Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân tích yếu tố thông tin đại chúng ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật, cho ví dụ cụ thể về hoạt động xây dựng pháp luật về đất đai ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.43 KB, 7 trang )

MỤC LỤC


1. MỞ ĐẦU

Xã hội của chúng ta luôn luôn biến đổi không ngừng, phức tạp và theo nhiều
chiều hướng khác nhau mà chúng ta khơng thể đốn biết trước được vì thế, để xã hội
ln nằm trong vịng kiểm sốt và ổn định chúng ta cần đến các công cụ điều chỉnh
quan hệ xã hội. Bên cạnh pháp luật thì các cơng cụ khác cũng đóng vai trị to lớn góp
phần điều chỉnh các quan hệ xã hội cũng như góp phần vào việc xây dựng và thực hiện
pháp luật. Trong số các công cụ quản lý xã hội ở Việt Nam thì dư luận xã hội và
phương tiện thơng tin đại chúng có tác động quan trọng đến việc xây dựng pháp luật
nước ta hiện nay. Chính vì thế để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này em xin chọn đề bài:
“Phân tích yếu tố thơng tin đại chúng ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật,
cho ví dụ cụ thể về hoạt động xây dựng pháp luật về đất đai ở nước ta hiện nay”.
2. NỘI DUNG
2.1. Những vấn đề lý luận chung
2.1.1. Khái niệm xây dựng pháp luật

Pháp luật là một trong những công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước để quản lý xã
hội. Ngày nay, pháp luật ngày càng được thượng tôn và phổ biến đến đa số người dân
thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Đây là kết quả của hoạt động xây dựng
pháp luật – hoạt động phức tạp với trình tự, thủ tục luật định nghiêm ngặt. Pháp luật
thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình bằng việc đặt ra các quy phạm ghi nhận
cách xử sự của con người khi ở trong trường hợp nhất định, tạo khung pháp lý cho
người dân, định hướng sự phát triển của hành vi con người.
Xây dựng pháp luật là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền,
tiến hành trong thời gian dài, có tính phức tạp cao và tuân theo thủ tục được quy định
trong pháp luật.
Tóm lại, xây dựng pháp luật là một phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước
thông qua các chủ thể được trao quyền, nhằm tạo ra công cụ, phương tiện hữu hiệu


phục vụ công tác quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Hay nói đơn giản, đây là hoạt
động soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật chứa các quy phạm, bao gồm các khâu
nghiên cứu, soạn thảo và cơng bố văn bản.
Sở dĩ nói đây là một hoạt động phức tạp bởi hoạt động này diễn ra cần một khoảng
thời gian dài, cần có sự tham gia của nhiều chủ thể, đặc biệt là nhóm chủ thể có trình
độ chun mơn cao, đồng thời hoạt động này cũng địi hỏi có sự phát huy trí tuệ tập
thể, chạy đua với sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới tự nhiên.

2


2.1.2. Khái niệm phương tiện thông tin đại chúng

Các phương tiện thơng tin đại chúng có thể hiểu là các phương tiện được sử dụng để
truyền đạt thông tin một cách đại chúng, rộng rãi, tức là có khả năng đưa thông tin tới
đa số đối tượng để phục vụ mục đích đã được đề ra.
Hiện nay mới sự phát triển của cơng nghệ thì có rất nhiều phương tiện thơng tin đại
chúng như: tạp chí, báo in, truyền hình, phát thanh, sách, internet, báo điện tử, loa
phường, quan hệ cơng chúng.... đã và đang góp phần tác động tích cực đến hoạt động
xây dựng pháp luật.
Ảnh hưởng của yếu tố thông tin đại chúng đến hoạt động xây dựng pháp
luật

2.2.

Sự hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng có tác động rất mạnh mẽ
và quan trọng tới hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối đầy
đủ và đa dạng về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống chính
trị, xã hội, pháp luật; cung cấp những tri thức, hiểu biết pháp luật cần thiết cho các chủ

thể của xây dựng pháp luật, phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; đưa tin nhanh chóng, rộng rãi tới các tầng lớp
xã hội về nội dung, kết quả các kỳ họp của Quốc hội.. Qua đó, các phương tiện truyền
thơng tác động tới nhận thức của các chủ thể về tầm quan trọng của hoạt động xây
dựng pháp luật, tạo cơ sở thông tin để các tầng lớp xã hội tham gia vào hoạt động xây
dựng pháp luật.
Thứ hai, các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thông tin về chính
sách pháp luật của Nhà nước, các dự thảo văn bản pháp luật mới, đưa các thơng tin đó
đến được với đông đảo tầng lớp nhân dân. Các phương tiện thông tin đại chúng tạo
diễn đàn ngôn luận công khai để các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật tham
gia trao đổi, phân tích, đóng góp về nội dung, cấu trúc, phạm vi điều chỉnh... của văn
bản pháp luật. Đồng thời, các phương tiện thông tin đại chúng cịn có thể đăng tải kịp
thời các thơng tin phản hồi, các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các tầng lớp
nhân dân chó hoạt động xây dựng pháp luật. Bằng cách tác động đó, thơng tin đại
chúng giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp thơng tin, xử lý và tiếp
thu có chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ vho việc sửa đổi bổ sung và ngày càng
hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Bằng cách tác động đó, thơng tin đại
chúng giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp thông tin, xử lý và tiếp thu
3


có chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ cho việc sữa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, phương tiện thơng tin đại chúng có vai trị định hướng, điều chỉnh q
trình hình thành dư luận xã hội thơng qua việc cung cấp các nguồn thông tin pháp luật
xác thực, đăng tải ý kiến chính thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về kết
quả hoạt động xây dựng pháp luật. Đối với các vấn đề xã hội- pháp luật cịn có nhiều
quan điểm khác nhau, thơng qua thơng tin đại chúng có thể tổ chức các buổi tọa đàm,
mời các nhà lãnh đạo, các chuyên gia, các nhà khoa học có uy tín tham dự để cùng
nhau bàn bạc, trao đổi ý kiến, phân tích thấu đáo các khía cạnh của vấn đề nhằm định

hướng, dẫn dắt dư luận xã hội. Bằng những hoạt động đó, các phương tiện thơng tin
đại chúng góp phần tạo lập các luồng dư luận tích cực phản ánh hoạt động xây dựng
pháp luật; góp phần đấu tranh chống lại, đập tan các âm mưu phá hoại, các luận điệu
tuyên truyền, xuyên tạc và bịa đặt của các thế lực thù địch về nội dung, bản chất hệ
thống pháp luật của nhà nước ta; củng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt
của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
2.3.

Hoạt động xây dựng pháp luật về đất đai ở nước ta hiện nay

Ngay sau khi có Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 31-10-2012, của Hội nghị
Trung ương 6 khóa XI, “Về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời
kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật để triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, cơng tác
tun truyền, phổ biến nâng cao nhận thức xã hội được quan tâm; việc tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật về đất đai được coi trọng, qua đó, đóng góp quan trọng vào
việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước: 1- Tài
nguyên đất được quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả hơn, trở thành nguồn lực quan
trọng cho sự phát triển đất nước, nguồn thu từ kinh tế đất ngày càng tăng; an ninh
lương thực được bảo đảm; nhu cầu đất cho sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển đô thị, kết cấu hạ tầng, quốc phòng - an ninh được phân bổ hợp lý hơn; 2- Hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; từng bước gắn kết công tác quy hoạch,
kế hoạch với định hướng khai thác sử dụng đất trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội qua các giai đoạn, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi
khí hậu; việc phân cấp, phân quyền được coi trọng, bước đầu khắc phục tình trạng lãng
phí, tạo quỹ đất cho các mục tiêu phát triển; 3- Quyền và nghĩa vụ của chủ thể sử dụng
đất được phân định rõ hơn; bước đầu hình thành khung pháp lý cơ bản để thị trường
bất động sản vận hành; các giao dịch chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp bằng quyền
4



sử dụng đất không ngừng tăng lên; công tác cải cách thủ tục hành chính, thơng tin và
xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai được coi trọng hơn, đã cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đạt 97,3%; 4- Công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát bước đầu có chuyển biến; tình hình đơn, thư khiếu nại
về đất đai có xu hướng giảm so với giai đoạn 2009 - 2013; việc xử lý các vụ tham
nhũng, tiêu cực về đất đai đạt được những kết quả bước đầu tích cực; 5- Cơng tác tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai ở nhiều địa phương đã có chuyển biến,
xuất hiện một số mơ hình hay, hiệu quả kinh tế cao, thu hút nhiều vốn đầu tư trong và
ngoài nước, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị văn minh được quan
tâm,...
Tuy nhiên, thực tiễn gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW khóa XI
vẫn cịn có những hạn chế, bất cập: Thứ nhất, nguồn lực về đất đai phát huy chưa đúng
tiềm năng. Ở nhiều nơi, sử dụng đất cịn lãng phí, hiệu quả thấp; tiếp cận quyền sử
dụng đất vẫn là một trong những rào cản; vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất chưa đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn nhu cầu sản xuất nơng nghiệp hàng hóa quy mơ lớn;
tình trạng suy giảm chất lượng, ơ nhiễm, thối hóa đất, xâm thực diễn biến phức tạp,
có xu hướng tăng về cả quy mơ và mức độ, một số nơi diễn ra nghiêm trọng;... Thứ
hai, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu
cầu phát triển đất nước; việc thể chế hóa chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai
chưa đồng bộ; cơng tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn nhiều vướng mắc; vấn đề
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, giao đất, cho thuê, thu hồi, giải phóng mặt bằng, xác
định giá đất chưa phù hợp với nguyên tắc thị trường. Thứ ba, các quy định về quyền sở
hữu tài sản trên đất cịn bất cập; chính sách điều tiết giá trị tăng thêm từ đất chưa bảo
đảm lợi ích của Nhà nước và người dân; thông tin, dữ liệu, thủ tục hành chính về đất
đai cịn hạn chế; thị trường bất động sản chưa minh bạch, tình trạng đầu cơ, “thổi” giá,
thất thu thuế cho ngân sách còn nhiều. Thứ tư, tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai
gây mất ổn định chính trị, xã hội cịn diễn biến phức tạp; nhiều vụ án tham nhũng, lãng
phí lớn liên quan đến đất đai, khơng ít cán bộ từ Trung ương đến địa phương bị xử lý,

