệ thống pháp luật), nhưng luật quốc tế vẫn bị chi
phối chặt chẽ bởi lợi ích quốc gia bên cạnh lợi ích cộng đồng. Sự tương quan
lợi ích giữa các quốc gia với cộng đồng các quốc gia khác được phản ánh ghi
nhận ở hệ thống các nguyên tắc và quy phạm luật quốc tế, vì thế không có sự
tách biệt giữa pháp luật gia và pháp luật quốc tế.
1.1.1. Pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế tƣơng quan với
nhau nhƣ thế nào
Pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế (nói chung và trong lĩnh vực
lao động nói riêng) không quan hệ và không tương tác với nhau như hai vật
thể vật lý hoặc như phản ứng hóa học trong tự nhiên.
8
Trong một thế giới đặc trưng được điều chỉnh bằng luật pháp của thời
đại kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các hệ thống
pháp luật nói chung, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế cùng song song
tồn tại, quan hệ với nhau, tác động tương hỗ nhau thông qua hàng loạt những
thiết chế tổ chức hoạt động cực kỳ phức tạp ở các cấp độ khác nhau trong đời
sống xã hội. Hai hệ thống pháp luật này thâm nhập lẫn nhau và tác động qua
lại lẫn nhau vừa theo xu hướng hài hòa nhau, vừa theo xu hướng khu biệt
nhau, thậm chí xung đột nhau.
Sự tương thích giữa hai chức năng hoạt động cơ bản của nhà nước, sự
thống nhất trong một số vai trò chung cơ bản của cả hai hệ thống pháp luật và
sự hiện diện của quốc gia trong tư cách chủ thể tham gia, điều tiết, định chế
các khung pháp luật ở phạm vi từng quốc gia cũng như phạm vi quốc tế đã
đem lại cho luật quốc gia, luật quốc tế mối quan hệ biện chứng, ràng buộc và
diễn ra theo chiều hướng:
- Luật quốc gia có ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự hình thành
và phát triển của luật quốc tế.
Bản chất quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế mà các quốc
gia tiến hành thông qua phương thức thỏa thuận chính là quá trình đưa ý chí
quốc gia vào nội dung của luật quốc tế.
Có thể thấy những ảnh hưởng có tính quyết định của luật quốc gia đối
với luật quốc tế thể hiện ở nhiều nội dung, cấp độ, phương thức khác nhau. Ở
góc độ từng nước, sự tác động có tính quy định của luật quốc gia đến luật
quốc tế diễn ra theo cách mà quốc gia tham gia vào quan hệ quốc tế, thông
qua các hoạt động hợp tác quốc tế được duy trì bởi một số công cụ hợp tác
hiệu quả như ký kết điều ước quốc tế. Trong khi hợp tác, sự tác động của
pháp luật quốc gia, với tư cách là thành viên, không tồn tại một cách đơn lẻ,
đối kháng với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế mà có sự gặp nhau của ý
9
chí chung, của lợi ích chung. Sự gặp gỡ này tất yếu hình thành nên những xu
hướng phù hợp với sự vận động, phát triển của thế giới khách quan vào đời
sống xã hội.
Mỗi quốc gia đều cố gắng đưa vào pháp luật quốc tế những ảnh hưởng
và hướng điều chỉnh riêng của mình tới các vấn đề lợi ích mà họ cần đạt được
từ luật quốc tế. Nói cách khác, mỗi quốc gia đều tham gia vào quan hệ quốc tế
như sinh hoạt quốc tế bằng phương thức riêng của mình. Nhưng cái riêng đó
lại cần được khẳng định sự tồn tại ở những lợi ích mà pháp luật cũng như
cộng đồng quốc tế có thể đem lại được. Vì thế, sự hợp tác hay liên kết, đấu
tranh hay thương lượng giữa các quốc gia với nhau luôn là điều kiện thiết yếu
để hình thành các quy phạm, các nguyên tắc hoặc các chế định của luật quốc
tế. Việc tạo thành các quy phạm, nguyên tắc hay chế định này tuỳ thuộc ở
mức độ giữa các quốc gia, và ở phạm vi đó, luật quốc gia thể hiện sự định
hướng về nội dung, tính chất của các mối quan hệ quốc tế, làm phát triển hơn,
hoặc làm thay đổi chúng theo chiều hướng tiến bộ.
