Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.59 KB, 58 trang )

Đề tài:
TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA
ĐẢNG CẦM QUYỀN VỚI NHÂN DÂN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ
GIỮA ĐẢNG CẦM QUYỀN VỚI NHÂN DÂN
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

g
3
9


2

1.1. Một số khái niệm có liên quan và nội dung cơ bản của tư

9

tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng cầm
quyền với Nhân dân
1.2. Tiêu chí đánh giá việc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng

20

cầm quyền với Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh


Chương 2: SỰ CẦN THIẾT VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG

27

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CẦM QUYỀN VỚI
NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.

THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Sự cần thiết phải tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm

27

2.2.

quyền với Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Một số giải pháp cơ bản tăng cường mối quan hệ giữa

42

Đảng cầm quyền với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN

53

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

54



3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của nhân loại, việc giải quyết mối quan hệ
giữa giai cấp cầm quyền với Nhân dân là một vấn đề ln có ảnh hưởng trực
tiếp tới sự tồn vong của mọi chế độ xã hội và giải quyết vấn đề này là một nội
dung mà mọi giai cấp nắm quyền phải quan tâm. Song nó ln được đặt ra và
có những thể hiện rất khác nhau về quan điểm ở các chế độ, các thời đại.
Trong suốt sự nghiệp cách mạng của một lãnh tụ kiệt xuất, Hồ Chí Minh
luôn quan tâm chăm lo đến mối quan hệ Đảng cầm quyền với Nhân dân, nhằm
phát huy sức mạnh vô địch của Nhân dân vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Bằng trải nghiệm thực tiễn vô
cùng phong phú, sinh động ở nhiều nước trên thế giới với các chế độ chính trị
khác nhau và kế thừa truyền thống "dân là gốc" của ông cha ta trong lịch sử
dựng nước và giữ nước, cùng với tiếp thu các giá trị tiến bộ của văn minh nhân
loại, nhất là các quan điểm cách mạng, khoa học của lý luận Mác-Lênin trong
giải quyết mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân, Hồ Chí Minh cùng
với Đảng do Người sáng lập đã rất thành công trong giải quyết mối quan hệ
Đảng cầm quyền với Nhân dân. Điều đó góp phần quan trọng, có ý nghĩa quyết
định vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã thật sự được
Nhân dân yêu mến, tin cậy và ủng hộ. Do đó, đã làm Cách mạng tháng Tám
(1945) thành công, trở thành Đảng cầm quyền và lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ thắng lợi, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
dân tộc dân chủ Nhân dân, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975).
Tuy nhiên, từ khi trở thành Đảng cầm quyền, đặc biệt là trong giai đoạn lãnh
đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi
cả nước, nhiều cấp ủy đảng, chính quyền và nhiều cán bộ, đảng viên có chức,

có quyền đã quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng Nhân dân, làm mất lòng


4

tin, làm giảm sút uy tín của Đảng với Nhân dân. Những sai lầm khuyết điểm
đó, nếu khơng kiên quyết sửa chữa, lại bị kẻ địch trong và ngoài nước lợi
dụng phá hoại thì sẽ dẫn đến những hậu quả khơn lường đối với sự nghiệp
cách mạng. Vì vậy, trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu, nắm vững
và vận dụng đúng đắn những tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền với Nhân dân là một yêu cầu cấp bách và thiết thực trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay. Điều này, cũng chính là quán triệt và thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay" và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Xuất phát từ những lý do về lý luận và thực tiễn trên đã cho thấy, việc
nghiên cứu đề tài "Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với
Nhân dân trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh" là một vấn
đề khoa học, vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa mang tính cấp bách,
thiết thực, vừa cơ bản, lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến khóa luận
Đề cập tới vấn đề mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân ở
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có khơng ít bài viết, cơng trình nghiên
cứu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và các nhà khoa học.
Song cho đến nay mới chỉ ở dạng những bài viết riêng lẻ, chưa được nghiên
cứu một cách cơ bản, hệ thống, chủ yếu nêu và gợi mở vấn đề như: Mối quan

hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Đàm Văn Thọ,
Vũ Hùng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (Nxb CTQG), Hà Nội, 1997. Cuốn
sách đã trình bày quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ


5

giữa Đảng và Nhân dân cũng như những nội dung chủ yếu về mối quan hệ giữa
Đảng với Nhân dân theo quan điểm của Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả
cũng đã nêu lên thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế của mối quan hệ
giữa Đảng với Nhân dân. Từ đó, đề xuất những giải pháp và phương hướng
nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn; Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong thời kỳ
mới của tập thể tác giả do đồng chí Nguyễn Thế Trung, Ủy viên Trung ương
Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương làm chủ biên,
Nxb CTQG, Hà Nội, 2014. Cuốn sách đề cập đến tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác dân vận trong tình hình mới, từ đó khẳng
định vai trò lãnh đạo và những đổi mới trong lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận trong tình hình hiện nay, nhằm củng cố và xây dựng mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng và Nhân dân; Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền do Hội đồng Lý luận Trung
ương biên soạn năm 2014. Cuốn sách là kết quả Hội thảo lý luận của chương
trình hợp tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đổi mới giữa hai Đảng,
hai Nhà nước Việt Nam và Lào. Cuốn sách này gồm 11 chuyên đề trong đó có
bàn đến công tác xây dựng Đảng, Nhà nước và về đổi mới phương pháp lãnh
đạo của một Đảng cầm quyền, công tác quần chúng của Đảng.
Một số đề tài khoa học và cơng trình nghiên cứu có liên quan như: Mối
quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, Đàm Văn
Thọ, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Triết học, Viện nghiên cứu chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996; Dân và mối quan hệ giữa Đảng
cầm quyền với dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Vũ Hùng , Luận án Phó tiến sĩ

khoa học Triết học, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 1996. Trong đó, các tác giả đã trình bày những luận điểm về
Nhân dân, về Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với Nhân dân ở phương Tây