kỷ luật; tranh chấp, xung đột về đất đai có lúc, có nơi kéo dài, gây mất ổn định an
ninh, trật tự xã hội. Thứ năm, cơng tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất
đai ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa nghiêm; tổ chức bộ máy quản lý đất đai
phân tán, thiếu đồng bộ; việc phân cấp, phân quyền chưa rõ về phạm vi, lĩnh vực, thẩm
quyền và trách nhiệm,…
Một số kiến nghị về hướng đột phá chính sách, pháp luật về đất đai

5


Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai. Sửa đổi hệ thống pháp luật về
đất đai nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất, đồng bộ; tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc, bất cập và phát sinh trong thực tiễn, khắc phục tình trạng
thất thốt, lãng phí; tạo điều kiện để các luật đi vào cuộc sống, thuận lợi cho công tác
tổ chức thi hành; phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an
ninh, chủ quyền quốc gia. Sớm ban hành Luật Đất đai mới (sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện Luật Đất đai năm 2013, theo đó, tiếp thu có chọn lọc những nội dung hợp lý của
các luật khác về những vấn đề liên quan đến đất đai bảo đảm sự thống nhất đồng bộ
của hệ thống pháp luật về đất đai).
Thứ hai, xử lý, giải quyết tốt vấn đề kinh tế đất đai phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển thị trường quyền sử dụng đất, thị
trường bất động sản thực sự vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính đất đai theo tinh thần Đại hội XIII của
Đảng, nhất là giá đất, thực hiện công khai, minh bạch, độc lập trong việc định giá đất.
Xây dựng mạng lưới thửa đất chuẩn, “bản đồ” giá đất. Đổi mới phương thức xác định
giá đất khoa học, phù hợp với cơ chế thị trường là giải pháp đột phá quan trọng hàng
đầu. Nghiên cứu ban hành thuế bất động sản; thu hẹp hình thức cho thuê đất trả tiền
một lần cho cả thời gian thuê. Có chính sách hợp lý về đất đai đối với vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, bảo đảm sinh kế, giữ gìn bản sắc văn hóa. Xây
dựng chính sách điều tiết giá trị gia tăng từ đất do Nhà nước đầu tư kết cấu hạ tầng và

chuyển đổi mục đích sử dụng đất mang lại, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, người dân
và nhà đầu tư.
Thứ ba, hồn thiện các cơng cụ quản lý nhà nước về đất đai, đẩy mạnh cải cách
hành chính, chuyển đổi số quốc gia. Trong đó, ưu tiên tập trung nguồn lực xây dựng cơ
sở dữ liệu và hệ thống thông tin, đăng ký đất đai đồng bộ, thống nhất từ Trung ương
đến địa phương, tích hợp đầy đủ các thơng tin về nguồn gốc, diện tích, lịch sử các giao
dịch,... Tăng cường sự phối hợp đa ngành trên cơ sở một đầu mối quản lý tập trung,
thống nhất. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm cơng tác quy hoạch,
quản lý đất đai, xây dựng chính sách, pháp luật. Đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu
quản lý đất đai trong tình hình mới.
3. KẾT LUẬN

Đất đai là một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển. Để sử dụng nguồn lực này
một cách hiệu quả, chính sách, pháp luật về đất đai cần có tầm nhìn dài hạn, bảo đảm
mơi trường ổn định về chính trị - xã hội; điều tiết sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả.
6


Muốn vậy, cần có các giải pháp đột phá trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất
đai thời gian tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Xã hội học pháp luật – TS. Ngọ Văn Nhân – NXB Hồng Đức
2. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật – Trường Đại học Luật Hà

Nội, Nhà xuất bản Công An nhân dân. Hà Nội 2015.
3. Nguyễn Minh Đoan – Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội Nhà xuất bản
chính trị Quốc gia, 2008.
4. />5. />
7




×