- Luật quốc tế thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện luật quốc gia
Luật quốc tế có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển,
hoàn thiện pháp luật quốc gia. Là kết quả của sự thoả thuận giữa các quốc gia,
luật quốc tế thể hiện nhiều sự tiến bộ, nhiều thành tựu mới của khoa học pháp
lý hiện đại. Thông qua nghĩa vụ quốc tế của quốc gia trong việc tuân thủ pháp
luật quốc tế, những thành tựu này khi được áp dụng ở từng quốc gia đã mang
lại cho pháp luật quốc gia những sự thay đổi, bổ sung mới, vì quá trình thực
hiện luật quốc tế ở từng quốc gia luôn đặt ra yêu cầu có sự phù hợp giữa hai
hệ thống pháp luật.
Các vấn đề đặt ra từ pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế cho thấy
rằng khi phát triển hợp tác đa phương là cần thiết và điều đó có nghĩa là pháp
luật quốc gia không thể được xây dựng trong khuôn khổ riêng của quốc gia
10
mà phải cải cách pháp luật quốc gia cho phù hợp với những yêu cầu cơ bản
của luật pháp quốc tế. Luật quốc tế tạo cho mỗi quốc gia có điều kiện tiếp thu
những tiến bộ, thành quả của cộng đồng quốc tế. Luật quốc tế thực sự có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của nội luật, mỗi quốc gia có thể vừa hoà nhập
vào nền văn hoá pháp lý chung, vừa xây dựng một hệ thống pháp luật quốc
gia phát triển ở cấp độ mới.
1.1.2. Tại sao pháp luật quốc gia tƣơng quan với pháp luật quốc tế?
Pháp luật quốc gia tương quan với pháp luật quốc tế vì hai nguyên
nhân cơ bản nhất:
Thứ nhất: Vì pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là hai hệ thống
khác nhau trong cùng một thế giới có pháp luật.
Thứ hai: Pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế đều là sản phẩm
hoạt động của chính các nhà nước
Giả định rằng pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là một thì không
thể nói đến mối quan hệ của nó như là nói đến mối quan hệ giữa hai hệ thống
khác nhau.
Sở dĩ hai hệ thống pháp luật này tương quan với nhau, tức là có mối
quan hệ qua lại và tác động tương hỗ với nhau vì chúng là hai hệ thống pháp
luật khác nhau. Hai hệ thống pháp luật này tuy khác nhau, nhưng chúng
không tồn tại biệt lập ở hai thế giới trừu tượng, mơ hồ nào đó, mà tồn tại, vận
động và phát triển một cách khách quan trong cùng một thế giới thực, trong
cùng một thế giới chung, trong cùng một thế giới có pháp luật.
Quả vậy, thế giới loài người chỉ có một. Nhân loại là một thế giới, mỗi
quốc gia là một phần cấu thành của thế giới gồm các quốc gia. Nói cách khác,
xã hội quốc tế ngày nay bao gồm các quốc gia độc lập, có chủ quyền mà Nhà
nước là đại diện cho các quốc gia đó. Thời đại của chúng ta là thời đại có Nhà
11
nước và có luật pháp, mỗi quốc gia có pháp luật của riêng mình. Thế giới có
pháp luật quốc tế chung. Luật pháp nói chung (ngụ ý cả pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế) là một hiện tượng xã hội, một thuộc tính phổ biến cấu
thành nội dung của đời sống xã hội loài người trong thời đại hiện nay.
Pháp luật quốc gia tương quan với pháp luật quốc tế vì mặc dù là hai
hệ thống khác nhau, nhưng pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế đều do
các Nhà nước đặt ra. Nó thể hiện ý chí và quyền lực của các Nhà nước. Pháp
luật quốc gia hay pháp luật quốc tế suy cho cùng đều qui về ý chí Nhà nước.