6

và phương Đông, đồng thời chỉ ra những luận điểm cơ bản mà Hồ Chí Minh đã
kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo nó phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt
Nam. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã khái quát được những quan điểm cơ bản
của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhân dân; Mối quan
hệ giữa Đảng với Nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn Duy Quỳnh, Luận án
Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Hà Nội, 2016. Luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận căn bản về mối quan
hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với Nhân dân, từ đó đánh giá thực trạng và đề
ra phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản
Việt Nam với Nhân dân để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước.
Ngồi ra, một số bài viết có liên quan đến khóa luận như: "Cơ sở của
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân" - TS Dương Trung Ý
-Tạp chí Lý luận chính trị số 6/2013; "Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
cầm quyền với dân dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh" - PGS.TS Bùi Đình
Phong - Tạp chí Lý luận chính trị số 11/2013; "Tăng cường quan hệ mật thiết
giữa Đảng và Nhân dân trong thời kỳ mới" trong cuốn "Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền" GS.TS Phùng Hữu Phú, Nxb CTQG, Hà Nội, 2014; "Tăng cường mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân - nguồn sức mạnh nội lực của Đảng" TS Văn Thị Thanh Mai - Tạp chí Cộng sản điện tử, đăng ngày 03-02-2015;
"Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với Dân" - ThS Đỗ Thị Thu Hà - Tạp
chí Xây dựng Đảng điện tử, đăng ngày 14-11-2015; "Mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng với Nhân dân là không thể chia cắt" - PGS. TS Nguyễn Mạnh
Hưởng - Tạp chí Cộng sản điện tử, đăng ngày 11-02-2015...
Nhìn chung, các cơng trình khoa học, các bài viết đã luận giải nhiều vấn đề

lý luận và thực tiễn về Đảng, về Nhân dân và mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền
với Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của nước ta qua các giai đoạn, đồng thời
nghiên cứu làm sáng tỏ tư tưởng về Đảng, về Nhân dân và mối quan hệ giữa Đảng


7

cầm quyền với Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình khoa học nào đề cập riêng,
cũng như đi sâu nghiên cứu việc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm
quyền với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Song những cơng trình nghiên cứu trên đây là những tư liệu rất quý giá giúp
tác giả tiếp thu, kế thừa để hoàn thành khố luận của mình về "Tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Làm rõ nội dung, tiêu chí và thực trạng của mối quan hệ
giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó đề
xuất một số giải pháp cơ bản tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền
với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số khái niệm có liên quan và phân tích, luận giải những quan
điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân.
- Luận giải một số tiêu chí và đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
cầm quyền với Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền với Nhân dân và việc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng

cầm quyền với Nhân dân giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền với Nhân dân và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay.
- Về thời gian: Từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về mối quan
hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân.


8

* Cơ sở thực tiễn: Căn cứ vào nhận định, đánh giá của Đảng ta trong
các văn kiện của Đảng về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân,
cũng như kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã được công bố.
* Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận dựa vào phương pháp logic,
lịch sử của chuyên ngành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngồi ra, tác giả còn lựa
chọn và sử dụng một số phương pháp nghiên cứu liên ngành như: phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn, lý luận chính trị và các phương
pháp nghiên cứu cụ thể: tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê…
6. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận góp phần làm sáng tỏ thêm các quan điểm của Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân, cũng như thực trạng và
một số giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân
trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh và các nội dung liên quan.
7. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), Kết luận và Danh mục tài

liệu tham khảo.


9

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CẦM
QUYỀN VỚI NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Một số khái niệm có liên quan và nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân
1.1.1. Một số khái niệm có liên quan
* Khái niệm về Đảng cầm quyền.
Đảng cầm quyền là một khái niệm được sử dụng rộng rãi ở các nước
phương Tây ngay khi xã hội bắt đầu hình thành các đảng chính trị. Ở nước Nga
Xô-viết trước đây, V.I.Lênin cũng đã đề cập nhiều vấn đề liên quan đến đảng
cầm quyền. Theo V.I.Lênin, đảng cầm quyền được hiểu là "đảng nắm chính
quyền" bằng những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc quản
lý trong bộ máy Nhà nước. Ơng cịn cho rằng: "Những cán bộ, đảng viên trong
bộ máy Nhà nước phải hoạt động làm sao bảo đảm vừa với tư cách là người đại
diện cho đảng thực hiện việc tuyên truyền, vận động Nhân dân đi theo đảng, tức
là hoạt động "lãnh đạo", vừa với tư cách là người đại diện cho đảng, đồng thời là
đại biểu của Nhân dân thực hiện công việc quản lý Nhà nước, tức là hoạt động
"cầm quyền" [18, tr.181]. Điều đó cho thấy, đảng cầm quyền là một khái niệm
gắn với quyền lực. Tức đảng có quyền lực chính trị mà cụ thể là ở việc "nắm
chính quyền" hay "nắm quyền lực Nhà nước". Khơng những thế, theo V.I.Lênin,
khi đảng nắm được chính quyền thì đảng khơng chỉ có quyền lực chính trị, mà
"với tư cách Nhà nước, cịn có thêm được quyền lực kinh tế" [19, tr.75].
* Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức về Đảng cầm quyền,
trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đề cập đến "Đảng Cộng sản cầm

quyền"; trong Di chúc, Người viết "Đảng ta là một Đảng cầm quyền". Quan
điểm của Hồ Chí Minh về "Đảng cầm quyền" mà hạt nhân là sự gắn bó giữa
Đảng với Nhân dân là một tài sản vô giá.
Tuy không nêu rõ khái niệm "Đảng cầm quyền" là như thế nào, nhưng
qua những bài viết, bài nói của Người cho thấy rằng, "Đảng cầm quyền" là


