Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.71 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH


BÀI TẬP LỚN MƠN HỌC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI
GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
LỚP: L01

NHÓM: 07

HK 212

GVHD: TS. PHAN DUY ANH
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT

MSSV

HỌ VÀ TÊN

1

1912248

Nguyễn Thị Thùy Trang

2

1912249



Trương Võ Quỳnh Trang

3

1912288

Hồ Đức Trí

4

1915675

Nguyễn Đức Trọng

5

1915885

Huỳnh Nhất Văn

6

1910185

Lê Bá Hiệp

ĐIỂM BTL

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


GHI CHÚ


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Đề tài: GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................4
2. Nhiệm vụ của đề tài ...............................................................................................5
3. Bố cục của tiểu luận ...............................................................................................5
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................6
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .....................6
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ..........................................6
1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan .....................................7
1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa .....................................8
Chương 2: GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
................................................................................................................................................10
2.1. Giá trị về mặt lý luận........................................................................................10
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bổ sung và phát triển cho chủ
nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội ......................................................................10
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là nền tảng tư tưởng của các
đường lối cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản. ....................12
2.2. Giá trị về mặt thực tiễn ....................................................................................14
2.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ............................................14
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. ..............................................................................................................15
2.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

........................................................................................................................................15

2


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

2.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. ..............................................................................................17
2.2.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng
phí, quan liêu. ................................................................................................................19
2.2.6. Tư tưởng Hồ Chí Minh và bảo vệ Tổ quốc. ..............................................19
PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................22
PHẦN IV: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................24

3


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội là một phần hết sức quan trọng. Nhất
quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã
hội là một học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp vơ sản nhằm xố bỏ ách thống trị
tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng tồn thể xã hội lồi
người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát

triển chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của chủ
nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử,
nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho
việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn
đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với những đặc
điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI (12/1986) là kết quả của sự tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn sinh động trong
phong trào cách mạng của cả nước sau 1975. Trong những năm đổi mới toàn diện đất nước,
Đảng Cộng sản Việt nam đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện Cương lĩnh, đường lối
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Cùng với tổng kết lý luận – thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng xác thực, cụ thể hóa.
Tuy nhiên trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thời cơ, vận hội,
nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc tế, cũng
như từ các điều kiện trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất cần thiết. Do đó, nhóm

4


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

chúng em đã chọn đề tài: “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội” cho bài tiểu
luận này.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, đồng thời khẳng định
rằng tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan

Hai là, nêu ra những đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa và các nội dung liên quan
Ba là, làm rõ giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội về giá trị về mặt lý
luận và giá trị về mặt thực tiễn trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay
3. Bố cục của tiểu luận
Nội dung của bài tiểu luận được chia thành 2 phần như sau:
Phần 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
- Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
Phần 2: Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Giá trị về mặt lý luận
- Giá trị về mặt thực tiễn

5


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Khái niệm “chủ nghĩa xã hội” được Hồ Chí Minh tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau
bằng cách chỉ ra đặc trưng ở một lĩnh vực nào đó (như kinh tế, chính trị, văn hóa,...) của chủ
nghĩa xã hội, song tất cả đều hướng đến mục tiêu cơ bản của nó mà theo Người: “Nói một
cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống trong một đời hạnh
phúc.”, là làm sao cho dân giàu nước mạnh.
So sánh các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử để thấy sự khác nhau về bản chất giữa
chủ nghĩa xã hội với chế độ khác, Hồ Chí Minh viết: “Trong xã hội có giai cấp bóc lột thống

trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số ít người thuộc giai cấp thống trị là được thỏa mãn, cịn
lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại, trong chế độ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một
bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần cơng lao trong xã hội. Cho
nên lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung
của tập thể được đảm bảo bằng lợi ích của cá nhân mới được thỏa mãn”. Người khẳng định
mục đích của cách mạng Việt Nam là tiến đến chủ nghĩa xã hội rồi đến chủ nghĩa cộng sản
vì: chủ nghĩa cộng sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp tức là chủ nghĩa xã hôi, giai đoạn cao
tức là chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ: sức sản xuất đã phát triển cao,
nền tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung, khơng có giai cấp bóc lột. Hai giai đoạn
ấy khác nhau ở chỗ: chủ nghĩa xã hội vẫn cịn chút ít vết tích xã hội cũ. Xã hội cộng sản thì
khơng cịn vết tích xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ Chí minh, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng xã hội xã hội chủ
nghĩa khơng cịn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người