Đây là thuộc tính bản chất chung nhất của bất kỳ hệ thống pháp luật nào.
Chính thuộc tính chung nhất này về bản chất của hai hệ thống pháp luật là
cội nguồn làm nên sự tương quan giữa pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế.
Nhưng thuộc tính bản chất của pháp luật quốc gia có khía cạnh khác
so với bản chất của pháp luật quốc tế. Sự khác nhau đó làm nên hai hệ thống
pháp luật khác nhau.
Tính chất đơn phương trong thuộc tính bản chất của pháp luật quốc gia.
Bản chất của pháp luật quốc gia là ý chí nhà nước của giai cấp thống
trị trong quốc gia đó được đề lên thành luật, thể hiện quyền lực nhà nước của
quốc gia đó. Trong trường hợp này pháp luật quốc gia thể hiện ý chí nhà nước
và quyền lực nhà nước đơn phương.
Tính chất thỏa thuận ý chí nhà nước của pháp luật quốc tế.
Luật pháp quốc tế là tổng thể những nguyên tắc, quy phạm được xây
dựng nên bằng sự thỏa thuận ý chí giữa các quốc gia do Nhà nước đại diện,
các chủ thể khác của luật pháp quốc tế, có giá trị và hiệu lực bắt buộc thi
hành, để điều chỉnh quan hệ quốc tế giữa các quốc gia, các tổ chức liên quốc
gia, liên chính phủ, nhằm phục vụ cho lợi ích của mỗi quốc gia, mỗi chủ thể
pháp luật quốc tế và phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng quốc tế.
12
Khác với luật pháp quốc gia, thực chất của luật pháp quốc tế không
phải là ý chí đơn phương của một nhà nước được đề lên thành luật, mà là sự
thỏa thuận ý chí nhà nước của các quốc gia - của hai hoặc nhiều quốc gia (đa
phương), chủ thể cơ bản của luật pháp quốc tế - được đề lên thành những
nguyên tắc và qui phạm pháp luật quốc tế.
Tuy nhiên, trong đàm phán và ký kết điều ước quốc tế cũng như trong
thi hành pháp luật quốc tế, thể hiện rất rõ ý chí đơn phương của các nhà
nước
Nhấn mạnh điểm này, để khẳng định lại một lần nữa rằng:
Một là, pháp luật quốc gia hay pháp quốc tế luật đều là sản phẩm hoạt
động của chính các nhà nước.
Hai là, suy cho cùng, pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế, đều
qui về ý chí và quyền lực nhà nước.
Khác với luật pháp quốc gia, luật pháp quốc tế không có cơ quan lập
pháp (cơ quan làm luật) đứng bên cạnh hay đứng trên các quốc gia để ban
hành các qui định pháp luật bắt buộc các nước phải tuân thủ. Mọi nguyên tắc
và quy phạm pháp luật quốc tế do chính các quốc gia, các chủ thể pháp luật
quốc tế xây dựng nên, bằng cách thỏa thuận, thông qua đàm phán quốc tế,
đàm phán ngoại giao, ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế.
Luật pháp quốc tế không có cơ quan hành pháp, không có cơ quan
Trung ương hướng dẫn thi hành. Những nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc
tế đều do chính các chủ thể pháp luật quốc tế thi hành một cách tự nguyện
bằng cách đưa vào luật pháp quốc gia. Khi đã được đưa vào luật pháp quốc
gia, luật pháp quốc tế sử dụng cơ chế và biện pháp thực thi pháp luật được sử
dụng trong mỗi nước.
Tranh chấp hoặc vi phạm pháp luật quốc tế có thể được Tòa án quốc
tế xét xử. Nhưng Tòa án quốc tế không xét xử tranh chấp hoặc vi phạm pháp
13
luật quốc tế nếu các bên tranh chấp (các chủ thể của luật pháp quốc tế) không
đồng ý. Các bên có thể chọn giải pháp khác như trọng tài, trung gian, hòa giải
để giải quyết tranh chấp.
