Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Cách mạng Việt Nam và Cách mạng Thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.62 KB, 45 trang )

ĐỀ TÀI 1
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
Cách mạng Việt Nam và Cách mạng Thế giới
A. LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp cách mạng của Người được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống
hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản
Cách mạng Việt Nam từ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến Cách mạng xã
hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam.
Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn
với các thời kì hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào Cách mạng Việt Nam
và quốc tế vào đầu và giữa thế kỷ 20. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II


(tháng 2-1951) đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của
đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh
đối với cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 -
1991), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của
mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng lợi của Cách mạng Việt Nam”. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4 – 2001) một lần nữa khẳng
định lại điều này. Đây là một sự tổng kết sâu sắc, bước phát triển mới trong nhận
thức và tư duy lý luận của Đảng ta và là một quyết định quan trọng có ý nghĩa lịch
sử, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp Cách mạng nước ta, tình cảm nguyện
vọng của toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta. Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam
cùng các quan điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay đều thống nhất đánh giá Tư

tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin trong
điều kiện cụ thể của Việt Nam và coi Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài
sản tinh thân quý báu của Đảng cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước bị Thực dân Pháp xâm
lược và đô hộ, trong khi giai cấp phong kiến, tiêu biểu là triều đình Huế đã từng
bước nhượng bộ, đầu hàng rồi làm tay sai cho thực dân Pháp, khi các cuộc đấu
tranh yêu nước, chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã lần lượt thất
bại, rơi vào tình thế "dường như trong đêm tối không có đường ra". Điều này thể
hiện mâu thuẫn giữa sức sống, tinh thần đấu tranh anh dũng, bền bỉ của dân tộc với
sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu
tranh.
Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ

XX đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống
thực dân Pháp xâm lược, nổi lên là các vấn đề chủ yếu: lực lượng cách mạng; giai
cấp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc; con đường cách mạng;… Trong khi ấy
phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn liên tục diễn ra. Đồng
thời, phong trào của công nhân ngày càng lớn mạnh, như "cánh én báo hiệu mùa
xuân". Việc giải quyết vấn đề được đặt ra trong phong trào yêu nước của nhân dân
Việt Nam vào thời điểm lúc bấy giờ, giai cấp nào lãnh đạo cách mạng - không thể
tách với tình hình quốc tế đang ngày càng ảnh hưởng đến Việt Nam nói chung và
Hồ Chủ Tịch nói riêng. Năm 1911, Hồ Chí Minh ra đi với lòng nồng nàn yêu nước.
Năm 1920, bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản, người chiến sĩ
quốc tế xuất sắc, Người đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc duy
nhất đúng cho dân tộc Việt Nam.

Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Ở đây, chúng ta sẽ làm rõ phần nào
nhận định đúng đắn của Đảng ta về tư tưởng vĩ đại của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng
dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh là kết
tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng
của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định
bản sắc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau…

Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã
tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị
truyền thống tốt đẹp và cao quý. Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất
khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Đây là một trong những tài sản có giá
trị nhất trong hành trang của Hồ Chí Minh lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911.
Nó là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động Cách
mạng của Người. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã có quá trình lịch sử hàng ngàn
năm với nội dung phong phú và sâu sắc như: yêu nước gắn liền với yêu quê hương,
yêu con người Việt Nam, yêu truyền thống văn hóa quý giá. Thời kỳ phong kiến,
yêu nước có nội dung trung quân ái quốc, lợi ích giai cấp thống trị phù hợp với lợi
ích của nhân dân lao động trong sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước

đối với Người là gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lòng thương yêu nhân dân
và nhân loại của Người không bao giờ thay đổi… Người có một ham muốn tột bậc
là làm sao nước ta được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc và được học hành.
Người đã nêu ra chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân” và phát triển những nội
dung mới của chủ nghĩa yêu nước. Đó là yêu nước dựa trên quan điểm giai cấp
công nhân, yêu nước mở rộng ra thành tình yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân dân
lao động, những người cùng khổ, đối với giai cấp công nhân các nước trên thế giới.
Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp công nhân, Người đã nêu ra nội dung mới: Yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội thì
nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm.
Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống
đoàn kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình

