Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Phát triển kinh doanh các dịch vụ logistics của công ty Sao Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.14 KB, 104 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
LỜI MỞ ĐẦU
Đề tài: "Phát triển kinh doanh các dịch vụ logistics của công ty Sao Mai" là
đề tài gây được sự chú ý và quan tâm của tất cả mọi người. Dịch vụ logictis là dịch
vụ rất mới mẻ đối với Việt Nam. Trên thế giới dịch vụ này đã có từ lâu, các doanh
nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực này hàng năm thu được nguồn doanh thu
rất lớn.
Hiện nay dịch vụ này đã phát triển và được đưa vào Luật Kinh tế 2005. Việt
Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển loại hình dịch vụ này. Sau 5 tuần thực
tập tại công ty Sao Mai, tìm tòi và nghiên cứu hoạt động kinh doanh dịch vụ logictis
của Công ty em càng hiểu sâu hơn về lĩnh vực này và nó là nguồn kiến thức giúp em
hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp và phục vụ tốt cho công việc sau này.
1
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS
I. Khái quát chung về dịch vụ Logistics
1. Sự ra đời và phát triển của Logistics
1.1 Khái niệm về Logistics
Logistics có nguồn gốc từ hai chữ Logis và stic, có nghĩa là tính toán một
cách "hợp lý". Như vậy nội dung của Logistics bao gồm việc hướng dẫn mọi người
cách thức thực hiện công việc sao cho hợp lý nhất. Từ “Logistics” được giải nghĩa
bằng tiếng anh trong cuốn “Oxford Advances Learners Dictionary of Current English,
A.S Hornby. Fifth Edition, Oxford University Press, 1995” như sau: "Logistics có
nghĩa là việc tổ chức cung ứng và dịch vụ đối với một hoạt động phức hợp nào đó"
Logistic gồm có 3 mảng chính là kho bãi, giao nhận và vận chuyển. Công việc
cụ thể là quản lý hàng tồn, giao hàng và nhận tiền theo đơn đặt hàng, phân phối hàng
đến các đại lý… Công việc đòi hỏi phải lập kế hoạch tốt, có sự linh hoạt, nhạy bén về
kinh doanh, điều phối tốt. Ngoài ra cần có một số kỹ năng tổng quát như: kỹ năng
tính toán tốt, khả năng giao tiếp tốt. Biết tiếng Anh, vi tính là bắt buộc phải có.
Tuy nhiên hiện ở Việt Nam chưa có trường nào đào tạo chuyên về ngành này


mà nó chỉ mới được đề cập rải rác trong một số môn học ở các ngành kinh tế. Chính
vì thế, các công ty muốn tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp từ các ngành này về rồi đào
tạo lại từ đầu. Điều đó đòi hỏi ứng viên phải có tinh thần ham học hỏi, không ngại
khó, chấp nhận bắt đầu từ con số không. Bên cạnh đó, công việc logistic còn đòi hỏi
ứng viên có tầm nhìn xa để dung hoà được nhu cầu của thị trường và khả năng cung
ứng của công ty. Có được sự linh hoạt, nhạy bén về kinh doanh, cũng như khả năng
phân tích, nắm bắt thị trường để có thể điều phối được hàng đến đúng nơi, đúng chỗ,
tạo được hiệu quả kinh doanh
Trước đây, hàng hoá đi từ nước người bán đến nước người mua thường dưới
hình thức hàng lẻ, phải qua tay người vận tải và nhiều phương thức vận tải khác
nhau. Xác xuất rủi ro mất mát đối với hàng hoá do vậy rất lớn, người gửi hàng phải
ký nhiều hợp đồng vận tải riêng biệt với từng người vận tải thực sự, trách nhiệm của
2
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
mỗi người vận tải theo đó chỉ giới hạn trong chặng đường, hay dịch vụ do anh ta đảm
nhiệm mà thôi. Cách mạng container hoá trong vận tải vào những năm 60, 70 của thế
kỷ này đã đảm bảo an toàn và độ tin cậy trong di chuyển hàng hoá, là tiền đề cho sự
ra đời của vận tải đa phương thức. Vì vậy, khách hàng rất cần một người tổ chức mọi
công việc ở tất cả các công đoạn để tiết kiệm chi phí, tối thiểu hoá hao phí thời gian,
từ đó nâng cao lợi nhuận. Những người làm nghề này không chỉ là làm giao nhận mà
còn làm cả các công việc về lưu kho, dán nhãn hiệu, đóng gói bao bì, thuê phương
tiện vận chuyển, làm thủ tục hải quan và có thể mua giúp bảo hiểm cho chủ hàng nữa,
người này gọi là Logistics Service Provider (Người cung cấp dịch vụ tiếp vận).