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, sự hợp tác
quốc tế, sự đấu tranh, cạnh tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
ngày càng được tăng cường. Do đó các nước ngày càng tăng cường hợp tác,
liên kết chính sách bằng luật pháp quốc tế, đồng thời làm hài hòa pháp luật
của nước mình với pháp luật quốc tế do chính các nước cùng nhau xây dựng
lên. Bởi mỗi nhà nước đều ý thức mình thuộc về một thế giới bao gồm các
Nhà nước (các quốc gia); mỗi nền kinh tế đều thuộc về một nền kinh tế toàn
cầu hóa. Các nhà nước cùng nhau chia sẻ những vấn đề, trong đó có những
vấn đề về lao động vượt ra khỏi năng lực và thẩm quyền nội bộ của mình.
Cho nên từ quan hệ hợp tác và đấu tranh trên trường quốc tế mà suy ra
quan điểm, chính sách, lập trường pháp lý quốc tế của các quốc gia, suy ra
những cung cách ứng xử của nhà nước này với nhà nước khác trong mọi tình
huống cụ thể phát sinh.
1.1.3. Tính phức tạp của mối tƣơng quan giữa pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế
Như trên đã nói pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế tác động
tương hỗ với nhau rất phức tạp. Chúng có thể thâm nhập lẫn nhau và tác động
qua lại lẫn nhau theo xu hướng hài hòa nhau, vừa theo xu hướng khu biệt
nhau, thậm chí xung đột nhau. Tại sao lại như vậy? Vấn đề nằm ở một số
nguyên do chính sau đây:
Thứ nhất, pháp luật quốc gia rất phong phú về hình thức và về bản chất.
Thứ hai, pháp luật quốc tế rất đa dạng.
14
Thứ ba, quan hệ xã hội - đối tượng điều chỉnh của pháp luật được
quản lý ở nhiều cấp độ.
Thứ tư, luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế luôn luôn vận động và
phát triển không ngừng.
Thứ năm, sự chi phối bởi lợi ích khác nhau của các Nhà nước.
Về pháp luật quốc gia. Rõ ràng môi trường pháp luật trên thế giới hiện
nay có đặc điểm là rất đa dạng về hệ thống pháp luật quốc gia. Có bao nhiêu
quốc gia thì cũng có bấy nhiêu hệ thống pháp luật quốc gia. Thậm chí pháp luật
quốc gia còn nhiều hơn số các quốc gia, vì ở những nước theo hình thức tổ chức
liên bang, ngoài pháp luật liên bang, còn có pháp luật của các bang thành viên.
Mặt khác, xét theo truyền thống và đặc điểm riêng, pháp luật quốc gia
còn được phân chia theo nhóm:
- Pháp luật các nước châu Âu lục địa (hệ thống pháp luật Romano
Germani).
- Hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (Common Law).
- Hệ thống pháp luật châu Phi.
- Hệ thống pháp luật Hindu.
- Hệ thống pháp luật tư bản chủ nghĩa.
- Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Thế giới hiện nay bao gồm các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau: tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, nên bản chất pháp luật quốc gia
cũng khác nhau. Ngoài ra, xét thuần túy về trình độ phát triển, có nước phát
triển, có nước đang phát triển, có nước chậm phát triển. Vì vậy các hệ thống
pháp luật quốc gia rất khác nhau về bản chất, về mức độ tiến bộ và về trình độ
hoàn thiện.
15
Do đó, mối quan hệ và tác động tương hỗ giữa pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế diễn ra như thế nào còn tùy thuộc đối với từng hệ thống
pháp luật cụ thể.
Về pháp luật quốc tế. Công pháp quốc tế được xem là nòng cốt cho
các hoạt động quốc tế rộng lớn, phức tạp. Tất cả đều phải thông qua các điều
ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia. Sự hợp tác giữa tất cả các nước
trong việc xác định cơ sở pháp lý quốc tế, tuân thủ pháp luật quốc tế trong
mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế đang còn tiếp tục được đi sâu vào.