thành một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết
liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm.Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình
làng, nghĩa xóm. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng”
(đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân
ta đã từ lâu sống với nhau có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao
đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một
nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý luận Mác - Lênin - đỉnh cao của trí tuệ nhân loại - cũng
phải trên nền tảng của giá trị truyền thống. Người nhấn mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác
- Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu kinh sách mà
sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được…Tư
tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc, vì tự do, hạnh phúc của con người, là cứu nước, độc lập, tự do và chủ nghĩa xã

hội, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển. Trong văn hóa đạo đức Việt Nam,
chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ phải, ngay thẳng. Nguyễn Trãi đã từng nói: Phàm mưu
việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên “công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”,
Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa để phân rõ bạn - thù. Ai làm điều gì có lợi cho nhân
dân, cho Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc
đều là kẻ thù.
Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế
thừa tinh thần cộng đồng, một lối sống thành thực, thân ái, những thuần phong
mỹ tục, trở thành những yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong

sự nghiệp cách mạng của Người được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống
hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam từ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến Cách mạng Xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí

Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và
tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại, nó trường tồn, bất diệt và đã
trở thành một bộ phận của văn hoá dân tộc, có sức hấp dẫn, lâu bền và phổ biến, là
tài sản vô giá của dân tộc ta. Bởi vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa
những giá trị, tinh hoa văn hoá, tư tưởng “vĩnh cữu” của loài người, trong đó chủ
yếu là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới.
Tính sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ: vừa trung thành với những
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời khi nghiên cứu, vận dụng

những nguyên lý đó, Người đã mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp với điều
kiện cụ thể của nước ta, dám đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải
quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả.
Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung quanh
việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong quá khứ, và ngày nay, tư tưởng đó đang soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam!
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
“Hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách
mạng Việt Nam” là nhiều quan điểm liên hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện rõ tính liên

tục, nhất quán.
“Toàn diện” là bao quát nhiều lĩnh vực. Đó là tư tưởng về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao. Đại hội IX chỉ rõ, đó là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, về chăm lo bồi dưỡng thế hệ Cách mạng cho đời sau, về xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

“Toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam”,
nghĩa là không phải tất cả mọi vấn đề đều gắn với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng
Hồ Chí Minh như là những tư tưởng chính trị theo nghĩa rộng, gồm tư tưởng về
mục tiêu Cách mạng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về mục đích Cách mạng,
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về lực lượng Cách
mạng, toàn dân tộc lấy công – nông làm gốc, đoàn kết quốc tế; về nên tảng lí luận,
chủ nghĩa Mác – Lênin; về tổ chức Cách mạng: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí,
Mặt trận đoàn kết toàn dận; về phương pháp cách mạng: Động viên toàn dân, tổ
chức toàn dân, Tóm lại, đó là “giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng vô
sản”.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát

triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh nói rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là “kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta”. Rõ ràng là khái niệm cho ta biết Hồ Chí Minh nắm chắc chủ nghĩa Mác –
Lênin và hiểu rõ điều kiện nước ta. Điểm chốt ở đây là “điều kiện cụ thể của nước
ta”. Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng
ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để
làm cho đúng”. Điều kiện nước ta không giống các nước khác, ít nhất trên hai điểm:
Truyền thống lịch sử, văn hóa, con người và nước thuộc địa thời cận đại. Hai điểm
này không hoàn toàn tách bạch, mà có sự tiếp nối. Nhưng cũng có nội dung chỉ có
trong thời kì thuộc địa.