Các công ty giao nhận kho vận trên thế giới nói chung, và ở các nước ASEAN
nói riêng, ngày càng nhận thấy rằng chi phí của các dịch vụ lập kế hoạch, sắp xếp và
chuẩn bị mọi mặt cho hàng hoá để sẵn sàng chuyên chở (inventory costs) và chi phí
vận tải đơn thuần (transport costs) có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau
trên nhiều khía cạnh (perspective). Nếu biết tận dụng công nghệ tin học để tổ chức tốt
và chặt chẽ các khâu này, thì giá thành của hàng hoá sẽ giảm đáng kể, do vậy năng

lực cạnh tranh được nâng cao. Vì vậy, Logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ (do
đó thuật ngữ này bao giờ cũng ở dạng số nhiều: LOGISTICS. Dù là danh từ, hay tính
từ, không bao giờ người ta viết LOGISTIC). Logistics luôn luôn là một chuỗi các
dịch vụ về giao nhận hàng hoá như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì
đóng gói ghi nhãn hiệu, lưu kho lưu bãi, phân phát hàng hoá (nguyên liệu hoặc thành
phẩm) tới các địa chỉ khác nhau, chuẩn bị cho hàng hoá luôn luôn sẵn sàng trong
trạng thái có yêu cầu của khách hàng là đi ngay được (inventory level). Chính vì vậy,
nói tới Logistics bao giờ người ta cũng nói tới một chuỗi hệ thống dịch vụ (logistics
system chain). Với hệ thống chuỗi dịch vụ này, người cung cấp dịch vụ Logistics
(Logistics service provider) sẽ giúp khách hàng có thể tiết kiệm được chi phí của đầu
vào trong các khâu dịch chuyển, lưu kho, lưu bãi và phân phát hàng hoá (nguyên liệu,
bán thành phẩm, hoặc thành phẩm), cũng như chi phí dịch vụ Logistics đã nói trên
Theo sách giáo khoa Logistics Liên Hợp Quốc (Khóa đào tạo quốc tế về vận
tải đa phương thức và quản lý logistics, Đại học Ngoại Thương, tháng 10/2002):
3
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu
kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng
Ủy ban Quản lý logistics của Hoa Kỳ: Logistics là quá trình lập kế hoạch,
chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo
quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán
thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản
xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng
Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ-1988: Logistics là quá trình liên kế
hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu
trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ
đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn những yêu cầu của khách hàng
Trong lĩnh vực quân sự, logistics được định nghĩa là khoa học của việc lập kế

hoạch và tiến hành di chuyển và tập trung các lực lượng, … các mặt trong chiến dịch
quân sự liên quan tới việc thiết kế và phát triển, mua lại, lưu kho, di chuyển, phân
phối, tập trung, sắp đặt và di chuyển khí tài, trang thiết bị.
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 (Điều 233): Trong Luật Thương mại
2005, lần đầu tiên khái niệm về dịch vụ logistics được pháp điển hóa. Luật quy định
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện
một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ
tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã
hiệu, giao hạng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với
khách hàng để hưởng thù lao”.
Tóm lại, Logistics có thể được định nghĩa như sau (Coyle, 2003): “Logistics là
quá trình dự báo nhu cầu và huy động các nguồn lực như vốn, vật tư, thiết bị, nhân
lực, công nghệ và thông tin để thỏa mãn nhanh nhất những yêu cầu về sản phẩm, dịch
vụ của khách hàng trên cơ sở khai thác tốt nhất hệ thống sản xuất và các mạng phân
phối, cung cấp hiện có của doanh nghiệp, với chi phí hợp lý.”