6


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó
với nhau.
1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Theo học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội của C.Mac: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản
và sự thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Vận dụng học thuyết của C.Mac để
nghiên cứu về tiến trình lịch sử, Hồ Chí Minh cho rằng: “Cách sản xuất và sức sản xuất và
biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hơi,...cũng phát triển và biến đổi. Chúng
ta đều biết từ xưa đến nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá đã phát triển dần đến
máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy

đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một
nửa loài người đang tiến lên xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và
tiến bộ đó khơng ai ngăn cản được”. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã nhận thấy: tùy hoàn cảnh,
mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng lên chủ nghĩa xã
hơi như Liên Xơ. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội
như các nước Đông Âu, Việt Nam, Trung Quốc”. Người giải thích: chế độ dân chủ mới là chế
độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đã đánh đổ đế quốc và phong
kiến, trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên
chính theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu tuân theo
những quy luật khách quan, trước hết là những quy luật trong sản xuất vật chất, song, tùy theo
bối cảnh mà thời gian, phương thức tiến lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia là khác nhau,
trong đó những nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sẽ “đi thẳng” lên chủ
nghĩa xã hội. Còn những nước chưa trải qua giai đoạn phát triển này có thể đi lên chủ nghĩa
xã hội sau khi đã “đánh đổ đé quốc và phong kiến” dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và được
tư tưởng Mác-Lênin dẫn đường.
Đối với Việt Nam, hàng nghin năm dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến,
thực dân, nhiều khuynh hướng cứu nước, cứu dân đã được thực hiện nhưng cuối cùng lại
không đem lại kết quả mà dân tộc khát khao đạt được. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là nguồn
gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản con người yêu đoàn
7


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

kết, yêu thương nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại nói chung, và Việt
Nam nhân dân nói riêng vừa là tất yếu của lịch sử, vừa đáp ứng được những khát vọng của
lực lượng tiến bộ xã hội trong q trình đấu tranh tự giải phóng mình.
1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
Là xã hội có bản chất khác hẳn với xã hội trước tồn tại trong lịch sử, xã hội xã hội chủ

nghĩa có nhiều đặc trưng, song, nếu tiếp cận từ những lĩnh vực lớn của xã hội, xã hội xã hội
chủ nghĩa có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về chính trị: xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hơi có chế độ có dân chủ.
Chế độ dân chủ trong xã hội xã hội nghĩa được thể hiện trước hết là xã hội do nhân dân
làm chủ, nhân dân là chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trên nền tảng liên minh côngnông. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa địa vị cao nhất thuộc về nhân dân. Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Mọi quyền lợi, quyền lực, quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây
dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
Thứ hai, về kinh tế: xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư
bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của tư bản
chủ nghĩa, đấy là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và có chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất tiên tiến.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chế độ chủ nghĩa xã hội biểu hiện: công cụ lao động,
phương tiện lao động trong quá trình sản xuất “đã phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức
nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh diễn đạt là:
lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng...làm của chung, là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân. Đây là
tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ cơng hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ
phát triển cao về văn hóa đạo đức, bảo đảm sự công, hợp lý trong các quan hệ xã hội.

8


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Văn hóa, đạo đức được thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống song trước hết là ở
các mối quan hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội chủ nghĩa được
thể hiện: xã hội khơng cịn hiện tượng người bóc lột người, con người được tơn trọng, được

đảm bảo đối xử cơng bằng,bình dẳng và các dân tộc ddoanf kết và gắn bó với nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội “mới chú ý xem xét những lợi ích cá
nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thỏa mãn”, “chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì
mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng,
sở trường riêng của mình”.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới xã hội hịa bình, đồn kết, ấm no, tự do,
hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, việc làm cho mọi người và vì mọi người. Khơng cịn phân biệt
chủng tộc, khơng có gì có thể ngăn cản những người lao động hiểu nhau và thương yêu nhau.
Chủ nghĩa xã hội đảm bảo tính cơng bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Đấy là xã
hội đem lại bình đẳng trước pháp luật cho mọi cơng dân, mọi cộng đồng người đồn kết chặt
chẽ với nhau trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, ai cũng phải lao động và có quyền
lao động, ai cũng có quyền hưởng thành quả lao động của mình trên nguyên tắc làm nhiều thì
được hưởng thụ nhiều, làm ít thì hưởng ít, khơng làm thì khơng hưởng, tất nhiên là trừu những
người chưa có khả năng lao động và khơng cịn khả năng lao động.
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: chủ thể xã hội là cơng trình tập thể của
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh của người lao
động diễn ra ngày càng quyết liệt nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột người. Trong chế độ xã
hội chủ nghĩa - chế độ của nhân dân, do dân làm chủ, lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích
của xã hội nên chính nhân dân là chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững
mạnh của chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cần
có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp cơng nhân, tồn tâm tồn ý
phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng chủ nghĩa xã hội đi đến thành công”