Pháp luật quốc tế rất phong phú. Có pháp luật quốc tế chung, phổ cập
toàn cầu. Có pháp luật quốc tế mang tính khu vực, tiểu khu vực. Có điều ước
quốc tế song phương điều chỉnh quan hệ giữa các nước. Trong khuôn khổ địa
lý - chính trị, trong từng phạm vi khu vực và quốc tế, phạm vi và nội dung
pháp luật quốc tế cũng không đồng nhất với nhau, mặc dù có những nguyên
tắc cơ bản chung phổ cập, nhưng pháp luật quốc tế ở mỗi qui mô, mỗi khu
vực, đối với mỗi quốc gia cũng có những nét riêng.
Về cấp độ quản lý các quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội nói chung,
quan hệ xã hội về lao động nói riêng ngày nay được điều chỉnh thông qua các
kênh rất khác nhau và được quản lý ở nhiều cấp độ: cấp doanh nghiệp, cấp độ
ngành, quốc gia, khu vực, liên khu vực và toàn thế giới.
- Ở cấp độ toàn thế giới:
Chẳng hạn, quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế
mà các công ước quốc tế là nguồn cơ bản và bởi các tổ chức quốc tế, điển
hình như Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động Quốc tế, và nhiều tổ chức khu vực
khác.
- Ở cấp độ khu vực và liên khu vực:
16
Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi các tổ chức quốc tế khu vực
như ASEAN, Liên minh Châu Âu (EU) Đặc biệt đối với nước ta cũng như
các nước thành viên khác của ASEAN, khi xây dựng thành công Cộng đồng
ASEAN (bao gồm Cộng đồng An ninh chính trị, Cộng đồng kinh tế, Công
đồng xã hội) thì quan hệ lao động trong khuôn khổ ASEAN sẽ được tăng
cường điều chỉnh bởi những qui phạm pháp luật quốc tế hơn so với hiện nay.
Ở cấp độ liên khu vực, quan hệ về lao động được các tổ chức liên châu
lục điều chỉnh ở những mức độ nhất định như Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu
Á - Thái Bình dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM),
- Ở cấp độ quốc gia:
Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp quốc gia.
Pháp luật lao động của mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng tùy thuộc vào
thể chế chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi nước và phụ thuộc vào bản thân hệ
thống pháp luật quốc gia của mỗi nước. Thậm chí trong phạm vi một quốc
gia, lao động cũng được điều chỉnh khác nhau tùy theo khu vực (lao động
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, lao động được phân chia theo
vùng, theo ngành nghề; lao động của người nước ngoài, lao động của người tàn
tật ).
- Ở cấp độ doanh nghiệp:
Song song với những qui phạm pháp luật, quan hệ thương mại, quan hệ
lao động còn được điều chỉnh phổ biến bằng một loại qui phạm hợp đồng như hợp
đồng thương mại, dịch vụ; thỏa ước lao động tập thể ngành, thỏa ước lao động tập
thể doanh nghiệp và hợp đồng lao động. Các doanh nghiệp còn có điều lệ doanh
nghiệp, nội qui lao động của doanh nghiệp cũng điều chỉnh các quan hệ lao động.
Xét một cách khái quát, quan hệ lao động, điển hình nhất là các quan
hệ lao động có yếu tố nước ngoài có thể được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống
pháp luật khác nhau có liên quan trong những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
17
Pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế không ngừng vận động. Do đó,
mối quan hệ và sự tương quan giữa pháp luật quốc gia cũng luôn luôn vận động
theo sự biến đối của xã hội và của các mối quan hệ mà pháp luật điều chỉnh.
Lợi ích là một trong những yếu tố quan trọng nhất chi phối mối quan
hệ tương quan giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Lấy quá trình
xây dựng pháp luật quốc tế làm ví dụ. Quá trình xây dựng pháp luật quốc tế
cũng như bản thân pháp luật quốc tế có những hạn chế nhất định do lợi ích
riêng của các quốc gia rất khác nhau. Để tạo nên và đạt được sự thoả thuận vì
lợi ích chung, các chủ thể pháp luật quốc tế thường gặp khó khăn, chậm và rất
tốn kém trong đàm phán xây dựng pháp luật quốc tế.
