Trình bày vị trí, chức năng cơ bản của gia đình và cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Từ đó đưa ra một số giải pháp để xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay đồng thời liên hệ với trách nhiệm của bản thân trong việc
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.37 KB, 17 trang )
ĐẠI HỌC
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
*****
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Câu hỏi tiểu luận: “Trình bày vị trí, chức năng cơ bản của gia
đình và cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội? Từ đó đưa ra một số giải pháp để xây dựng gia đình
văn hóa ở Việt Nam hiện nay đồng thời liên hệ với trách nhiệm
của bản thân trong việc thực hiện vấn đề này?”
Sinh viên thực hiện
:
Mã sinh viên
:
Lớp
:
Khóa
:
Giảng viên hướng dẫn :
HÀ NỘI, 2021
Mục Lục
2
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển xã hội, gia đình có vị trí đặc biệt, là “tế bào” của xã
hội, là thiết chế cơ bản trong cơ cấu tổ chức xã hội. Gia đình và việc thực hiện các
chức năng gia đình chịu ảnh hưởng rất nhiều của quá trình biến đổi xã hội về mọi
mặt như chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật…. Do sự va chạm giữa yếu
tố truyền thống và hiện đại, sự chênh lệch giữa tốc độ biến đổi của cơ cấu xã hội và
tốc độ biến đổi của gia đình, gia đình và chức năng của gia đình Việt Nam cũng bị
ảnh hưởng không, đặc biệt là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Với kiến thức đang có cộng với tinh thần tìm tịi học hỏi, em hy vọng bài
viết sẽ đưa ra được các ý trả lời xác đáng với câu hỏi “Trình bày vị trí, chức năng
cơ bản của gia đình và cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội? Từ đó đưa ra một số giải pháp để xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam
hiện nay đồng thời liên hệ với trách nhiệm của bản thân trong việc thực hiện vấn
đề này?”
3
NỘI DUNG
Phần I: Vị trí và chức năng của gia đình trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội
1.1 Khái niệm:
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trị quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của xã hội. Là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ
hơn nhân, huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình.
1.2 Vị trí:
a. Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố
tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ
nhất để tạo nên cơ thể - xã hội. Khơng có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội
khơng tồn tại và phát triển được. Chính vì vậy, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng
gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội cịn phụ thuộc vào
bản chất của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế
rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
b. Gia đình là tở ấm mang lại các giá trị hạnh phúc:
Từ khi còn nằm trong bụng mẹ đến lúc lọt lịng và suốt cuộc đời mỗi cá
nhân đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là mơi trường tốt nhất để mỗi cá
nhân được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành và phát triển. Sự yên
ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành
phát triển nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành cơng dân tốt cho xã hội.
c. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội:
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người. Chỉ trong
4
gia đình, mới thể hiện mối quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ
và con cái, anh chị em với nhau mà không cộng đồng nào có thể thay thế được.
Gia đình là nơi ni dưỡng, chăm sóc những cơng dân tốt cho xã hội. Sự
hạnh phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những cơng dân
của xã hội. Vì vậy muốn xây dựng xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại
thì làm cho xã hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh
thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà cịn có
những quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là
thành viên của xã hội. Khơng có cá nhân sinh ra từ bên ngồi gia đình, cũng khơng
thể có cá nhân bên ngồi xã hội. Gia đình chính là môi trường đầu tiên mà mỗi cá
nhân học được và thực hiện quan hệ xã hội.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thơng qua gia đình để tác động đến mỗi cá
nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thơng qua gia đình mà có ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo
đức, lối sống.
1.3 Chức năng:
1.3.1 Chức năng tái sản xuất ra con người:
Đây là chức năng đặc thù của gia đình mà khơng một cộng đồng nào có thể
thay thế được.
Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội.
Chức năng này sẽ góp phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi
nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo. Việc thực hiện
chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội vừa đáp ứng
được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở mỗi quốc
gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau.