1.2 Sự hình thành và phát triển Logistics
4
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
* Sự hình thành của Logistics
Logistics được coi là một nhánh trong nghệ thuật chiến đấu, đó chính là việc
vận chuyển và cung cấp lương thực, thực phẩm, trang thiết bị... đúng lúc, đúng nơi
khi cần thiết cho lực lượng chiến đấu. Logistics đã giúp quân đội các nước tham
chiến gặt hái được những chiến thắng. Điển hình là cuộc chiến đấu của quân đội
Hoàng gia Pháp với Hải quân Anh ở thế kỷ XVII - XVIII. Mặc dù yếu thế hơn rất
nhiều so với Hải quân Anh nhưng nhờ sự nỗ lực lớn về công nghiệp và sự ứng biến
khéo léo trong Logistics, Pháp đã biến điểm yếu của mình thành sức mạnh và giành
được thắng lợi. Hay thất bại chiến lược của Đức trong cuộc tấn công bằng đường
biển vào Anh T7/1940, nguyên nhân chính là do thiếu "hậu cần" thích hợp. Ngược
lại, cuộc đổ bộ thành công của quân đồng minh vào vùng Normandie T6/1944 chính

là nhờ một phần lớn vào sự nỗ lực của khâu chuẩn bị hậu cần và quy mô của các
phương tiện hậu cần được triển khai.
Ngày nay thuật ngữ "Logistics" đã được phát triển mở rộng và được hiểu với
nghĩa là quản lý (management). Nó diễn tả toàn bộ quá trình vận động của nguyên
vật liệu và sản phẩm đi vào - qua và đi ra khỏi doanh nghiệp tới khâu phân phối tới
tay người tiêu dùng.
* Sự phát triển của Logistics
Theo Jacques Colin - giáo sư về khoa học quản lý tại trường đại học Aix -
Marseille II, giám đốc trung tâm nghiên cứu về vận tải và Logistics thì sự ra đời và
phát triển của Logistics trải qua các thời kỳ sau:
5
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
- Giai đoạn những năm 50 và 60 của thế kỷ XX:
Đây là giai đoạn thử nghiệm, các chuyên gia Logistics trong quân đội đã phục
viên thử áp dụng các kỹ năng Logistics của mình để giải quyết các vấn đề gặp phải
trong doanh nghiệp. Giai đoạn thử nghiệm này được bắt đầu từ việc nghiên cứu các
tác nghiệp và những kỹ thuật tối ưu hoá ứng dụng để giải quyết những vấn đề trong
chuyên chở và kho hàng...
- Giai đoạn những năm 70 của thế kỷ XX:
Đây là thời kỳ khởi động Logistics trong doanh nghiệp. Trong thời kỳ này,
Logistics trước hết là nghiên cứu việc tối ưu hoá các bộ phận tách biệt (quản lý kho
bãi, quản lý hàng tồn kho, luân chuyển giao hàng...) và hợp lý hoá cơ cấu của doanh
nghiệp. Nghiên cứu hiệu quả của việc giảm các chi phí hoạt động và người lao động.
chuyển dần những hoạt động này sang cho những người chuyên chở và cung cấp dịch
vụ. Sự tìm kiếm tính liên tục trong vận hành doanh nghiệp là đặc điểm chính của
Logistics sản xuất ở thời kỳ này.
- Giai đoạn những năm 80 đến 90 của thế kỷ XX:
Giai đoạn này là giai đoạn phát triển của Logistics. Đây là giai đoạn Logistics
hướng vào việc phối hợp các bộ phận chịu trách nhiệm lưu chuyển các luồng hàng

trong doanh nghiệp, xoá bỏ sự ngăn cách giữa các bộ phận đó. Mối quan tâm của
những người điều hành các luồng luân chuyển này tập trung vào khâu lưu thông hàng
hoá. Cụ thể tăng cường quản lý các chi phí trong lưu thông, giảm hàng lưu kho, đẩy
mạnh vận chuyển giữa các vùng sản xuất và phân phối. Dịch vụ Logistics đã làm ổn
định và đảm bảo tính liên tục của các luồng luân chuyển hàng hoá.
- Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX đến nay:
Thời kỳ Logistics được phát triển cả bề sâu lẫn bề rộng, huy động toàn bộ các
nguồn lực bên trong của doanh nghiệp, nhất là các nguồn lực bên ngoài doanh nghiệp
(nguồn lực của các đối tác) để xây dựng hệ thống Logistics phức tạp, đa chủ thể có
quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc qua lại lẫn nhau. Hệ thống này cho phép thực hiện
nhiều giao dịch dẫn đến sự hoà nhập của các chủ thể vào cùng một tiến trình hoạt
động của doanh nghiệp.
6
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
Theo uỷ ban kinh tế và xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (Economic and
Social Commission for Asia and Pacific - ESCAP) của Liên hiệp quốc thì quá trình
hình thành và phát triển của Logisstics lại chia làm các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Phân phối vật chất
Vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX, người ta quan tâm đến việc quản lý có
hệ thống những hoạt động có liên quan với nhau để đảm bảo hiệu quả việc giao hàng,
thành phẩm và bán thành phẩm...cho khách hàng. Những hoạt động đó là: vận tải,
phân phối, bảo quản, định mức tồn kho, bao bì đóng gói, di chuyển nguyên liệu...
Những hoạt động này gọi là phân phối vật chất hay Logistics đầu vào.
- Giai đoạn 2: Hệ thống Logistics
Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XX, các công ty kết hợp chặt chẽ sự quản
lý của 2 mặt (đầu vào và đầu ra) để giảm tối đa chi phí cũng như tiết kiệm chi phí. Sự
kết hợp chặt chẽ giữa cung ứng nguyên liệu cho sản xuất với phân phối sản phẩm đến
tay người tiêu dùng đã đảm bảo tính liên tục và ổn định của các luồng vận chuyển.Sự
kết hợp đó được mô tả là hệ thống Logistics.

- Giai đoạn 3: Quản lý dây chuyền cung cấp
Giai đoạn này diễn ra từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay. Quản lý
dây chuyền cung cấp - đây là khái niệm có tính chiến lược về quản lý dãy nối tiếp các
hoạt động từ người cung ứng - đến người sản xuất - đến khách hàng cùng với dịch vụ
làm tăng thêm giá trị sản phẩm như cung ứng chứng từ liên quan, theo dõi, kiểm tra...
Khái niệm này coi trọng đối tác, phát triển đối tác, kết hợp giữa doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh với người cung ứng, khách hàng cũng như những người liên quan
đến hệ thống quản lý (các công ty vận tải, lưu kho, những người cung cấp công nghệ
thông tin...). Như vậy Logistics được phát triển từ việc áp dụng các kỹ năng "tiếp
vận", "hậu cần" trong quân đội để giải quyết những vấn đề phát sinh của thực tế sản
xuất - kinh doanh và đến nay được hoàn thiện trở thành hệ thống quản lý mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
1.3 Nguyên nhân ra đời và phát triển Logistics trong doanh nghiệp
7
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
Trong chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh thế giới lần thứ II, rất nhiều kỹ năng
của Logistics được biết đến nhưng lại bị lãng quên trong hoạt động kinh tế thời hậu
chiến vì lúc này, sự chú ý của các nhà quản trị Marketing đang hướng vào việc đáp
ứng những nhu cầu hàng hoá sau chiến tranh. Phải đến thời kỳ suy thoái kinh tế và
những năm 50 của thế kỷ XX thì họ mới bắt đầu nghiên cứu mạng lưới phân phối vật
chất. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1958 và việc thu hẹp lợi nhuận đã thúc đẩy
các các doanh nghiệp tìm kiếm các hệ thống kiểm soát chi phí để đạt hiệu quả hơn.