9


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM


Chương 2: GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

2.1. Giá trị về mặt lý luận
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bổ sung và phát triển cho chủ
nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội
Về quan niệm chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh khái niệm “chủ nghĩa xã hội” có thể
được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau bằng cách chỉ ra đặc trưng ở một lĩnh vực nào đó
(như kinh tế, chính trị, văn hóa,...) của chủ nghĩa xã hội, song tất cả đều hướng đến mục tiêu
cơ bản của nó mà theo Người: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết
nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm,
được ấm no và sống trong một đời hạnh phúc.”, là làm sao cho dân giàu nước mạnh. Xã hội
xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Còn theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Có thể thấy rằng quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được
tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau hơn và đó là một phần của sự bổ sung, phát triển cho chủ
nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội.
Về vấn đề tiến lên chủ nghĩa xã hội là một yếu tố khách quan. Trong học thuyết về hình
thái kinh tế - xã hội của C.Mác khẳng định sự phát triển của xã hội lồi người là q trình lịch
sử - tự nhiên. Theo quá trình này, “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô
sản là tất yếu như nhau” . Vận dụng học thuyết cùa C.Mác để nghiên cứu về tiến trình lịch sử,
Hồ Chí Minh cho rằng: “Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó mà
tư tưởng của người, chế độ xã hội, V.V., cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều biết từ đời
xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá đã phát triển dần đến máy móc,
sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triền từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ
nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người
đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ
đó khơng ai ngăn cản được” . Tuy nhiên, ngay từ năm 1953 Hồ Chí Minh đã nhận thấy: Tùy
hồn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ
nghĩa xã hội như Liên Xơ. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ


10


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

nghĩa xã hội như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta . Người giải thích: Chế độ
dân chủ mới là chế độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đã đánh
đổ đế quốc và phong kiến; trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ,
nhân dân dân chủ chuyên chính theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin . Tư tưởng trên đặt
vào bối cảnh xã hội đương thời, Hồ Chí Minh muốn khẳng định, lịch sử xã hội loài người
phát triển qua các chế độ công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa
rồi tiến lên xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa; nhưng lộ trình này không bắt buộc đối với
tất cả các nước mà nó diễn ra theo hai phương thức: Có thể trải qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa như Liên Xơ và cũng có thế bỏ qua giai đoạn này như các nước Đông Âu,
Trung Quốc, Việt Nam.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu, tuân theo
những quy luật khách quan, trước hết là những quy luật trong sản xuất vật chất; song, tùy theo
bối cảnh cụ thể mà thời gian, phương thức tiến lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia sẽ diễn ra
một cách khác nhau; trong đó, những nước đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sẽ “đi
thẳng” lên chủ nghĩa xã hội. Những nước chưa qua giai đoạn phát triển này có thể đi lên chủ
nghĩa xã hội sau khi đã “đánh đổ đế quốc và phong kiến” dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản
và được tư tưởng Mác- Lênin dẫn đường . Với nhận định trên, Hồ Chí Minh đã cho thấy tính
chất chung của các quy luật phát triển xã hội và tính đặc thù trong sự thể hiện các quy luật đó
ở những quốc gia cụ thể, trong những điều kiện cụ thể. Đó là sự bổ sung và phát triển cho chủ
nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội.
Về một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa thì Hồ Chí Minh đã có bổ sung
một đặc trưng mà theo quan điểm của Mác – Lênin khơng đề cập đến đó là “về chủ thể xây
dựng chủ nghĩa xã hội: chủ thể xã hội là cơng trình tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản”. Đây là một sự bổ sung để phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã

hội.