Nhận thức như vậy để thấy rằng Hồ Chí Minh không viết lại, nói lại các bậc
thầy, những bậc tiền bối và những gì trong truyền thống dân tộc mà ngược lại,
Người đã khắc phục những hạn chế của truyền thống và thiếu hụt trong chủ nghĩa
Mác – Lênin. Hạn chế lớn nhất của giá trị truyền thống là lý luận khoa học. Thiếu
hụt lớn nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin là những tư liệu lịch sử của các nước thuộc
địa phương Đông. Hồ Chí Minh đã lấp đầy những khoảng trống đó.
Nếu Hồ Chí Minh không vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta để xây dựng hệ thống lý luận Cách mạng soi
đường cho Cách mạng Việt Nam thì làm sao chúng ta có thể thắng lợi nhanh gọn
trong thời gian chưa đầy hai tuần của tháng Tám năm 1945. Và tiếp theo là thắng
lợi trong cuộc kháng chiến quá độ lên Xã hội chủ nghĩa khi cả nước có chiến tranh
với tư duy “chủ nghĩa xã hội thời chiến”.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về giải phóng dân tộc
Đó là tư tưởng về giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân
tộc, về độc lập dân tộc gắn liền với Xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh về thời đại. Về sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc, về
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân,
về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh
tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,
về đạo đức Cách mạng, về chăm lo bồi dưỡng thế hệ ách mạng cho đời sau, về xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
II. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG
VIỆT NAM
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân ta
trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường
lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta đi tới thắng lợi.
Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc,
thực dân và khẳng định tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải
phối hợp chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc; cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa có tính độc lập, tự chủ và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc.
Trong phân tích của Người: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi

bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả
hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của
giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"
Cũng như vậy, Cách mạng phải có sự phối hợp ở cả chính quốc và thuộc địa,
giống như một con chim hai cánh, một cánh vỗ ở thuộc địa, một cánh vỗ ở chính
quốc. Sự diễn đạt cụ thể và giản dị trên đây đã hàm chứa tư tưởng về tính triệt để
của cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, thực dân và tính tất yếu của sự phối hợp
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc và ở các nước tư bản chủ
nghĩa. Ðó là biểu hiện lập trường cách mạng triệt để và chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh đã nhận rõ, đối với những người lao
động và vô sản ở khắp mọi nơi, dù màu da có khác nhau nhưng họ đều có chung

một kẻ thù và cũng có chung một mục tiêu tranh đấu. Ðế quốc thực dân, ở đâu đâu
cũng là ác quỷ, phải đánh đổ nó đi. Còn anh em vô sản ở đâu đâu cũng là bạn bè,
anh em, đồng chí của nhau.
"Trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản."
Người đề cập tới tình hình Ðông Dương và những cơ sở cho sự chín muồi
Cách mạng ở đó. Ðó vừa là những khẳng định khoa học, vừa là những dự báo chính
trị mẫn cảm. Người đã từng viết: "Người Ðông Dương không chết, người Ðông
Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân
không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của
người Ðông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng
hoặc từ Ấn Ðộ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Ðông Dương". Theo

đánh giá của Người: "Ðằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Ðông Dương giấu một
cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến.
Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của
chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi". Cho đến khi, Luận cương Lê-nin
được Người hấp thụ như tìm thấy cẩm nang, Người đã xác định rõ ràng con đường
giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản, có thể giành được thắng lợi
trước, nếu biết dựa trên nội lực của chính dân tộc mình.
Đới với tư tưởng của Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp
công nhân, đứng vững trên nền tảng ý thức hệ của giai cấp công nhân, vượt qua ý
thức hệ phong kiến đã lỗi thời và cũng vượt qua những hạn chế của ý thức hệ tư
sản. Giải quyết vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công

nhân, theo ý thức hệ của giai cấp công nhân nên cách mạng giải phóng dân tộc với
mục tiêu giành độc lập dân tộc phải do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó
là Ðảng Cộng sản lãnh đạo. Cũng do đó, con đường tiến lên của dân tộc và của xã
hội Việt Nam chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội bằng cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Theo đó, tư tưởng Hồ Chí Minh đã mở ra con đường phát triển tốt đẹp nhất cho dân
tộc Việt Nam: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt
nền móng lý luận cho cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, đã chấm dứt cuộc
khủng hoảng triền miên từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 về đường lối cứu nước,
đường lối phát triển ở nước ta, đã tìm thấy con đường phát triển đúng đắn, hợp lý,
có triển vọng nhất, phù hợp với trào lưu tiến hóa chung của nhân loại và xu thế phát