10

khái niệm có những điểm khác với "Đảng lãnh đạo". Đảng cầm quyền là một
khái niệm gắn với quyền lực. Theo Người, Đảng cầm quyền cũng tức là Đảng
nắm chính quyền, nghĩa là Đảng có quyền lực trong thực tế. Tuy nhiên, Đảng
ta là đội tiên phong không chỉ của giai cấp công nhân mà là của cả dân tộc,
"Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân" [29,
tr.276]; đồng thời, những cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp thi hành những
nhiệm vụ quản lý trong bộ máy Nhà nước đều chỉ là những người được Nhân
dân "ủy thác", bầu ra để phục vụ Nhân dân. Do vậy, ở nước ta, Đảng nắm
chính quyền cũng tức là Nhân dân nắm chính quyền, bởi Đảng chỉ là lực
lượng tiêu biểu, đại diện cho toàn dân nắm chính quyền. Cán bộ, đảng viên
trong bộ máy Nhà nước có quyền lực nhưng quyền lực đó là thuộc về Nhân
dân. Người viết: "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại
biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy" [29, tr.263]. Có thể thấy, đây là
một nét đặc thù của Đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay.
Từ cách tiếp cận ở trên ta có thể nêu ra khái niệm: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng cầm quyền là một hệ thống những quan điểm về quyền lực
chính trị của Đảng; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta và là sự kết tinh tinh hoa dân
tộc, trí tuệ thời đại nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng ở Việt Nam.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền vừa là vinh dự, vừa là nghĩa
vụ, bổn phận của Đảng, của từng con người gánh vác trọng trách với dân tộc.

* Quan niệm về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm sâu sắc về mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền với Nhân dân. Theo Người, Đảng cầm quyền nhưng Nhân
dân làm chủ: "Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [27,
tr.232]. Có thể thấy rằng, mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân là
mối quan hệ hai chiều. Một mặt, Đảng đề ra những chủ trương, chính sách và


11

vận động, hướng dẫn Nhân dân thực hiện và chấp hành, qua đó xác định vai trị
lãnh đạo xã hội. Mặt khác, Đảng là một bộ phận của Nhân dân, trong quá trình
tổ chức, lãnh đạo Nhân dân thành lực lượng cách mạng thì Đảng được bổ sung
lực lượng từ các nhân tố tiên tiến của quần chúng Nhân dân. Đảng tiếp thu trí
tuệ của Nhân dân để định ra đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Từ cách tiếp cận này và trên cơ sở các quan điểm đề cập ở trên, có thể
rút ra quan niệm: Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng cầm
quyền với Nhân dân là những quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa Đảng nắm giữ quyền lực chính trị với chủ thể của quyền lực chính trị
nhằm thực hiện thành công mục tiêu xây dựng xã hội mới ở Việt Nam với Nhà
nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền với Nhân dân
Trên cơ sở quan niệm trình bày ở trên, có thể thấy rằng: Quan hệ giữa
Đảng cầm quyền với Nhân dân là quan hệ xã hội đặc biệt, được hình thành và
phát triển trong điều kiện cách mạng vơ sản. Vì vậy, mối quan hệ giữa Đảng
cầm quyền với Nhân dân là một phạm trù lịch sử.
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được sự gắn bó giữa Đảng với dân có
cơ sở sâu xa ở sự thống nhất về những lợi ích cǎn bản và mục tiêu lý tưởng

của Đảng chính là phụng sự những lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Theo
Người, mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân có sự qui định, ràng
buộc, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, điều đó được thể hiện
trên các nội dung sau:
Thứ nhất, Đảng cầm quyền phải liên hệ, gắn bó mật thiết với Nhân
dân, Đảng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.
Liên hệ, gắn bó mật thiết với Nhân dân là nguồn gốc chủ yếu tạo nên
sức mạnh của Đảng ta, là một trong những điều kiện và nguyên nhân làm cho
Đảng ta giữ vững được quyền lãnh đạo và giành được thắng lợi trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vì vậy, liên hệ, gắn bó mật thiết với dân


12

là một yêu cầu khách quan, cũng là một biện pháp quan trọng nhằm tǎng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đảng ta cũng ở trong xã hội, cũng từ dân mà ra, Người nói,"Đảng ta là con
nịi, xuất thân từ giai cấp lao động" [33, tr.400], "Đoàn thể từ Trung ương đến xã
do dân tổ chức nên" [27, tr.232]. Do đó, giữa Đảng và dân vốn có một mối liên hệ
gắn bó nhất định. Tuy vậy, Đảng và dân khơng đồng nhất, khơng phải là một mà
vẫn có sự khác biệt, có vai trị vị trí khác nhau. Nói đến Đảng là nói đến vai trị
lãnh đạo, như Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Đảng ta là một đảng cách mạng,
một đảng lãnh đạo" [33, tr.484]. Thực tế lịch sử cách mạng nước ta đã chứng minh
rằng Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng trong cả
nước mà cịn giữ được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực.
Trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân, nếu Đảng cầm
quyền là người lãnh đạo thì Nhân dân là đối tượng lãnh đạo, chịu sự lãnh đạo
và trong mọi thời kỳ cách mạng đều cần có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng.
Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhân dân là vì Nhân dân. Bởi vì, Nhân
dân chính là điểm xuất phát và cũng là nội dung, là mục tiêu phấn đấu của

Đảng ta. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng, Đảng ta khơng có lợi ích
nào khác, ngồi lợi ích của giai cấp, của Nhân dân, của dân tộc; rằng Đảng chỉ
mưu giải phóng cho dân, nên mọi việc đều vì lợi ích của dân mà làm và chịu
trách nhiệm trước dân. Đặc biệt là khi Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền,
Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ đảng viên và các tổ chức đảng phải
luôn ln nhớ rằng mình là đày tớ của Nhân dân chứ không là "quan" Nhân
dân. Trong Di chúc lịch sử của Người, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định:
"Đảng ta là một Đảng cầm quyền... phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân" [36, tr.622]. Đây là một luận
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng vào lý luận xây
dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Luận điểm này đã chỉ rõ cái bản
chất nhất trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân.