Ví dụ:
5
•
•
Ở Việt Nam, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1
đến 2 con vừa đảm bảo được sức khỏe cho mẹ lại đảm bảo được chất
lượng về cuộc sống cho gia đình và có điều kiện chăm sóc, dạy bảo
các con.
Ở Trung Quốc hiện nay tỉ lệ nam giới đang có sự chênh lệch lớn so
với nữ giới, vì thế nên nhà nước đang thực hiện chính sách khuyến
khích sinh con một bề là con gái. Đến năm 2010, tại Trung Quốc,
SRB đạt 118 bé trai/100 bé gái, giảm so với 121 (năm 2008), 119
(năm 2005), 121 (năm 2004). Tỷ số giới tính sẽ vẫn tiếp tục chênh
lệch ở mức báo động 119 bé trai trên 100 bé gái vào những năm 2030.
1.3.2 Chức năng nuôi dưỡng giáo dục:
Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách
của con người, dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người cơng dân có
ích cho xã hội bởi gia đình là trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là những người
thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương
u, trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tơn
trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh
về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, cơng
dân có ích cho xã hội ...”
Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội. Gia
đình là mơi trường xã hội hóa đầu tiên của con người và là chủ thể của sự giáo dục.
Như khoa học đã xác định rõ ràng, cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân thường hình
thành ngay từ thời thơ ấu. Gia đình trang bị cho đứa trẻ những ý niệm đầu tiên để lí
giải thế giới sự vật, hiện tượng, những khái niệm về cái thiện và cái ác, dạy cho trẻ
con hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị mà
gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó.
Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối
sống thuần phong mĩ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý
đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý
thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức…
Chức năng giáo dục của gia đình chịu tác động trực tiếp của các yếu tố
khách quan và chủ quan. Sự thay đổi lớn trong các chính sách kinh tế xã hội,
những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa, thơng tin, lối sống, sự thiếu hụt kinh
nghiệm, ý thức dạy con trong những gia đình trẻ… đó là những yếu tố ảnh hưởng
đến chức năng giáo dục của gia đình.
6
Để chức năng này được thực hiện một cách có hiệu quả thì gia đình phải có
phương pháp giáo dục, răn đe một cách đúng đắn. Ai sai thì nhận sai và sửa chữa
chứ đừng vì cái tơi, cái sĩ diện và tính bảo thủ của mình mà cố chấp khơng thay
đổi. Có nhiều gia đình dạy dỗ con cái bằng những trận đòn roi, những cái bạt tai
đến tối mặt mũi ... Liệu đó có phải là biện pháp hiệu quả? Những biện pháp ấy
chẳng những không đem lại tác dụng gì mà càng khiến con cái trở nên chai lì, tâm
lí tiêu cực và mất đi tình cảm thân thiết, niềm tin vào những người trong cùng một
mái nhà.
Thay bằng những trận địn roi đến nhừ người thì những bậc cha mẹ nên dạy
dỗ, chỉ bảo con cái mình nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để con trẻ hiểu. Hơn nữa
những bậc cha mẹ, ông bà nên là một tâm gương để thế hệ trẻ noi theo. Các thành
viên trong gia đình sống thuận hịa, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ những khó khăn
trong cuộc sống.
Lại có nhiều những gia đình cha mẹ mải kiếm tiền mà khơng biết hài hịa
giữa vật chất và tinh thần nên khơng có thời gian quan tâm sát sao đến con cái
khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những
hành vi đi ngược lại với thuần phong mĩ tục và truyền thống đạo đức của dân tộc…
Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc,
con người sẽ trở nên hoàn thiện hơn khi có sự kết hợp giáo dục cả ở gia đình, nhà
trường, xã hội và hơn nữa là ý thức tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi người…
Thơng qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành cầu
nối không thể thay thế được giũa xã hội và cá nhân.
Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử
cũng như mỗi chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu
gia đình lí tưởng với chức năng xã hội của nó.
1.3.3 Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật
chất, là chức năng đảm bảo sự sống cịn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được
ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh”. Chức năng này bao quát về nhu cầu
7
ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình nhằm thỏa
mãn nhu cầu của đời sống.