Và hầu như đồng thời rất nhiều doanh nghiệp nhận ra rằng "phân phối vật chất" và
"Logistics" là những vấn đề chưa được nghiên cứu kỹ và chưa thực sự kết hợp với
nhau để kiểm soát và giảm tối đa chi phí. Qua nghiên cứu thực tế, các doanh nghiệp
đều cho rằng: Việc Logistics ra đời và phát triển trong doanh nghiệp là một yếu tố tất
yếu nếu doanh nghiệp muốn đạt được lợi nhuận cao nhất trong quá trình hoạt động,
sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân chính xuất phát từ các yếu tố sau:
* Thứ nhất, chi phí vận tải tăng nhanh

Các phương thức phân phối truyền thống ngày càng đắt đỏ hơn, dẫn đến cần
phải chú ý việc kiểm soát chặt chẽ những chi phí này vào những năm 70 của thế kỷ
XX, kiểm soát chi phí vận tải càng cần thiết hơn do giá nhiên liệu tăng vọt. Vận tải
lúc này không được coi là một nhân tố ổn định trong phương án kinh doanh của các
doanh nghiệp nữa. Như vậy thực tế đòi hỏi cần phải có nghệ thuật quản lý ở cấp độ
cao hơn để can thiệp vào những lĩnh vực liên quan đến vận tải cả trong lĩnh vực
chính sách cũng như quá trình thực hiện.
* Thứ hai, hiệu quả trong sản xuất đã đạt tới đỉnh cao
Trên thực tế, khi hiệu quả trong sản xuất đã đạt tới đỉnh cao rất khó tìm thêm
những biện pháp nhằm tiết kiệm hơn nữa những chi phí từ sản xuất, nói khác đi là chi
phí trong sản xuất đã được gạn lọc một cách tối đa. Vì vậy muốn tối ưu hoá quá trình
sản xuất vật chất, các doanh nghiệp phải tìm kiếm một giải pháp khác - "phân phối
vật chất" và "Logistics", lĩnh vực hầu như chưa được khai phá.
* Thứ ba, trong nhận thức của các doanh nghiệp đã có sự thay đổi cơ bản về
nguyên lý trữ hàng
8
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
Trước đây có thời kỳ các nhà bán lẻ nắm giữ khoảng một nửa lượng hàng
thành phẩm, nửa còn lại do các nhà bán buôn và sản xuất nắm giữ. Vào những năm
50 của thế kỷ XX, nhiều kỹ thuật kiểm soát hàng tồn kho đã được áp dụng, đặc biệt
trong kinh doanh hàng tạp hoá, đã làm giảm lượng hàng hóa trong kho, thay đổi tỷ lệ
nắm giữ hàng hoá của các nhà bán lẻ xuống còn 10% còn các nhà phân phối và sản
xuất nắm giữ 90%. Như vậy, nhận thức của các doanh nghiệp đã có sự thay đổi rất
lớn về nguyên lý trữ hàng. Hầu hết các doanh nghiệp đều nhận thức được tầm quan
trọng của công tác hậu cần trong doanh nghiệp.
* Thứ tư, các ngành hàng sản xuất gia tăng nhanh chóng
Đây là kết quả trực tiếp của nguyên lý Marketing cơ bản "cung cấp cho khách
hàng những sản phẩm mà họ yêu cầu". Một nhà buôn máy chữ không chỉ dự trữ loại
dùng cho văn phòng 2 màu đen trắng như trước mà còn phải có khả năng cung cấp

loại máy chữ màu có bàn phím phù hợp với nhu cầu của người mua. Điều này phản
ánh nhu cầu đa dạng và phức tạp của khách hàng, đòi hỏi nhà sản xuất phải tìm cách
để luôn hoàn thiện mình và hoàn thiện sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu và thị
hiếu của khách hàng.
* Thứ năm, công nghệ thông tin đã tạo nên sự thay đổi lớn trong sản xuất –
kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc quản lý cách thức thực hành Logistics đòi hỏi phải có một khối lượng
lớn chi tiết và dữ liệu. Ví dụ như: Vị trí của mỗi khách hàng; nhu cầu của từng đơn
hàng; vị trí nơi sản xuất; nhà kho và các trung tâm phân phối; chi phí vận tải từ kho
đến từng khách hàng; người chuyên chở săn sóc các dịch vụ mà họ cung cấp; vị trí
của các nhà cung cấp và lượng hàng tồn kho tại các kho, trung tâm phân phối...Tất cả
các thông tin này làm cho việc phân tích thủ công không thể thực hiện được. Nhưng
ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ mà đặc biệt là máy vi
tính - vị cứu tinh toán học, việc hiện thực hoá khái niệm phân phối và Logistics
không còn là vấn đề khó khăn nữa. Như vậy các thành tựu khoa học công nghệ đã
góp phần rất lớn trong việc tạo nên sự thay đổi vượt bậc trong sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp.