triển của thời đại.
Cũng nhờ vào tư tưởng có lý luận và phương pháp cách mạng đúng đắn của
Hồ Chí Minh, nhân dân và dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đánh bại chủ
nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, đưa dân tộc ta vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong
của thế giới, đã xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của
nước ta.
Hồ Chí Minh, như đã nói, đã bổ sung và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học của chủ nghĩa Mác một cách tiếp cận cũng đồng thời là quan niệm về chủ
nghĩa xã hội. Ðó là tiếp cận đạo đức học. Người đã dự cảm từ rất sớm một vấn đề,
mà ngày nay ta càng thấy rõ tính hệ trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội:
"thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ
bỏ chủ nghĩa cá nhân". Cũng như vậy, không đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi

thì không thể chống được quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Chủ nghĩa xã
hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Thành bại của Chủ nghĩa xã hội tùy thuộc vào
việc những người xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là đội ngũ tiên phong có đủ dũng
khí và quyết tâm để đánh thắng thứ "giặc nội xâm" mà Người coi là kẻ thù nguy
hiểm nhất hay không? Do đó, chủ nghĩa xã hội không chỉ là kinh tế - một nền kinh
tế phồn vinh, giàu có, một thể chế chính trị dân chủ - pháp quyền, đảm bảo quyền
làm chủ thực chất của nhân dân, một xã hội công bằng, bình đẳng cho sự phát triển
hài hòa cá nhân và cộng đồng, mà còn là một nền tảng đạo đức trong sạch, thấm sâu
vào các quan hệ xã hội, là một hệ giá trị văn hóa, kết hợp được truyền thống, bản
sắc dân tộc với những tinh hoa của thời đại vì độc lập - tự do - hạnh phúc cho mọi
con người, mọi dân tộc. Sự sâu sắc và tinh tế văn hóa, đặc biệt là văn hóa đạo đức
của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người khẳng định một nhiệm vụ chiến lược trong tiến

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ "trồng người", đào tạo, giáo dục,
rèn luyện cán bộ, coi đó là công việc gốc của Ðảng, và thực hành đạo đức cách
mạng được Người quan tâm suốt đời như một chiến lược, cả tư tưởng lẫn hành
động. Chiến lược đó là cốt lõi của chiến lược con người, chiến lược xây dựng, phát
triển, đồng thời là chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội, làm cho cách mạng, Ðảng
cách mạng, người cách mạng có sức mạnh tự bảo vệ.
Người khẳng định, không gì quý bằng dân, không gì mạnh bằng sức mạnh
đoàn kết của nhân dân, và dân chủ là quý báu nhất trên đời của dân. Là chủ thể gốc
của mọi quyền lực, nhân dân phải là chủ sở hữu của dân chủ, phải là chủ xã hội, chủ
Nhà nước, giám sát được Nhà nước của mình. Người còn nhấn mạnh, thực hành dân
chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Vậy là,
Người đã thấy vai trò động lực của dân chủ đối với tiến bộ và phát triển, đối với chủ

nghĩa xã hội.
III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG
THẾ GIỚI
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng của thời đại
C.Mác khái quát: “Mỗi thời đại xã hội đều cần những con người vĩ đại của nó
và nếu không có những con người vĩ đại như thế thì thời đại sẽ sáng tạo ra những
con người như thế”.
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của
giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của dân tộc, của nhân loại tiến bộ.
Với những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, với tư tưởng về vai trò của độc lập dân tộc trong
tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về trình tự thân vận động của công cuộc đấu tranh

chủ nghĩa nhân dân các nước thuộc địa, Hồ chí Minh đã hình thành một hệ thống
các luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc góp phần làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, trong
đó có các vấn đề CNXH và xây dựng CNXH, về hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa
các dân tộc, có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều
vấn đề quốc tế ngày nay. Điều này đã được UNESCO khẳng định, ghi nhận.
Mỗi người đều có một ước vọng, nhưng không phải ai cũng đi được tới đích
cuối cùng. Chưa thành công, một nguyên nhân chính là vì chúng ta chưa bao giờ
đạt tới một ham muốn tột bậc, một khát vọng cháy bỏng và quên mình cho khát
vọng ấy.
Lẽ tất nhiên, chỉ có thể về tới đích khi mang trong mình một ham muốn chính