Để có kinh tế của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện và nâng cao, ngồi
những thành viên đang cịn ở độ tuổi trẻ em thì những thành viên đang ở độ tuổi
lao động cần có một cơng việc, một mức thu nhập ổn định. Ngồi ra cịn cần có
nguồn thu nhập thêm để có thêm nguồn thu chi trả cho những chi phí sinh hoạt
hàng ngày.
Ví dụ: Giáo viên có thể nhận dạy lớp học thêm, cơng nhân có thể nhận thêm
sản phẩm làm ngồi giờ, những người nơng dân thì có thể tăng gia chăn nuôi, tranh
thủ buổi tối bện chổi rơm, đan giậu, … Mỗi gia đình cần ln có ý thức phấn đấu
làm giàu và làm giàu một cách chính đáng, đồng thời biết cách hài hòa giữa đời
sống vật chất và tinh thần. Bên cạnh đó xã hội cũng cần phải có trách nhiệm chăm
lo chung cho mọi gia đình bằng cách phát triển kinh tế, văn hóa có như vậy thì
chức năng kinh tế của gia đình mới có thể hoàn thiện được.
1.3.4 Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình:
Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình u thương
gắn bó giữa các thành viên của gia đình, đặc biệt là tình u hạnh phúc lứa đơi. Tổ
ấm gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào
cuộc sống xã hội, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước
những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng về cuối đời, con người càng trở nên thấm
thía và khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý,
tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo
cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên tron gia đình.
Ngồi những chức năng trên thì gia đình cịn có chức năng chính trị. Mỗi gia
đình đều là một tổ chức chính trị thu nhỏ của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật nhà nước và quy chế địa phương, là cầu nối cho mối quan hệ giữa
công dân với nhà nước. nếu một trong số các thành viên trong gia đình phạm lỗi,
gia đình trở thành tịa án tơi cao xét xử và đưa ra hình phạt thích đáng cho người
đó. Gia đình chính là nơi giáo dục quen thuộc và hiệu quả nhất trong xã hội. Gia
đình cũng sẵn sàng tha thứ nếu như thành viên đó cảm thấy có lỗi và sửa đổi. Gia
đình là cái nơi ni dưỡng đạo đức, lối sống và tâm hồn, thế cho nên gia đình
chính là nơi ta được giáo dục một cách mềm mỏng, nhân nhượng nhưng không
kém phần răn đe. Gia đình là phần tử của xã hội, có gia đình mới có xã hội nên các
chức năng của gia đình đều quan trọng đối với sự hình thành kinh tế xã hội của
quốc gia. Nếu các chức năng của gia đình được các gia đình ý thức thực hiên một
8
cách có hiệu quả thì chắc rằng đất nước sẽ ngày càng phát triển toàn diện hơn,
nâng cao ý thức, đạo đức lối sống, trí tuệ.
Phần II. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
2.1 Cơ sở kinh tế- xã hội:
Là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng
sản xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất ấy
là chế độ tư hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và
củng cố thay thế chế độ tư hữu tư nhân về tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất từng
bước hình thành và củng cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
V.I.Lênnin đã viết: “Bước thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiếu chế độ tư
hữu vê ruộng đất, cơng xưởng và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới
mở được con đường giải phóng hồn toàn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được
“chế độ nơ lệ gia đình" nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền
kinh tế xã hội hóa quy mơ lớn".
Xóa bỏ chế độ tư hữu về liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình
trạng thống trị của người đàn ơng trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ,
giữa vợ và chồng, sự nô dịch đối với phụ nữ. Bởi vì sự thống trị của người đàn ơng
trong gia đình là kết quả sự thống trị của họ về kinh tế, sự thống trị đó tự nó sẽ tiêu
tan khi sự thống trị về kinh tế của đàn ơng khơng cịn. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất đồng thời cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia đình thành
lao động xã hội trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia lao động xã hội hay tham gia
lao động gia đình thì lao động của họ đóng góp cho sự vận động và phát triển, tiến
bộ của xã hội. Như Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Tư liệu sản xuất chuyển thành tài
sản chung, thì gia đình cá thể sẽ khơng cịn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Nền
kinh tế tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội. Việc nuôi dạy con cái trở
thành công việc của xã hội". Do vậy, phụ nữ có địa vị bình đẳng với đàn ơng trong
xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hơn nhân được
thực hiện dựa trên cơ sở tình u chứ khơng phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay
một sự tính tốn nào khác.