9
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
* Thứ sáu, yếu tố này cũng liên quan đến sự gia tăng của sử dụng máy vi tính
Như chúng ta đã biết máy tính có vai trò rất quan trọng. Hầu như tất cả các
phòng ban trong các doanh nghiệp đều được trang bị hệ thống mạng lưới vi tính rất
tiên tiến và hiện đại. Vi tính đi vào đời sống công sở như một sự thật hiển nhiên mà
ai cũng nhìn thấy. Mặc dù có thể có một số doanh nghiệp không dùng máy vi tính
nhưng các nhà cung cấp và các khách hàng của họ vẫn sử dụng. Điều này giúp cho
doanh nghiệp nhận thấy được một cách có hệ thống chất lượng của các dịch vụ mà họ
nhận được từ các nhà cung cấp. Dựa trên sự phân tích này, nhiều doanh nghiệp đã
xác định được nhà cung cấp nào thường xuyên cung cấp các dịch vụ dưới mức tiêu
chuẩn. Nhiều doanh nghiệp nhận thấy sự cần thiất phải nâng cấp hệ thống phân phối

của mình. Và khi các doanh nghiệp chuyển sang áp dụng hệ thống JIT (Just in time)
thì họ cũng đặt ra cho các nhà cung cấp một yêu cầu rất chính xác về vận chuyển
nguyên vật liệu hoặc giao hàng.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự ra đời và phát triển
Logistics trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi xã hội
đã có sự biến đổi, muốn tối ưu hoá quá trình sản xuất vật chất, giờ đây không phải
chỉ chú trọng vào khâu sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo nhiều sản phẩm mà
phải biết kết hợp tất cả các yếu tố có liên quan như vận tải, kho bãi, cách lưu trữ
nguyên liệu, sản phẩm và quá trình thực hiện đơn hàng... để tạo thành dòng chảy liên
tục, đạt được một dịch vụ khách hàng đảm bảo về mặt thời gian đồng thời tiết kiệm
được chi phí. Logistics đã ra đời và phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu trên.
2. Đặc điểm,vai trò và tác dụng của Logistics
2.1 Đặc điểm của Logistics
Qua các nghiên cứu khoa học về Logistics chúng ta có thể rút ra những đặc
điểm cơ bản sau đây:
2.1.1 Logistics có thể coi là tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp trên các
khía cạnh chính, đó là logistics sinh tồn; logistics hoạt động và logistics hệ thống.
* Logistics sinh tồn có liên quan đến các nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Tại
bất kỳ thời điểm nào, trong bất cứ môi trường nào, Logistics sinh tồn cũng tương đối
10
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
ổn định và có thể dự đoán được. Con người có thể nhận thức được về nhu cầu như:
cần gì, cần bao nhiêu, khi nào cần và cần ở đâu... Logistics sinh tồn là hoạt động cơ
bản của các xã hội sơ khai và là thành phần thiết yếu trong một xã hội công nghiệp
hoá. Logistics sinh tồn cung cấp nền tảng cho Logistics hoạt động.
* Logistics hoạt động mở rộng các nhu cầu cơ bản bằng cách liên kết các hệ
thống sản xuất các sản phẩm. Logistics liên kết các nguyên liệu thô doanh nghiệp cần
trong quá trình sản xuất, các dụng cụ sử dụng nguyên liệu đó trong quá trình sản xuất
và phân phối sản phẩm có được từ quá trình sản xuất đó. Khía cạnh này của Logistics

cũng tương đối ổn định và có thể dự đoán được. Nhưng Logistics hoạt động lại
không thể dự đoán được khi nào máy móc có sự cố, để sửa chữa thì cần cái gì và thời
gian sửa chữa như thế nào... Như vậy Logistics hoạt động chỉ liên quan đến sự vận
động và lưu kho của nguyên liệu vào trong, qua và đi ra khỏi doanh nghiệp và là nền
tảng cho Logistics hệ thống.