đáng và nuôi lớn thành khát vọng chân chính. Ham muốn của con người không chỉ
là một, nhưng để thành kim chỉ nam cho cuộc đời thì chỉ có thể là một ham muốn
của hàng triệu ước muốn, là ước vọng cùa cộng đồng, xu hướng tất yếu của thời
đại.
Ham muốn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một ham muốn có đầy đủ
yếu tố để đi về đích. Trước hết, ham muốn ấy mang tính khoa học vì phù hợp với
quy luật phát triển khách quan của lịch sử, một ước vọng được quy nạp bởi khát
vọng của hàng ngàn thế hệ, hàng ngàn năm lịch sử, của không chỉ dân tộc Việt
Nam mà là tất cả nhân dân mất độc lập - tự do trên toàn thế giới. Đã là khát vọng
của thời đại, chắc chắn ước muốn đó phải thành hiện thực.
Yếu tố thứ hai đưa ham muốn Hồ Chí Minh về đích là phương pháp thực hiện.
Đây không hề là ham muốn bột phát - nhất thời vì đã được đúc kết kinh nghiệm từ

hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, được chỉ giáo từ thất bại thăng trầm của
các bậc tiền bối thời cận đại. Hồ Chí Minh đã chọn một phương pháp: chỉ có thể
thành công từ chính nỗ lực của bản thân mình.
Yếu tố sau cùng, Hồ Chí Minh biết động thái cơ bản để hiện thưc hóa sự ham
muốn là phải phấn đấu quên mình cho một mục tiêu duy nhất và không bao giờ
chùn bước.
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc…”, mệnh đề đó nói tóm gọn là:
ham muốn nhân dân được hạnh phúc. Với lý tưởng đó, từng phút từng giây và suốt
cả cuộc đời, ngày quên ăn – đêm quên ngủ, Hồ Chí Mính không làm bất cứ một
việc gì khác ngoài mưu cầu tự do -hạnh phúc cho nhân dân. Lời giải cho sự thành
công của ham muốn đó là một đẳng thức: Cháy hết mình trong lý tưởng.
Chỉ có ham muốn thì chưa đủ, hiện thực hóa ham muốn ấy là cả một hệ thống

khoa học cách mạng, bao gồm: Mục tiêu: Hạnh phúc của dân; Phương pháp: do
dân thực hiện; Tiến trình: từ non trẻ đến lớn mạnh, từ cục bộ đến toàn diện.
Khi chỉ có một và đi thẳng đến tột bậc, Hồ Chí Minh đã hóa thân vào sự ham
muốn ấy. Thể xác, tinh thần của Người đã hòa tan vào trong NƯỚC, trong DÂN, trí
tuệ - giác quan của Người luôn trong trạng thái sẵn sàng hành động và vô cùng
nhạy cảm – tựa như một cung đàn luôn căng dây và tinh tường như một ra đa luôn
phát sóng. Không có một vật thể nhỏ bé nào chạm vào dân mà cung đàn chẳng
rung lên, không một xúc tác nào va vào niềm vui, nỗi buồn của dân lọt được qua
các vòng sóng ấy.
2. Tìm ra phương pháp đấu tranh cho việc giải phóng loài người
Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ việc xác định con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định một con đường cách mạng,

một hướng đi, một phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức
trong các nước thuộc địa lạc hậu.
Hồ Chí Minh hiểu việc đầu tiên là giác ngộ giai cấp vô sản. Giống như bao
con người bình thường mà không có học thức khác thì họ có trái tim mà không có
khối óc. Họ cho là chuyện bóc lột và bị bóc lột là đương nhiên. Một số lại nghĩ
mình không bị bóc lột mà lại là có công ăn việc làm. Số lượng người bị bóc lột là vô
cùng lớn, nhưng ho không hiểu và không muốn đấu tranh. Riêng ở Việt Nam lượng
nông dân chiếm đến 90% vào năm 1945, đó là chưa kể các giai cấp khác, và đa
phần số này đều không biết chữ. Thế nên, cần tuyên truyền để họ hiểu ra việc đấu
tranh với giai cấp tư sản là đúng đắn.
Người đã giải quyết được vấn đề “làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc
địa”; xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp bức,