Vì nhà nước thực hiện các chức năng cơ bản (đối nội và đối ngoại) để
phục vụ lợi ích của mình. Hoạt động đối nội và đối ngoại của Nhà nước gắn
liền mật thiết với nhau. Hoạt động đối ngoại là sự tiếp tục của hoạt động đối
nội của Nhà nước.
Trong hoạt động đối nội và đối ngoại, Nhà nước đề ra và thực hiện
chính sách của mình. Chính sách của Nhà nước là chính sách công, được thực
hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp thể chế hóa chính
sách thành pháp luật để thi hành.
Khi đưa đường lối hay đề chính sách lên thành luật pháp quốc gia
(trong quan hệ đối nội) hoặc khi đàm phán để đi đến ký kết hay gia nhập điều
ước quốc tế (trong quan hệ đối ngoại), vì lợi ích riêng của mình, Nhà nước
luôn luôn tỏ rõ quan điểm pháp lý về những nội dung của chính sách ấy.
Quan điểm pháp lý của Nhà nước được thể hiện rõ trong việc Nhà
nước xác định những vấn đề mấu chốt sau đây:
- Nhà nước khẳng định sự cần thiết xây dựng và ban hành pháp luật
hoặc tham gia điều ước quốc tế.
18
- Nhà nước xác định mục tiêu rõ ràng của luật hoặc mục tiêu rõ ràng
của việc tham gia điều ước quốc tế.
- Nhà nước tìm mọi cách để đạt được mức độ cụ thể hóa tối đa các
nội dung qui phạm hoặc để đạt được lợi ích tối đa khi thỏa thuận và ký kết
điều ước quốc tế.
- Nhà nước xác định rằng ban hành pháp luật, tham gia điều ước quốc tế
có khả năng mang lại những kết quả dự kiến tích cực hơn bất cứ biện pháp nào
khác, kể cả phương án không ban hành luật và không ký kết điều ước quốc tế.
- Nhà nước cho rằng lợi ích thu được lớn hơn chi phí.
- Nhà nước so sánh đối chiếu chính sách, pháp luật quốc gia của mình
với các cam kết quốc tế, các thông lệ và chuẩn mực quốc tế phổ cập trong
hoạt động của mình.
Quan điểm pháp lý như nói ở trên của Nhà nước được xác định và
củng cố ngay từ sáng kiến lập pháp hay tham gia các cuộc đàm phán quốc tế
và luôn theo sát trong hoạt động của Nhà nước.
Tuy nhiên, một khi mà các nước thấy cần phải hợp tác thì họ đàm
phán, thỏa thuận, xây dựng những điều luật về những vấn đề đã thống nhất ý
kiến, ký kết các điều ước quốc tế để thực hiện. Nhờ đó, luật quốc tế vẫn điều
chỉnh có hiệu quả nhiều lĩnh vực quan hệ quốc tế, nhiều hoạt động đối ngoại
về chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, lao động và xã hội
Song luật quốc tế trong một số lĩnh vực, một số vấn đề cụ thể lại chưa
đạt được hiệu lực như phần đông các quốc gia mong muốn. Nói cách khác,
mối quan hệ tương tác giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế có thể
diễn ra theo những xu hướng khác nhau, mà một số lý thuyết tương đối phổ
biến sau đây đã đề cập dưới giác độ áp dụng pháp luật.
1.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ TƢƠNG QUAN GIỮA PHÁP LUẬT QUỐC
GIA VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ DƢỚI GÓC NHÌN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
19
Giá trị của pháp luật quốc gia cũng như của pháp luật quốc tế chính là
ở chỗ, trước hết và sau cùng, nó phải tạo ra một hiệu lực bắt buộc thi hành.
Việc xây dựng, khẳng định, thi hành, áp dụng, giải thích pháp luật
quốc tế còn liên quan và tùy thuộc rất nhiều, thậm chí phụ thuộc một cách
quyết định vào chế độ chính trị -xã hội, hệ tư tưởng, đường lối, chính sách đối
nội và đối ngoại của một quốc gia.