11


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là nền tảng tư tưởng của các đường
lối cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản.
Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đồng thời Báo cáo chính trị chỉ ra: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm lý luận chính trị tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Trong những năm gần đây, đời sống chính trị- xã hội thế
giới có nhiều biến động lớn, Việt Nam vẫn vững bước trên con đường CNXH mà Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Thế giới đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cịn sống
mãi.
Giá trị lớn nhất, xun suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn bó hữu cơ giữa giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta trong việc kết hợp biện
chứng vấn đề gai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ cách
mạng giải phóng dân tộc phải gắn chặt với sự nghiệp giải phóng giai cấp. Cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; lý tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội
và đó là con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề cách
mạng Việt Nam. Khi chưa có Đảng nhân dân ta sống chìm đắm trong vịng nơ lệ của chế độ
thực dân phong kiến, tưởng như khơng có lối ra. Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa MácLênin, thành lập Đảng cộng Sản Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn cho sự phát
triển của nước ta. Nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con

đường đi đúng, vượt qua mọi thử thách đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ
Chí Minh giúp chúng ta nhận thức và hành động đúng trong việc đề ra các mục tiêu chiến
lược, chiến thuật của cách mạng; huy động tối đa nguồn sức mạnh của nhân dân; đường lối
đối nội, đối ngoại sáng tạo.

12


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Những
chỉ đạo của người về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để thực sự là hạt nhân lãnh đạo
của cách mạng nước ta về xây dựng nhà nước, hệ thống chính quyền thực sự của dân, do dân,
vì dân; xây dựng các đồn thể, cán bộ là cơng bộc của dân mãi mãi vẫn cịn ngun giá trị.
Tư tưởng Hổ Chí Minh về xây dựng khối đại đồn kết tồn dân là nguồn sức mạnh vơ
tận để chiến thắng mọi kẻ thù, bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Người chỉ rõ đồn kết, đồn kết, đại đồn kết; thành cơng, thành cơng, đại thành cơng. Muốn
vậy phải đồn kết trong Đảng, đoàn kết trong nhân dân và đoàn kết quốc tế. Đồn kết vì lợi
ích chung và sự phát triển của các thành viên của cả cộng đồng. Đoàn kết vì mục tiên dân
giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cao giá trị nhân văn. Đó là lịng u thương hết mực con
người, nhất là những người lao động, bị áp bức, đau khổ, thiệt thịi. Hồ Chí Minh đặt niềm tin
cao độ vào phẩm giá và sức mạnh của con người. Vì vậy, Người sẵn sàng hy sinh chiến đấu
cho sự nghiệp giải phóng con người.
Về phương pháp luận, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta cách nhìn nhận và hành động khoa
học, tránh giáo điều, rập khn, máy móc hoặc xét lại, bảo thủ trì trệ. Hồ Chí Minh luôn nhắc
nhở chúng ta học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Người cán bộ làm việc gì, ở
cấp bậc nào đều phải đi sâu nghiên cứu lí luận, khơng ngừng học tập nâng cao trình độ, đồng
thời phải coi trọng tổng kết thực tiễn, bổ sung, làm sáng rõ cho lý luận. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: Thực tiễn khơng có lý luận soi đường là thực tiễn mù qng. Lý luận mà khơng có thực

tiễn là lý luận suông. Trong công tác luôn hướng về cơ sở, tin ở dân, dựa vào dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Trong đấu tranh cách mạng ln chủ động, sáng tạo, biến yếu
thành mạnh, biến ít thành nhiều, tạo thế để phát triển. Người luôn nhắc chúng ta phải kiên
định, khôn khéo, dĩ bất biến, ứng vạn biến; biến cái đại sự thành cái tiểu sự; biến cái tiểu sử
thành cái vô sự. Tuyệt đối không để cái vơ sự thành cái đại sự. Vì thế, Hồ Chí Minh giản dị
đến vĩ đại và vĩ đại một cách giản dị.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc. Giá trị ấy
được khai thác có hiệu quả tới đâu tùy thuộc vào ý thức, trình độ, năng lực vận dụng của mỗi
người chúng ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

13


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

là công việc rất quan trọng và cần thiết. Vào thời điểm hiện nay lại càng quan trọng và cần
thiết. Nếu mỗi cấp ủy và mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần và quán triệt
sâu sắc những tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, thật sự tự giác rèn luyện, tu dưỡng theo
những lời dạy của Người thì nhất định Đảng ta sẽ ngày càng trong sạch, vững mạnh, khắc
phục được những nguy cơ của một đảng cầm quyền, tiếp tục được nhân dân tin yêu ủng hộ.
2.2. Giá trị về mặt thực tiễn
Trong giai đoạn hiện nay, để “tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức
ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”, cần tập trung nghiên cứu, quán triệt nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh trong 6 nhóm vấn đề: về con đường của cách mạng Việt Nam; về
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về nhân dân; đại đoàn kết toàn dân tộc, về xây dựng
văn hóa và con người, về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,

vì dân; về xây dựng Đảng.
2.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền
làm chủ của nhân dân để phát huy được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với
người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có
cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng
sẵn có của mình.