13

Nói Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ của dân thì dường
như có cái gì "mâu thuẫn", phi lý, khó chấp nhận? Lãnh đạo và đày tớ, về nhận
thức là hai phạm trù khác nhau và về thực tế có hai đối tượng khác nhau. Lãnh
đạo nói khái quát là việc định hướng mục tiêu nhiệm vụ, đề ra đường lối, chủ
trương, phương pháp tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó. Lãnh đạo chính
là "bàn chỉ nam", là "người cầm lái" - một nhu cầu cần thiết khách quan - của
mọi hoạt động xã hội. Đã có lãnh đạo thì phải có đối tượng lãnh đạo. Trong
mối quan hệ Đảng cầm quyền với Nhân dân, thì đối tượng lãnh đạo của Đảng
chính là quần chúng nhân dân. Đảng là đày tớ nghĩa là Đảng phải trung thành
và tận tuỵ phục vụ Nhân dân. Trong vai trò của Đảng đối với dân, cái chung
của người lãnh đạo và của người đày tớ là vì dân, phục vụ Nhân dân. Chính vì
vậy mà Hồ Chí Minh đã đồng nhất vai trò Đảng là người lãnh đạo với Đảng là
người đày tớ của dân. Người khẳng định: "Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là
tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở

cấp nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân" [34, tr.83].
Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là người lãnh đạo, sẵn sàng vui vẻ
làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của Nhân dân thì chính sách của Đảng
và Chính phủ, các cơ quan và cán bộ của Đảng và Chính phủ từ trên xuống
dưới đều phải có trách nhiệm hết sức chǎm nom đến đời sống của Nhân dân:
Nếu dân đói, dân rét, dân ốm, dân dốt, Đảng và Chính phủ đều có lỗi. Dân
khơng đủ muối, khơng có gạo đủ no, khơng có vải mặc đủ ấm, khơng có
trường học cho các cháu, Đảng phải lo. Nghĩa là tất cả mọi việc Đảng phải lo,
từ việc lớn đến việc nhỏ, từ đấu tranh thống nhất nước nhà, việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội đến cả việc "tương cà mắm muối" của dân, Đảng đều phải lo.
Trong bản Di chúc lịch sử, Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa Đảng và
dân, khẳng định bản chất tốt đẹp của Nhân dân ta và nhắc nhở về trách nhiệm
của Đảng cầm quyền đối với dân: "Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng


14

hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung
thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và
vǎn hố, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân dân" [36, tr.612].
Như vậy, Hồ Chí Minh coi Nhân dân là người chủ của đất nước, của xã
hội và coi những người lãnh đạo, những người cầm quyền là đày tớ của Nhân
dân là tư tưởng hoàn tồn mới, khơng hề thấy trong tư tưởng Nho giáo và
trong tư tưởng truyền thống của dân tộc ta. Tư tưởng đó thể hiện một chủ
nghĩa nhân vǎn cao đẹp tuyệt vời ở Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Đảng dựa vào dân, dân tin Đảng và nêu cao vai
trò lãnh đạo của Đảng để phát huy quyền làm chủ của dân.
Hồ Chí Minh nhất qn khẳng định cách mạng thành cơng là do quần
chúng tin theo Đảng, mà quần chúng tin theo sự lãnh đạo của Đảng là vì Đảng
dựa vào quần chúng. Vì vậy, Đảng phải dựa vào dân, khơng được xa rời dân,

nếu khơng thế thì sẽ thất bại. "Dựa vào dân" không chỉ là nguyên tắc quan
trọng của cách mạng, là yêu cầu rèn luyện đảng viên, cán bộ mà cịn là cơ sở
của chính sách đồn kết tồn dân của Hồ Chí Minh. Dựa vào dân, trước hết là
phải dựa vào công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó
là nền, là gốc của đại đồn kết. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, rồi cịn phải
đồn kết các tầng lớp Nhân dân khác. "Dựa vào dân" là quan điểm nhất quán ở
Hồ Chí Minh trong mọi hoạt động cách mạng, để tập hợp lực lượng vĩ đại của
Nhân dân làm cách mạng, tiến hành kháng chiến, kiến quốc. Phải động viên, tổ
chức, đoàn kết quần chúng, lấy sức quần chúng mà vượt qua khó khǎn...
Muốn dựa vững chắc vào dân, phải làm cho Nhân dân tin vào hiệu quả
của đường lối, chính sách của Đảng; ở phẩm chất đạo đức, ở tác phong và lề lối
làm việc của cán bộ đảng viên. Để làm được điều đó, Hồ Chí Minh địi hỏi mỗi
cán bộ đảng và cán bộ chính quyền nhất nhất phải tuân thủ nguyên tắc mà Người
coi là khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng" [26,
tr.288]. Quan điểm dựa vào quần chúng của Hồ Chí Minh địi hỏi tồn bộ hoạt