Người kêu gọi lao động toàn thế giới, nhất là các nước thuộc địa cần phải đại đoàn
kết, đại hòa hợp.
Đoàn kết giai cấp vô sản lại, kể cả với các giai cấp khác. Giai cấp tư sản đã
chia rẽ thế giới thành các chủng tộc (phân biệt chủng tộc), thành các tỉnh (3 kỳ như
Việt Nam), thành lực lượng đàn áp và bị đàn áp (tuyển mộ binh sỹ, công an để đàn
áp các cuộc nổi dậy). Nhiệm vụ của Đảng Cộng Sản là đoàn kết các giai cấp lại,
hiểu rằng kẻ thù của họ không phải là những người cùng giai cấp, cùng bị bóc lột
mà là những người bóc lột, là tư sản. Mỗi dân tộc đều có quyền tự do và độc lập,
quan niệm như vậy nên Người cho rằng việc đấu tranh dành độc lập cho mỗi thuộc
địa là đúng đắn. Mà đấu tranh thì phải theo con đường Chủ nghĩa xã hội chứ không
phải bất kỳ con đường nào khác.
Đấu tranh giành chính quyền phải là đấu tranh bạo lực, tự lực cánh sinh chứ

không theo một phe phái, dựa dẫm một ai. Hồ Chí Minh không đồng tình với cách
đấu tranh ôn hòa vì người cho là đó là cách van xin giặc rủ lòng thương, cách dựa
dẫm nước khác thì là đưa cọp của trước rước beo của sau. Nếu các bạn không dám
hy sinh vì tự do thì các bạn không xứng đáng có được tự do, Người đã nói vậy. Đấu
tranh là đòi hỏi bạo lực, mà bạo lực tất phải có chết chóc hy sinh. Thắng lợi rồi thì
xây dựng một nhà nước của nhân dân lao động, một nhà nước của dân do dân vì dân
do đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành
bằng con đường cách mạng bạo lực. Trong đó có hai vấn đề:
Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng bạo lực
cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương, yêu nước, thương dân, yêu thương con
người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải

quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết
tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến
tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do.
Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân
tộc. Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm
chiến lược đánh lâu dài. Hồ Chí Minh nói, muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ,
muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế
nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất
mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ, tự lực tự
cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông đã
động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp

đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi. Những chân lý đó của Hồ Chí
Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát
triển của nhân loại.
3. Cổ vũ các dân tộc vì mục tiêu đấu tranh cao cả
Các Mác, Ph.Ăngghen không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc, vì thời đó ở
Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; hơn nữa, các bậc
tiền bối chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề dân tộc thuộc địa ở châu Á,
châu Phi và châu Mỹ La-tinh. Trong giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, cách
mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, nhờ
đó, Lênin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ
thống lý luận. Mác, và Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ

biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương
pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn
tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp. Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi
đặt ra yêu cầu cần vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác – Lênin cho phù hợp
với thực tiễn ở các nước thuộc địa; chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu
đó. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân
tộc, đồng thời Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước thuộc địa, mà cụ thể là Việt Nam ta.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc. Hồ
Chí Minh viết trong Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân

tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Mục đích của việc
dành độc lập dân tộc là đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: “Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt nam Dân chủ Cộng
hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì?”. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động
lực to lớn của đất nước. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế: “Các dân tộc ở đó
(ở phương Đông) không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được nếu không gắn bó với
giai cấp vô sản thế giới Ngày mà hàng trăm triệu người châu Á bị nô dịch và áp
bức sẽ thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một nhóm bọn thực dân tham tàn
và chính họ sẽ hình thành được một lực lượng đồ sộ vừa có thể thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, vừa giúp đỡ