14


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, khơng làm thì khơng được hưởng; các dân tộc đều được bình đẳng, miền núi được
giúp đỡ để theo kịp miền xuôi.
Chủ nghĩa xã hội là cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị,
kinh tế, văn hóa – xã hội và xây dựng con người.
Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nịng cốt
là cơng – nơng – trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh cá thể) với

xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh
doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi
đó là động lực tinh thần khơng thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên
trong với nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết định
nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
2.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: Cần căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi
nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Tùy vào hoàn cảnh, mà các
dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng
sản),…Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới , rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng
sản)…”.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nói
về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh
cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.

15


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh chỉ rõ phải giữa vững và tăng cương vai trò lãnh đạo của Đảng: Nâng cao vai trị quản
lý của nhà nước: Phát huy tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội
ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về phương châm xây dựng chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một q trình phổ biến, có tính quy luật trên thế giới. Nhưng việc xác định
bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ điều kiện cụ thể, đặc điểm
dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng

từng bước một, từ thấp đến cao, khơng chủ quan, nơn nóng. Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn cịn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần
dần”, “không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ
đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước,
“bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ……Đi
bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp
cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết hợp xây dựng và bảo vệ trong
phạm vi một quốc gia (tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền
Nam – Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước). Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế
hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) để thực hiện
thắng lợi kế hoạch đã đề ra.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường
lối, chính sách nhằm huy động và khai thác các nguồn lực trong dân để phát triển đất nước vì
lợi ích của nhân dân. Người luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo, chống giáo điều, rập khn kinh nghiệm nước ngồi, phải suy nghĩ tìm tịi, sáng tạo ra
cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

16


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

2.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước
ta. Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính ngun tắc về
phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa
và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý.
Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông
nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”. Nông nghiệp phải phát triển
mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu….Công nghiệp phải
phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nơng dân;
cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp và cung
cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến
bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công nông để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.
Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa.
Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực
sự của nhân dân ta. Trong bài con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Người viết: “Đời
sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất thật rộng rãi;
dùng máy móc cả trong cơng nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người,

17


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường.

Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, ra thép,
than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường cơng nghiệp hóa nước nhà”.
Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cịn nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ q độ, nền kinh tế đó cịn các hình thức sở hữu chính: “Sở
hữu của nhà nước, tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở hữu tập thể của nhân
dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư
bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong
chế độ dân chủ mới, có 5 loại kinh tế khác nhau…trong 5 loại ấy, loại A (kinh tế quốc doanh)
là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ
nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa
ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của
kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ
nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của cơng, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị.
Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nơng dân và thủ cơng nghệ. Đó cũng
là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ
phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích
của đại đa số nhân dân.
Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà nước tư bản khơng khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột nhân dân q tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi cho cơng nhân. Đồng thời,
vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.

18



Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng
khác, để cũng cấp cho nông dân. Nơng dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương
thực và các thứ nguyên liệu cho cơng nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa cơng
nơng.
Bốn là, lưu thơng trong ngồi. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho các nước bạn
và để mua những thứ ta cần dùng. Các bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những hàng
hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế
ta.
2.2.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí,
quan liêu.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây
dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của
hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất mà khơng tiết kiệm thì khác nào
gió vào nhà trống”. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sản xuất và tiết kiệm gắn với
nhau như một phương châm. Phải luôn thực hành trong một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu lại
phải chịu nhiều bom đạn chiến tranh, chịu nhiều thiên tai bất thường. Phát triển sản xuất để
tăng sản phẩm xã hội và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hai mặt biện chứng trong các
chặng đường phát triển của đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ơ, lãng phí, quan liêu
là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ba
căn bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu “là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”.
Loại kẻ thù này “khá nguy hiểm, vì nó khơng mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các
tổ chức của ta, để làm hỏng cơng việc của ta”. Dù có cố ý hay khơng, tham ơ, lãng phí, quan
liêu “cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến”. “nó làm hỏng tinh thần trong sạch
và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm,
chính”. Nó “phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân
dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.
2.2.6. Tư tưởng Hồ Chí Minh và bảo vệ Tổ quốc.