15

động của Đảng, phải hướng tới hoạt động của Nhân dân, mà trước hết là hoạt
động lao động sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần, ý muốn của quần chúng.
Mặt khác, với cán bộ, đảng viên, Người yêu cầu khi làm bất kỳ việc gì
cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân đã...,
làm việc gì mình cũng nghĩ đến lợi ích chung trước, lợi ích riêng sau. Phải xuất
phát từ thực tiễn, tơn trọng khách quan. Người địi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên
phải phát huy tính chủ động, gương mẫu của mình, phải sâu sát, gần dân, lắng
nghe dân, phải gột bỏ chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, địa vị và vai trị của các tổ chức và
đồn thể quần chúng ngày càng được củng cố, tǎng cường. Các tổ chức và đoàn
thể quần chúng là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống chính trị, là khâu

quan trọng để củng cố mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân, phát huy vai trị tích
cực của quần chúng Nhân dân vào việc quản lý Nhà nước và các quá trình xã hội
khác. Vì vậy, Đảng phải coi trọng việc xây dựng các tổ chức đoàn thể và xây
dựng Đảng trong các tổ chức đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội để tǎng
cường, củng cố mối quan hệ Đảng và Nhân dân thơng qua những tổ chức trên.
Chính nhờ đi đúng đường lối quần chúng, biết dựa vào dân nên Đảng ta
được dân tin yêu, chở che và đùm bọc. Vì vậy, Nhân dân đã khơng tiếc máu
xương và của cải, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp của Đảng. Do đó, Đảng ta đã
phát động được các cao trào cách mạng, làm nên Cách mạng Tháng Tám
thành cơng, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân và đưa cả nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội; làm cho ý Đảng và lòng dân thống nhất với nhau.
Trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân, Hồ Chí Minh
u cầu nêu cao vai trị lãnh đạo của Đảng thì mới phát huy được quyền làm
chủ của Nhân dân. Trên thực tế, việc nêu cao vai trị lãnh đạo của Đảng khơng
hề đối lập với phát huy quyền làm chủ của Nhân dân mà nó làm cho mối quan
hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân ngày càng sâu sắc hơn. Trong tác
phẩm Đường cách mệnh năm 1927, Hồ Chí Minh viết: "Đảng có vững cách


16

mệnh mới thành công" mà cách mệnh thành công nghĩa là đem lại và phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân. Người còn viết: "Chế độ ta là chế độ dân
chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân" [30, tr.90]. Ngoài ra,
Người cũng chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể, đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên trong
bộ máy Đảng và Nhà nước phải yêu kính, tơn trọng, phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân.
Thứ ba, phải đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống, lắng nghe ý kiến,
nguyện vọng của Nhân dân.
Đường lối lãnh đạo của Đảng là khoa học và nghệ thuật. Nó xác định

những mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản của cách mạng
trong những giai đoạn nhất định. Đường lối chính là cơ sở chính trị, tư tưởng
và tổ chức của Đảng, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết Nhân dân xung quanh
Đảng. Đường lối còn là cơ sở để định ra các chủ trương, chính sách của Nhà
nước. Vì vậy, đường lối liên quan mật thiết tới sinh mệnh của Đảng và của
Nhân dân. Do vậy, một mặt, đường lối phải đúng đắn, khoa học, phản ánh
được quy luật phát triển khách quan của xã hội, hợp với lợi ích, nguyện vọng
của Nhân dân. Mặt khác, phải được tổ chức thực hiện có hiệu quả nhất. Việc
tổ chức thực hiện đường lối của Đảng vừa thể hiện khả nǎng lãnh đạo, hiện
thực hoá đường lối của Đảng và đội ngũ đảng viên vào cuộc sống, vừa phản
ánh sự đồng tình ủng hộ của Nhân dân. Chính vì vậy, việc đảng viên đưa
đường lối vào cuộc sống của Nhân dân và ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của
Nhân dân được đưa vào đường lối của Đảng là một tất yếu trong mối quan hệ
biện chứng giữa Đảng và Nhân dân.
Trong sự tác động qua lại trên, theo Hồ Chí Minh cán bộ, đảng viên giữ
vai trị rất quan trọng. Chính cán bộ, đảng viên là dây chuyền của bộ máy, của
tổ chức, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì bộ máy cũng tê liệt. Cán
bộ, đảng viên là những người đem đường lối, nghị quyết, chính sách của
Đảng thực hiện trong Nhân dân. Do vậy, cán bộ, đảng viên phải tin quần


17

chúng, đi sát quần chúng, hồ mình với quần chúng thành một khối theo quan
điểm của Người là đảng viên đi trước, làng nước theo sau.
Để biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của tồn dân, Hồ Chí
Minh cǎn dặn cán bộ, đảng viên phải vì lợi ích của Nhân dân mà phục vụ, và
trước mỗi công việc muốn được dân đồng tình ủng hộ phải tìm cách giải thích
cho dân hiểu. Người dạy: "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân
rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khǎn mấy họ cũng làm được, hy sinh

mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm đủ cách giải
thích cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì ích cho họ mà phải làm" [26,
tr.286]. Từ đó mà sáng tạo những phương thức, cách thức hành động để đạt
hiệu quả cao nhất trong việc đưa đường lối của Đảng vào quần chúng Nhân
dân. Tuy nhiên việc tuyên truyền vận động phải hợp với trình độ vǎn hố, thói
quen sinh hoạt, trình độ, kinh nghiệm, tình hình thực tế của quần chúng. Vì
vậy, theo Hồ Chí Minh cách tổ chức và cách làm việc khơng phù hợp với
quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Phải
kiên quyết tẩy bỏ bệnh quan liêu xa rời Nhân dân, xa rời thực tiễn. Đó là cǎn
bệnh "khơng chịu khó hỏi quần chúng cần cái gì, muốn theo muốn biết cái gì,
ham chuộng cái gì. Chỉ mấy cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phịng
giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm là đúng, mình viết là hay ho. Kết
quả là "đem râu ông nọ chắp cằm bà kia", không ǎn thua, khơng thấm thía,
khơng ích lợi gì cả" [26, tr.287].
Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc cao nhất trong chỉ đạo thực tiễn, trong
triển khai đường lối chính sách của Đảng là phải ln ln do nơi quần chúng
kiểm sốt những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay khơng. Mặt khác, khi đã
có đường lối và chính sách đúng rồi thì thành cơng hay thất bại của chính
sách cịn do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Ba
điều ấy sơ sài khơng đồng bộ, khơng chặt chẽ, thì đường lối, chính sách hay
mấy cũng vơ ích. Do vậy, "Đảng phải ln luôn xét lại những nghị quyết và


18

những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu khơng vậy thì những nghị
quyết và chỉ thị đó sẽ hố ra lời nói sng mà cịn hại đến lòng tin cậy của
nhân dân đối với Đảng" [26, tr.290].
Trong quá trình triển khai việc thực hiện đường lối của Đảng, Hồ Chí
Minh u cầu phải hết sức tơn trọng ý kiến đóng góp của quần chúng, khơng

được có thái độ "bịt mồm quần chúng". Người nhắc lại câu tục ngữ "Có thực
mới vực được đạo" để nhắc nhở phải đặc biệt chǎm lo cải thiện, nâng cao đời
sống Nhân dân. Vì vậy, theo Người, chính sách của Đảng và Chính phủ là
phải hết sức quan tâm tới đời sống của Nhân dân: Dân đủ ǎn, đủ mặc thì chính
sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Để đường lối của
Đảng đi vào cuộc sống của Nhân dân và cuộc sống của Nhân dân đi vào
đường lối của Đảng, ngoài những vấn đề cơ bản đã được đề cập ở trên, Hồ
Chí Minh cịn u cầu mỗi người dân phải phát huy quyền làm chủ và trách
nhiệm cơng dân trong việc đóng góp, xây dựng phê bình và kiểm tra cơng
việc và hành vi của cán bộ, đảng viên. Có như vậy mới tránh được khuyết
điểm, mới củng cố được mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân.
Thứ tư, Đảng cùng dân kiên quyết chống tệ nạn tham ơ,
lãng phí, quan liêu và các tệ nạn khác trong bộ máy của Đảng
và Nhà nước.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, Đảng ta trở thành
Đảng cầm quyền. Với tầm nhìn sâu sắc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những
vấn đề của Đảng cầm quyền: Nguy cơ xa rời quần chúng Nhân dân, xa rời
mục tiêu, lý tưởng cách mạng... Bởi khi Đảng cầm quyền thì cán bộ, đảng
viên dễ quên đi lý tưởng của mình, dễ khốc lên cái mác "quan cách mạng"...
Thực tiễn cho thấy, trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều thói hư, tật xấu đã
nảy sinh trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức, có quyền
như: cậy quyền, cậy thế, hủ hố, chia rẽ, kiêu ngạo... và Người gọi đó là
những "lỗi lầm rất nặng nề". Những lỗi lầm đó rất nguy hiểm vì nó phá hoại


19

ta từ bên trong. Do đó, theo Người, Đảng phải luôn luôn nhắc nhở, rèn luyện
phẩm chất người đảng viên cộng sản, phải đấu tranh với kẻ địch nguy hiểm
nhất là "chủ nghĩa cá nhân" - nguyên nhân chính của những thói hư tật xấu

trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn
luyện đạo đức cách mạng; nâng cao tinh thần phục vụ dân, yêu kính dân, biết
dựa vào quần chúng thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước,
khiêm tốn, cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư, thật thà ngay thẳng, đặc biệt
là phải luôn luôn tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân. Phải vì Nhân dân
mà phục vụ theo một nguyên tắc nhất quán là: "Việc gì lợi cho dân, ta phải hết
sức làm; Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh" [25, tr.65].
Hồ Chí Minh khơng những sớm nhìn thấy những vấn đề chung của một
bộ máy quyền lực "tách khỏi dân, đứng trên dân" trong điều kiện Đảng cầm
quyền, mà Người còn thấy trước cả những vấn đề phức tạp của một nước nông
nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh mún đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều
kiện như vậy, khơng chỉ có vấn đề cán bộ, đảng viên dễ sa vào chủ nghĩa quan
liêu, xa dân, đứng trên đầu dân, ức hiếp dân, mà còn đẻ ra hàng loạt những tệ
nạn khác như tham ơ, lãng phí, hủ hố, bè phái địa phương, cục bộ... Tất cả
những thứ đó gộp lại như một thứ "giặc nội xâm" làm ruỗng nát bộ máy của
Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Người kêu gọi mọi cán bộ, đảng viên trong bộ máy
Đảng và Nhà nước phải thực sự cùng Nhân dân chống trả tích cực những cǎn
bệnh trên, mà trước hết và chủ yếu là bệnh quan liêu, tham ơ, lãng phí.
Người chỉ rõ, ngun nhân của cǎn bệnh trên là do xa dân, không hiểu
dân, khinh dân, cho là "dân ngu khu đen", do sợ dân vì bản thân mình có
khuyết điểm; khơng tin dân không hiểu biết Nhân dân; không yêu thương
Nhân dân, chỉ biết địi hỏi dân mà khơng biết nâng đỡ, giúp dân. Theo Người,
muốn chữa được bệnh đó, phải theo đúng nguyên tắc là đường lối Nhân dân
bao gồm mấy nội dung cơ bản sau: "- Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết; - Liên
hệ chặt chẽ với nhân dân; - Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích trước