những người anh em phương tây trong sự nghiệp giải phóng”.
Thế kỷ 20 - nơi Hồ Chí Minh sống là 1 thế kỷ mà chủ nghĩa đế quốc bao trùm
guồng máy bóc lột lên các nước thuộc đại. Phủ kín cả quả địa cầu nơi đâu cũng là
thuộc địa của các nước Âu Mỹ. Các nước có guồng máy công nghiệp bcs lột các
quốc gia có guồng máy nông nghiệp. Vì vậy 1 nửa dân số đại cầu là sống trong đói
rách và lầm than. Cách mạng Việt Nam là 1 điển hình cho cả thế giới thấy 1 dân tộc
nhỏ bé, lạc hậu, thô sơ nhưng có thể tự giải phóng mình khỏi 3 đế quốc hùng mạnh
nhất thế giới. Các dân tộc khác sẽ lấy đó làm cảm hứng để dành độc lập và tự do
cho dân tộc mình.
Trong lòng nhân dân thế giới , Hồ Chủ tịch là bất diệt. Bạn bè năm châu khâm
phục và coi Hồ Chí Minh là “lãnh tụ của thế giới thứ ba”, là “nguồn cổ vũ đối với
tất cả các chiến sĩ đấu tranh cho tự do”. Tuy Người đã mất nhưng “ tư tưởng chỉ đạo

của Người vẫn mãi mãi soi sáng cuộc đấu tranh cho tới khi tất cả bọn xâm lược và
bọn áp bức bị đánh bại hoàn toàn”( Trích điện văn của Tổng thống nước Cộng hoà
thống nhất Tan-da-ni-a Gu-li-ut Ni-rê-rê)
“Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nay là ngôi sao trên bầu trời cách mạng Xã hội
chủ nghĩa, của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, đang chỉ đường cho chúng ta
bằng ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Trong sự nghiệp của chúng ta nhất định
Người sẽ sống mãi” - R. A-rix-men-đi, Tổng bí thư Đảng Cộng sản U-ru-goay.
Và đối với Việt Nam cũng như thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng
giải phóng dân tộc vĩ đại của nhân dân Việt Nam, là nhà hoạt động xuất sắc của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường của phong trào
giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX. Chính Người đã làm sống lại những giá trị tinh
thần của dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta trở thành tấm gương cổ vũ tinh thần đấu

tranh của các dân tộc bị áp bức trên thế giới, thoát khỏi ách thuộc địa, xây dựng xã
hội độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ. Vì vậy, Người không chỉ là Anh hùng giải
phóng dân tộc và nhà văn hóa lớn mà còn là “một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc”.
C.KẾT LUẬN
Thế kỷ 20 đã đi qua, nhưng ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh với khẩu hiệu
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” vẫn còn nguyên giá trị và sức sống, tạo nên sự
liên kết gắn bó giữa các thế hệ người Việt Nam, giữa Việt Nam với thế giới.
Tại Hội thảo khoa học quốc tế “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay”,
nhân kỷ niệm lần thứ 120 Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu,
các nhà khoa học đến từ khắp nơi trên thế giới đã có chung nhận định, với những
giá trị to lớn của mình, tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần xây dựng, cổ vũ khích lệ
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

cũng như trên thế giới.
Theo các đại biểu, “Tư tưởng Hồ Chí Minh” đã trở thành “kim chỉ nam” đưa
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng. Tư tưởng và tấm
gương đấu tranh bất khuất cho độc lập, tự do của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt
Nam đã trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào đấu tranh giải phóng
của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20.
Gần 1 thế kỷ đã đi qua, nhìn lại lịch sử, yếu tố ấy rõ nét hơn bao giờ hết. Ông
Say Chum, Trưởng Ban Thường trực Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Trưởng
đoàn đại biểu Đảng Nhân dân Campuchia cho rằng: “Thân thế và sự nghiệp của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương anh hùng trong sáng và là di sản quý giá đối
với dân tộc và nhân dân Việt Nam, cũng như nhân dân ba nước Campuchia, Việt
Nam, Lào và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại

và kính yêu của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam; đồng thời cũng là
một lãnh tụ thiên tài trong số những nhà lãnh đạo thế giới đã có những đóng góp
tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của phong trào công
nhân quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, đạo đức mới
trong lịch sử Việt Nam”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại
rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhà
chiến lược thiên tài mà còn là nhà hoạt động thực tiễn kiệt xuất. Người là ngọn cờ
chói lọi lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam đoàn kết một lòng,
vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, anh dũng đấu tranh, giành hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang…”