Về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân.

19


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân
dân là hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và đấu tranh cách mạng, phối hợp chặt chẽ
và bổ sung cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng chính trị quần chúng. “Sự đồng
tâm của đống bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc”. Lực lượng chính
trị quần chúng là cơ sở cho đấu tranh quân sự, đồng thời cịn là lực lượng tiến cơng trực tiếp
đánh địch theo các phương thức và nội dung rất phong phú, linh hoạt. về lực lượng vũ trang,
Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: Bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương và dân quân, du kích.
Đây cũng là một nội dung lớn và sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Về xây dựng bản chất cách mạng và ý thức chính trị cho quân đội.
Theo Hồ Chí Minh, việc xây dụng bản chất cách mạng, ý thức và trình độ chính trị cho
lực lượng vũ trang được đặc biệt quan tâm và tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ, có hệ
thống. “Qn sự mà khơng có chính trị như cây khơng có gốc, vơ dụng mà lại có hại”. Người
xác định quân đội ta có ba nhiệm vụ: Đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản
xuất. Quân đội và lực lượng công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng.
Về sức mạnh của lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trị của yếu tố con
người khi nêu luận điểm “người trước, súng sau”. Đó là sự thống nhất giữa người cầm vũ khí
với vũ khí, trong đó người cầm vũ khí đóng vai trò quyết định. Trong quân đội, Người chủ
trương xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự, cả chính trị, quân sự, khoa học – kỹ thuật và hậu
cần. Người nêu sáu yêu cầu cơ bản đối với người chỉ huy quân sự: “Trí - Dũng - Nhân - Tín
- Liêm - Trung”.

Về xây dựng thế trận lòng dân, nền quốc phịng tồn dân.
Để kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh ln chăm lo xây dựng thế trận lịng dân.
Đối với Hồ Chí Minh, đó là sức mạnh vật chất, nguồn nhân lực và sức mạnh tinh thần, mà
lòng dân là sức mạnh đặc biệt to lớn.

20


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

Về quốc phòng, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền quốc phịng toàn dân hùng
mạnh.

21


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN
Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam từ khi có Ðảng cộng sản Việt Nam. Nhờ sức
mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam đã giành được thắng lợi trong
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một đột phá lý luận
rất cơ bản, thể hiện bản lĩnh, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng cộng sản Việt Nam.
Cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ ở chỗ khẳng định tính tất yếu của
chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa, phát triển, tiến bộ khơng
ai ngăn cản được, mà cịn sớm trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", đi đến khẳng định đặc
trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và chỉ dẫn

để Ðảng cộng sản Việt Nam đề ra cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được hình thành, từng bước phát triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ XX, nhưng vẫn vẹn
nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại.
Sau nhiều năm đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đất
nước Việt Nam đã tiến những bước dài chưa từng có, đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử như văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: "Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế như ngày nay".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam mãi trường tồn cùng dân tộc và thời đại, được minh chứng qua thực tiễn cách
mạng Việt Nam và ngày càng tỏa sáng, in sâu trong trái tim, khối óc của hàng triệu triệu con
người. Tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng soi sáng con đường cách mạng của dân tộc Việt
Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực trên con đường phát triển và hội nhập quốc
tế. Ý nghĩa lịch sử và giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt ra ngoài

22


Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

biên giới quốc gia và trở thành một phần giá trị của văn hóa nhân loại. Nhìn lại tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ củng
cố thêm niềm tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát
triển một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, cùng nhịp bước với thời đại,
sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành cơng tâm nguyện của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc Việt Nam.

23



Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM

PHẦN IV: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chi Minh. NXB Chính trị Quốc
gia sự thật.
[2]. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (2014). Được truy lục từ Tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: />[3]. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (2018). Được truy lục từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng: />[4]. Tạp chí lý luận chính trị . (2020). Được truy lục từ Giá trị cốt lõi của mơ hình chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh: />[5]. BTV Thu Hoa. (2021). VOV-Đài tiếng nói Việt Nam. Được truy lục từ Giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
/>
24



×