2.2 Cơ sở chính trị - xã hội:
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, người dân
9
lao động được thực hiện quyền lực của mình mà không cần phân biệt nam nữ. Nhà
nước cũng là công cụ xóa bỏ những quy định cũ kỹ, lạc hậu đè nặng lên vai phụ
nữ, đồng thời thực hiện giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như
V.I.Lênin đã nhận định: “Chính phủ thành văn là chính phủ đầu tiên và duy nhất
trên thế giới bãi bỏ hoàn toàn mọi luật lệ cũ, tư sản, để thuận tiện cho phụ nữ.
quyền bình đẳng đối với nam giới, quyền đặc biệt đối với nam giới ... Quyền xô
viết, một chính quyền của nhân dân lao động, chính phủ đầu tiên và duy nhất trên
thế giới hủy bỏ tất cả các quyền đặc biệt là quyền liên kết với chế độ chủ sở hữu,
quyền của nam giới trong gia đình ...”.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là cơ sở để xây dựng gia đình trong
thời kỳ quá độ lên xã hội cộng sản chủ nghĩa, có thể thể hiện rõ nhất ở vai trò của
hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Hơn nhân và Gia đình cùng với hệ thống
chính sách xã hội đảm bảo lợi ích của cơng dân, các thành viên trong gia đình, đảm
bảo sự bình đẳng giới , chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội ... Hệ
thống pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình
hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội . Chừng nào
và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp luật chưa hồn thiện thì việc xây dựng gia đình
và đảm bảo hạnh phúc gia đình cịn hạn chế.
2.3 Cở sở văn hóa:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản
trong đời sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng khơng ngừng
biến đổi. Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị
của giai cấp cơng nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trị chi phối nền
tảng văn hóa, tinh thần của xã hội đồng thời những yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán, lối sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ. Sự phát triển hệ
thống giáo dục, đào tạo, khoa học và cơng nghệ góp phần nâng cao trình độ dân trí,
kiến thức khoa học và cơng nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung cấp cho các
thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng sự hình thành
những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa khơng đi
liền với cơ sở kinh tế, chính trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, khơng đạt
hiệu quả cao.
2.4 Chế độ hôn nhân tiến bộ:
Hôn nhân tự nguyện
10
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Tình
yêu là của con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây
khát vọng dựng trên cơ sở tình yêu thì chừng đó, trong hơn nhân, tình u, hạnh
phúc gia đình sẽ cho bị hạn chế.
Hơn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là
bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn mạnh : “ ... nếu
nghĩa vụ của vợ và chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu
nhau há chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác ”.
Hôn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn
người kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự
nguyện không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận
thức đúng, có trách nhiệm trong việc kết hơn.
Hơn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hơn khi tình u giữa nam
và nữ khơng cịn nữa. Ph.Ăngghen viết : “ Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở
tình yêu mới hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hơn nhân trong đó tình u được duy
trì, mới là hợp đạo đức mà thôi ... và nếu tình u đã hồn tồn phai nhạt hoặc bị
một tình u say đắm mới át đi, thì ly hơn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như
cho xã hội ” . Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hơn, vì ly
hơn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chông và đặc biệt là con cái. Vì
vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng
lợi dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
Hơn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một
chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình u. Thực hiện hơn nhân
một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù
hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội lồi
người, khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy.
Tuy nhiên, trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối
với người phụ nữ. “Chế độ một vợ một chồng sinh ra tự sự tập trung nhiều của cải
vào tay một người, vào tay người đàn ông, và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại
cho con cái của người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần
phải có chế độ một vợ một chồng về phía người vợ, chứ khơng phải về phía người
chồng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một
vợ một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng,
tơn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi và
nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự
11
do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học
tập và một số nhu cầu khác vv... Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải
quyết những vấn đề chung của gia đình như ăn, ni dạy con cái ... nhằm xây dựng
gia đình hạnh phúc.
Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa
cha xu thế mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ
có nghĩa vụ yêu thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính
trọng, nghe lời dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái,
giữa anh chị em sẽ có những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi
tác, nhu cầu, sở thích riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia
đình là vấn đề cần được mọi người quan tâm, chia sẻ.
Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
Quan hệ hơn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi
gia đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu nma nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã
hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã
đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội,
điều đó thể hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý là
thể hiện sự tơn trọng trong tình u, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của
cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn
nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược
lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.
Phần III: Liên hệ
3.1. Thực trạng:
3.1.1 Khái niệm:
Gia đình văn hóa là một thuật ngữ dùng để chỉ một danh hiệu, một biểu mẫu
phong tặng cho những gia đình thực hiện tốt những tiêu chuẩn trong mơ hình mẫu
ấy đặt ra. Bản thể của gia đình văn hóa là gia đình, nó chỉ tính chất hay phẩm chất
của gia đình.
3.1.2 Thực trạng:
Phong trào xây dựng Gia đình văn hóa đã có từ những năm 60 của thế kỷ 20,
đến nay đã lan rộng khắp cả nước. Từ thực tế phong trào cho thấy, chỉ có phát huy
tốt những giá trị của gia đình truyền thống, phong trào mới đi vào chiều sâu có chất
lượng, thật sự lơi cuốn nhiều gia đình tham gia. Từ đời này sang đời khác, ông cha
ta đã tạo dựng một nền nếp gia phong như con cháu hiếu thảo với ông bà, cha mẹ,
vợ chồng chung thủy, anh em đồn kết thuận hịa... Ðó có thể xem là tinh hoa văn
hóa của dân tộc.
12
Gia phong đã trở thành nội dung cốt lõi của việc xây dựng gia đình văn hóa,
từ đó gia đình mới trở thành một tế bào xã hội khỏe khoắn, lành mạnh, thực hiện
mọi chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, đóng góp cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.1.3 Ưu điểm:
Các gia đình phát triển gia đình văn hóa niềm hạnh phúc cho mỗi con người,
mỗi nhà mà cịn là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh, an
tồn, bền vững của xã hội.
3.1.4 Hạn chế:
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, mặt trái của cơ chế thị trường cùng với
lối sống thực dụng tôn thờ đồng tiền, các sản phẩm văn hóa độc hại bên ngồi tràn
vào cùng với các tệ nạn xã hội đang tiến công mạnh mẽ vào các gia đình. Từ đó,
tình trạng ly hơn, ly thân, sống thử không đăng ký kết hôn, quan hệ tình dục, nạo
phá thai trước hơn nhân gia tăng. Nhiều giá trị đạo đức gia đình đang xuống cấp.
Các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè bê tha và đại dịch HIV/AIDS đang
len lỏi thâm nhập vào các gia đình... Ðặc biệt, bạo lực gia đình đang là vấn đề nổi
cộm.
3.2. Giải pháp:
Như vậy, việc xây dựng Gia đình văn hóa đang đứng trước những thách thức
lớn địi hỏi khơng ngừng nâng cao chất lượng hoạt động với phương châm xây đi
đôi với chống và lấy xây làm chính. Sau đây là các giải pháp để xây dựng gia đình
văn hóa:
Một là, sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp
phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người
Việt Nam, ni dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Để hoàn thiện Chiến lược quốc gia về
xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, cần làm rõ một số nội dung
sau:
-
Nâng cao nhận thức của toàn xã hội cũng như mỗi cá nhân về vai trị, vị trí
đặc biệt của gia đình đối với xã hội và trách nhiệm của gia đình và cộng
đồng trong việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về hơn
nhân và gia đình, bình đẳng giới, phịng, chống bạo lực trong gia đình, ngăn
chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình. Cấp ủy và chính quyền
các cấp phải đưa nội dung cơng tác xây dựng văn hóa gia đình và gia đình
văn hóa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chương trình kế hoạch
cơng tác hằng năm của các bộ, ngành, địa phương.