Năm 1990, trong Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”, nhân kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Người, Tổ
chức Văn hóa Khoa học và Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã khẳng
định, Chủ tịch Hồ Chí Minh là vĩ nhân của thế giới. Người là biểu tượng cao đẹp
của chủ nghĩa yêu nước chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô
sản; không chỉ đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam mà còn góp
phần vào phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người của các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Thế giới đã và sẽ còn thay đổi, nhưng những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đã,
đang và sẽ luôn tồn tại, sống mãi với cách mạng Việt Nam cũng như đối với cách
mạng Thế giới.
ĐỀ TÀI 2

VẬN DỤNG NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC TRONG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
A. LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng Sản Việt Nam, anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã ra đi mãi mãi. Song, những tư tưởng
của người luôn sống mãi với thời gian. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc
Việt Nam một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo
đức, bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành,
phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, là sự vận dụng và
phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương mẫu mực về thực

hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh
để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là
một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách
mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người quan niệm đạo đức
tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc
thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc

của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người
cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài
thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với
nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
B. NỘI DUNG
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Vị trí, vai trò của đạo đức
1.1. Đạo dức là cái gốc của người cách mạng
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một
người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu
trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng

để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng
là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ.
Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển
con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong
mọi thử thách. Người viết : “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh

thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo
hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công
thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên
phải giữ gìn cho đúng, đó là:
• Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng.
• Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng.
• Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục,
không chịu cúi đầu.

• Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng và nhân
dân lao động lên trên hết, lên trên cả lợi ích của cá nhân mình.
• Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
• Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn tự dùng, tự phê bình và phê
bình để nâng cao tư tưởng và cải thiện công tác của mình và cùng đồng
chí mình tiến bộ.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta
thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của
V. I. Lênin: “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân
tộc và thời đại”.

Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu
cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực
hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của
con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc
biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng
đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
1.2. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng
cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng tự do được giải phóng, mà trước hết
là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản luôn

sống và chiến đấu cho lý tưởng đó của loài người thành hiện thực.
Người nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100
bài diễn văn tuyên truyền”. Và cuộc đời của Người trở thành nguồn cổ vũ, động
viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất đời
thường của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân
dân Việt Nam, mà còn cả với nhân dân thế giới.
2. Quan điểm những chuẩn mực về đạo đức trong Cách mạng
2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương đông,
được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Theo quan niệm

truyền thống, trung là trung quân, là trung thành với vua mà trung thành với vua là
trung thành với nước. Ở đây vua với nước là một. Hiếu có nghĩa là con, cháu hiếu
thảo với cha mẹ, ông bà, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình. Tư tưởng
trung với nước, hiếu với dân không chỉ đã thùa kế được những giá trị của chủ ghĩa
yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt qua được những hạn chế của truyền
thống đó. Trung với nước là trung với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở
đây là nước của nhân dân, nhân dân là người chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn
xác định “bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Như vậy, quan niệm về nước và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác
trước. Điều này đã làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.
2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm

chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, là
mối quan hệ “với tự mình”. Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng
ngày của mỗi người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Cũng như khái niệm
“trung, hiếu”, “cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ
trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung
không phù hợp và đưa ra những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Cần: là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ, không lười nhác, ỷ lại, lao
động có kế hoạch, hiệu quả, chất lượng, sáng tạo với tinh thần tự giác, tự lực, không
lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
Kiệm: là tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc… của dân, của nước và của
bản thân, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái lớn, “Không xa xỉ, không hoang phí, không

bừa bãi, không phô trương, hình thức…”
Cần, kiệm là phẩm chất của người lao động trong đời sống, trong công tác.
Liêm: là trong sạch “luôn tôn trọng của công và của dân; không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”, không tham lam tiền của, địa
vị, danh tiếng, không tham tâng bốc mình…”
Chính: là thẳng thắn, đứng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại;
đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết.
Theo Hồ Chí Minh, “Cần, kiệm, liêm, chính” là tứ đức không thể thiếu được
của con người, Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Người cũng nhấn mạnh: “Cần, kiệm, liêm, chính” càng cần thiết đối với
người cán bộ, Đảng viên. Nếu Đảng viên mắc sai lầm sẽ ảnh hưởng đến uy tín của
Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. “Cần, kiệm, liêm, chính” còn là thước đo sự giàu
có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cần thiết
để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và
nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.

×