Tuy nhiên trong khoa học pháp lý có một số lý thuyết tương đối phổ
biến về tương quan giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế nhìn từ góc
độ áp dụng pháp luật.
1.2.1. Lý thuyết pháp luật quốc tế ƣu thế hơn pháp luật quốc gia
Đại diện cho học thuyết này là H.Kelsel, A.Verdross, A.Zorn,
A.Lasson, B.Kunz. Học thuyết nhất nguyên này quan niệm pháp luật là một hệ
thống thống nhất. Cội nguồn sâu xa, xét về mặt lịch sử tư tưởng của học thuyết
này, trước hết là nó dựa vào quan điểm của học thuyết "Pháp luật tự nhiên".
Trên cơ sở quan niệm cho rằng bản chất tốt đẹp của con người là do năng
lượng của thiên nhiên mang lại nên không thể được xác định khác nhau, do
đó mọi xung đột giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế được loại trừ.
Học thuyết nhất nguyên đưa ra hai khả năng xác định mối quan hệ
giữa luật quốc tế và luật quốc gia tùy theo vị trí ưu tiên của chúng:
- Một khả năng coi pháp luật quốc tế có vị trí ưu tiên hơn (chủ nghĩa
nhất nguyên với sự ưu tiên của pháp luật quốc tế) và,
- Khả năng thứ hai là pháp luật của quốc gia có vị trí ưu tiên hơn (chủ
nghĩa nhất nguyên với sự ưu tiên của pháp luật quốc gia).
Về quan điểm ưu tiên pháp luật quốc tế:
Chủ nghĩa nhất nguyên luận sau này dựa trên quan điểm cho rằng
pháp luật quốc tế có trước pháp luật quốc gia. Do đó, luật quốc tế có vị trí ưu
tiên hơn luật quốc gia. Nếu căn cứ vào quan điểm này thì sẽ loại trừ khả năng
20
xung đột giữa luật quốc tế và luật quốc gia (trong trường hợp pháp luật quốc
gia trái với pháp luật quốc tế thì pháp luật quốc gia sẽ bị coi là vô hiệu). Quan
điểm này khó được chấp nhận vì mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật các nước và vi phạm nguyên tắc chủ quyền quốc gia.
Về chủ nghĩa nhất nguyên dung hòa:
Trường phái lý luận này được thừa nhận trong khoa học pháp lý quốc
tế. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế có vị trí cao hơn
pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, học thuyết này công nhận có khả năng xung
đột giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Và để giải quyết xung đột,
các quốc gia, do chịu ảnh hưởng của sự ràng buộc của pháp luật quốc tế, cần
phải hủy bỏ các văn bản pháp luật của quốc gia mình trái với pháp luật quốc
tế. Còn các văn bản pháp luật quốc gia tạm thời có vị trí thấp hơn so với pháp
luật quốc tế.Vì thế, để thực hiện các cam kết quốc tế, quốc gia cần phải xây
dựng các văn bản pháp luật trong nước cho tương thích với pháp luật quốc tế.
Trong trường hợp có sự xung đột giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế
thì pháp luật quốc tế được ưu tiên áp dụng.
1.2.2. Lý thuyết pháp luật quốc gia ƣu thế hơn pháp luật quốc tế
Học thuyết về sự ưu tiên của pháp luật quốc gia đặt chủ quyền của
quốc gia lên trên hết. Pháp luật quốc tế chỉ có giá trị áp dụng, nếu một quốc
gia tự công nhận là nó có giá trị hiệu lực đối với mình.
Trong mối tương quan pháp luật của quốc gia, pháp luật quốc tế lúc này
không còn giá trị độc lập nữa, mà chỉ được coi là một bộ phận cấu thành pháp
luật quốc gia, hoặc chỉ đơn thuần là "pháp luật quốc gia trong quan hệ đối ngoại".
Học thuyết này dần dần bị bác bỏ trong khoa học pháp lý quốc tế tế
hiện đại do có sự xuất hiện của các quan điểm trong pháp luật quốc tế về "chủ
quyền có hạn chế" của quốc gia.