13
-
Xây dựng gia đình Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá trị
tiên tiến của thời đại về gia đình. Đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong
việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia đình
nhằm hướng tới những phẩm chất của con người Việt Nam mà Đại hội XI
của Đảng đã chỉ ra.
Hai là, xây dựng gia đình văn hóa phải gắn với các phong trào khác, như
xây dựng khu dân cư văn hóa, làng, xóm văn hóa... Đưa phong trào “Tồn dân
đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây
dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp… tạo điều kiện cho mọi người được tiếp cận với các kiến thức kinh tế, văn
hóa, y tế, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và phúc lợi xã hội, giúp các gia đình có kỹ
năng sống, chủ động phòng, chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, kế thừa và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Kết hợp và
phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các
đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt
Nam. Đây là điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về nhiệm vụ xây dựng, phát
triển nguồn lực con người trong bối cảnh hiện nay.
Ba là, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và cơng tác dân
số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Để mỗi tế
bào xã hội mạnh khỏe thì cơng tác chăm sóc sức khỏe, trước hết là sức khỏe của bà
mẹ, trẻ em, thực hiện gia đình ít con là biện pháp quan trọng cần được quan tâm.
Về vấn đề này, Đảng ta chỉ rõ: Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân
số, duy trì mức sinh hợp lý, quy mơ gia đình ít con. Có chính sách cụ thể bảo đảm
tỷ lệ cân bằng giới tính khi sinh. Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy
động sự tham gia của toàn xã hội vào cơng tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Làm
tốt cơng tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ, trẻ em, giảm mạnh tỷ lệ
trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số … Đồng thời, phải
tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác dân số, gia đình và
trẻ em các cấp; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác gia đình.
Bốn là, hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật xây dựng gia đình văn
hóa. Chúng ta đã có Luật Hơn nhân và Gia đình (năm 2000); Luật Bình đẳng giới
(năm 2007); Luật Phịng, chống bạo lực gia đình (năm 2008); Pháp lệnh Dân số Kế hoạch hóa gia đình; Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai
đoạn 2010 - 2020... Tuy nhiên, gia đình ln vận động và biến đổi theo sự vận
động của xã hội, vì vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục ban hành, bổ sung một số
chính sách mới phù hợp với điều kiện xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế. Đồng thời, phải đổi mới nội dung và giải pháp truyền
14
thơng về gia đình, nâng cao hiểu biết về các văn bản luật này, cùng các kiến thức,
kỹ năng về cuộc sống gia đình.
Năm là, tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ nhằm thực hiện bình đẳng
giới. Hiện nay, phụ nữ cịn chịu nhiều thiệt thịi, bất bình đẳng so với nam giới, do
vậy, họ chưa phát huy hết vai trị của bản thân trong xây dựng gia đình, đồng thời
hạn chế sự đóng góp của họ cho tồn xã hội. Phụ nữ cần tiếp tục được giải phóng,
được chia sẻ về cơng việc gia đình, hỗ trợ về các dịch vụ gia đình để họ có thời
gian phát triển sự nghiệp.
3.3 Liên hệ bản thân:
15
KẾT LUẬN
Tóm lại, xã hội khơng ngừng phát triển, vị trí và chức năng gia đình trong xã
hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần phải được nghiên
cứu, nhận thứ sâu sắc hơn nhằm khẳng định được những giá trị, bản sắc văn hóa tốt
đẹp, đồng thời củng cố và tiếp thu những tinh hoa và bổ sung, phát triển phù hợp
với tình hình mới. Thơng qua chủ đề này, em mong mỗi người đều có thể hiểu rõ
được chức năng và tầm quan trọng của gia đình và mỗi chúng ta hãy cùng chung
tay xây dựng gia đình văn hóa văn minh, hạnh phúc, xây dựng xã hội phồn thịnh
và phát triển.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> />
17