20

nhân dân hiểu rõ; - Có khuyết điểm thì thật thà phê bình trước nhân dân, và

hoan nghênh nhân dân phê bình mình. - Sẵn sàng học hỏi nhân dân; - Tự mình
phải làm gương mẫu cần kiệm, liêm chính để nhân dân noi theo" [28,
tr.177]. Hồ Chí Minh cịn chỉ ra yêu cầu Đảng phải cùng dân kiên quyết
chống tệ quan liêu, tham ơ, lãng phí... bằng cách làm sao cho nhân dân biết
phát huy quyền làm chủ của mình: "Phải khéo khơi cho họ nói" [26, tr.335].
Đó là thang thuốc chữa bệnh quan liêu và bệnh cá nhân chủ nghĩa.
1.2. Tiêu chí đánh giá việc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm
quyền với Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trên cơ sở các nội dung đề cập ở trên, để đánh giá việc tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhân dân trong giai đoạn hiện nay có thể
căn cứ vào những tiêu chí cơ bản sau:
1.2.1. Việc ban hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng
phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của Nhân dân
Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành
cho lợi ích của Nhân dân và dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
rằng, ngồi lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và dân tộc, Đảng
khơng có lợi ích nào khác. Xét với tư cách là đại biểu lợi ích, Đảng ta là đảng
của Nhân dân, là Đảng vì dân, hơn nữa, lợi ích của Nhân dân lao động, của dân
tộc thống nhất với lợi ích của giai cấp cơng nhân. Đảng ta cũng khẳng định dựa
vào Nhân dân để xây dựng Đảng, Đảng lãnh đạo cách mạng trước hết bằng chủ
trương, đường lối, nghị quyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:"Cán bộ, đảng
viên là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng" [26, tr.309]. Do
đó, việc ban hành mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích của Nhân dân, trước khi ban hành chủ trương, nghị quyết, Đảng
phải lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân.
Từ yêu cầu đặc trên, khi xem xét, đánh giá mối quan hệ giữa Đảng cầm



21

quyền với Nhân dân, trước hết chúng ta cần xem xét, đánh giá những chủ
trương, nghị quyết của Đảng; đồng thời xem xét qui trình đề ra chủ trương, nghị
quyết đó đã được thực hiện như thế nào. Nội dung của các chủ trương, nghị
quyết đó có xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của Nhân dân hay khơng?
Những chủ trương, nghị quyết đó đã, đang và sẽ có tác động như thế nào đến đời
sống mọi mặt của Nhân dân?
Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông
qua Nhà nước. Hơn nữa, chúng ta đang thực hiện cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ". Do đó, mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết
của Đảng, nhất là những chủ trương, đường lối liên quan mật thiết tới đời sống
Nhân dân, tới mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân không những phải được lấy
ý kiến của Nhân dân mà cịn phải được cụ thể hóa, thể chế hóa thành những
chiến lược, chương trình, kế hoạch, chế độ, chính sách của Nhà nước và những
qui định cụ thể của pháp luật. Những chương trình, kế hoạch, chế độ, chính sách,
pháp luật đó có thực sự hướng vào việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân,
chăm lo lợi ích vật chất, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm các quyền dân sinh,
dân chủ và nâng cao dân trí, tạo điểu kiện thuận lợi để các tầng lớp Nhân dân
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần hay khơng?... Đó là
thước đo quan trọng đánh giá sự quan tâm và mức độ chăm lo của Đảng, Nhà
nước đối với Nhân dân.
1.2.2. Mức độ gần dân, sát dân của các tổ chức đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên
Có thể khẳng định, các tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt
nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân. Ở đâu
có quần chúng, ở đó cần có sự lãnh đạo của Đảng và thành lập tổ chức đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt
nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với
quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng" [35,



22

tr.28]. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải ln luôn liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, nhất là phải gương mẫu cho mọi người noi theo trong mọi mặt cơng
tác và trong đời sống. Nếu khơng như vậy, thì chẳng những cán bộ, đảng viên
không lãnh đạo được dân chúng mà cịn khơng học được dân chúng, chẳng
những khơng nâng cao được nhận thức cho dân chúng, mà cũng khơng biết ý
kiến của dân chúng.
Tiêu chí này cịn được thể hiện ở trong Điều lệ Đảng, cụ thể ở khoản 4,
Điều 23 quy định: Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ: Liên hệ mật thiết với Nhân
dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhân
dân; lãnh đạo Nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước... Bên cạnh đó, cấp ủy đảng và chính quyền
các cấp đều có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn đánh giá, bầu cử, bổ nhiệm
cán bộ, tiêu chuẩn đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đảng viên.
Từ những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh và những quy định của Đảng, Nhà
nước, chúng ta có thể đánh giá việc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với
Nhân dân thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức cơ
sở đảng; những việc mà các tổ chức cơ sở đảng đã làm được hay chưa làm
được cho dân; đánh giá sự thể hiện về phẩm chất chính trị, đạo đức, việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được quy định của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cụ
thể, đó là thơng qua những hành động, lời nói, việc làm cụ thể, thơng qua
cách thức "ăn ở", ứng xử với Nhân dân. Người cán bộ, đảng viên đó có nắm
bắt được tình hình Nhân dân, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân hay khơng?
Có gần gũi, chia sẻ, động viên, giúp đỡ Nhân dân hay không? Có đặt lợi ích
của Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân hay khơng, có thái độ tơn trọng, sẻ chia
hay vơ cảm, coi thường lợi ích, tài sản và tính mạng của Nhân dân?... Do đó,

đây chính là tiêu chí quan trọng đánh giá chính xác mức độ gần gũi, liên hệ
mật thiết hay chưa mật thiết giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân.


23

1.2.3. Mức độ tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân
Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu trong việc đánh giá mối quan hệ
giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân. Bởi vì, là Đảng duy nhất cầm quyền, hơn
nữa Đảng cầm quyền vì dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ của
Nhân dân phải được tôn trọng và phát huy ở mức cao nhất. Do đó, quyền làm
chủ của Nhân dân chính là một trong những thước đo quan trọng đánh giá việc
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân. Quyền làm chủ
của Nhân dân nói chung, quyền cơng dân nói riêng đã được Hiến pháp quy
định, trong đó có những quyền cơ bản sau đây:
Quyền được thông tin (dân được biết). Quyền này đã được nêu cụ thể
trong Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn. Để đánh giá quyền làm chủ của Nhân dân có được tơn trọng và phát
huy hay khơng, có thể căn cứ vào các nội dung, phạm vi vấn đề, hình thức,
phương pháp mà các cơ quan có trách nhiệm thơng tin cho Nhân dân biết.
Quyền được nói lên ý kiến của mình (dân được bàn). Quyền này đòi hỏi
người dân được tham gia thảo luận, bàn bạc và quyết định các công việc liên quan
đến đời sống của Nhân dân. Người dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế - xã hội...
Quyền được lao động, sản xuất, kinh doanh (dân được làm) theo qui định
của pháp luật. Nhu cầu, lợi ích của Nhân dân rất đa dạng, phong phú, quyền
được làm những gì pháp luật khơng cấm của người dân phải được tôn trọng và
phát huy. Đảng và Nhà nước cần có chính sách khuyến khích người Nhân dân
tích cực học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh, phát minh, sáng kiến cải tiến kỹ

thuật... Hạn chế hoặc cấm đoán những việc làm mang lại lợi ích chính đáng của
Nhân dân là biểu hiện sự bất lực trong lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng và
chính quyền các cấp.
Quyền được kiểm tra, giám sát (dân được kiểm tra, giám sát). Với quan
điểm dân là chủ, mọi quyền lực Nhà nước đều ở nơi dân. Do đó, dân có quyền


24

kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước, giám sát hoạt động của
đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những hoạt động liên quan trực tiếp đến
quyền, lợi ích của Nhân dân. Mức độ, phạm vi lĩnh vực hoạt động, hình thức,
phương pháp Nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát thể hiện mức độ
phát huy dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân.
1.2.4. Mức độ cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân
Đây là tiêu chí cơ bản trong đánh giá về mối quan hệ giữa Đảng cầm
quyền với Nhân dân. Bởi lẽ, xét cho đến cùng thì cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần cho Nhân dân chính là thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng và là cái đích
của thực hiện tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân.
Cương lĩnh của Đảng khẳng định thực hiện chính sách xã hội đúng đắn,
cơng bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo
của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cơng
bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý
phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng giai đoạn và trong từng chính sách; phát triển hài
hồ đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống
của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh
và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi
ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội. Thực tế cho thấy, tình
trạng người nghèo ngày càng khó có đủ điều kiện tiếp cận với hệ thống chăm

sóc sức khỏe và các dịch vụ y tế, tình trạng quá tải ở các bệnh viện, tình trạng
chạy trường, chạy lớp, quá tải ở những trường mầm non, tiểu học ở những
thành phố lớn, tình cảnh nhà ở, việc làm, thu nhập, quyền lợi của công nhân
trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước... càng
cho thấy khoảng cách giữa chủ trương, chính sách với thực tế cuộc sống của
Nhân dân có xu hướng ngày càng xa. Do vậy, tiêu chí này là một trong những
yếu tố để đánh giá chính xác về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm


25

quyền với Nhân dân.
1.2.5. Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ
Có thể khẳng định, đây chính là thước đo cao nhất, chính xác nhất, là
biểu hiện sinh động vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng và sức sống của mối
quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân. Niềm tin của
Nhân dân đối với Đảng hiện nay thể hiện trên nhiều phương diện, trước hết là
ở sự quan tâm, hưởng ứng tích cực hay khơng tích cực trong việc thực hiện
chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng. Một chủ trương, nghị quyết của
Đảng nhận được sự quan tâm, ủng hộ và tích cực thực hiện là một chủ trương,
nghị quyết đúng đắn, thể hiện sự quan tâm, chăm lo lợi ích của Đảng cầm
quyền đối với Nhân dân.
Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng còn thể hiện ở sự tích cực hay
khơng tích cực tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,
đồn thể ở địa phương, đơn vị; thể hiện ở sự quan tâm hay không đến thông
tin của Đảng; thể hiện ở sự quan tâm, đóng góp ý kiến xây dựng các văn kiện
đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu tồn quốc của Đảng; sự quan tâm,
đóng góp ý kiến phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Niềm tin của
Nhân dân đối với Đảng còn thể hiện ở số lượng quần chúng mới được kết nạp
vào Đảng; ở cơ hội được học tập, lao động và trưởng thành của con em những

người lao động bình thường trong xã hội; thể hiện ở số lượng nhân tài, số sinh
viên tốt nghiệp xuất sắc các trường cao đẳng, đại học vào làm ở khu vực
công, nhất là các cơ quan của Đảng.
Mức độ niềm tin của Nhân dân đối với Đảng hiện nay còn phụ thuộc
vào việc xử lý, khắc phục những hạn chế, yếu kém trong Đảng, nhất là mức
độ khắc phục những suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đẩy
lùi tham nhũng, tiêu cực, thái độ, tác phong làm việc, ứng xử với dân của đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Niềm tin của Nhân dân với Đảng sẽ bị mất
tỷ lệ thuận với sự thối hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ đó sẽ


×