* Logistics hệ thống liên kết các nguồn lực cần có trong việc giữ cho hệ
thống hoạt động. Những nguồn lực này bao gồm thiết bị, phụ tùng thay thế, nhân lực
và đào tạo, tài liệu kỹ thuật, các thiết bị kiểm tra, hỗ trợ và nhà xưởng... Các yếu tố
này không thể thiếu và phải được kết hợp chặt chẽ nếu muốn duy trì sự hoạt động của
một hệ thống sản xuất hay lưu thông.
Logistics sinh tồn, Logistics hoạt động và Logistics hệ thống không tách rời
nhau, quan hệ chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho nhau và tạo thành chuỗi dây
chuyền Logistics.
2.1.2 Logistics có chức năng hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp.
Logistics có chức năng hỗ trợ thể hiện ở chỗ nó tồn tại chỉ để cung cấp sự hỗ
trợ cho các bộ phận khác của doanh nghiệp. Logistics hỗ trợ quá trình sản xuất
(Logistics hoạt động), hỗ trợ cho sản phẩm sau khi được di chuyển quyền sở hữu từ
người sản xuất sang người tiêu dùng (Logistics hệ thống). Điều này không có nghĩa
là quá trình sản xuất không bao gồm các yếu tố của Logistics hệ thống hay hoạt động
hỗ trợ sau khi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm không bao gồm các yếu tố của
Logistics hoạt động. Trên thức tế các khía cạnh của Logistics được liên kết với nhau
11
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
và được sắp xếp tuần tự với nhau. Sự liên kết tự nhiên của Logistics cho thấy những
quan niệm cho rằng Logistics hoạt động độc lập với Logistics hệ thống là không
đúng. Do vậy chỉ có một loại Logistics với các yếu tố như vận tải, kho bãi, phụ tùng
thay thế, nhân sự và đào tạo nhân sự, tài liệu, thiết bị kiểm tra, hỗ trợ, nhà xưởng.
Một doanh nghiệp có thể kết hợp bất cứ yếu tố Logistics nào với nhau hay tất cả các
yếu tố Logistics tuỳ theo cấp độ yêu cầu của doanh nghiệp mình.

Logistics còn hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp thể hiện: Sản xuất được
Logistics hỗ trợ thông qua quản lý sự di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu đi vào
doanh nghiệp và bán thành phẩm di chuyển trong doanh nghiệp.
2.1.3 Logistics là một dịch vụ.
Logistics tồn tại để cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp hoặc cho khách hàng
của doanh nghiệp, dịch vụ, đối với cả doanh nghiệp hay khách hàng đều được cung
cấp thông qua việc tập trung các yếu tố khác nhau, các yếu tố này là các bộ phận tạo
thành chuỗi Logistics.
Dịch vụ Logistics trong doanh nghiệp chú trọng đến các yếu tố về quản trị
nguyên vật liệu, lưu kho trong nhà máy và phân phối vật chất. Tuy nhiên trong hoạt
động của doanh nghiệp không phải chỉ dừng lại ở yêu cầu các yếu tố cơ bản mà dịch
vụ Logistics cung cấp trên đây mà có thể cần cung cấp thêm các dịch vụ khác của
Logistics.
Một doanh nghiệp trong điều kiện hoạt động bình thường sẽ đòi hỏi sự hỗ trợ
từ các yếu tố Logistics. Một yếu tố Logistics cụ thể được cung cấp từ một nhà chuyên
nghiệp chứ không phải từ trong doanh nghiệp. Nhưng trách nhiệm đối với chất lượng
của dịch vụ hỗ trợ này lại là trách nhiệm của Logistics trong doanh nghiệp.
2.1.4 Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải giao nhận;
vận tải giao nhận gắn liền và nằm trong logistics.
Logistics là sự phát triển của dịch vụ vận tải giao nhận ở trình độ cao và hoàn
thiện. Qua các giai đoạn phát triển, Logistics đã làm cho khái niệm vận tải giao nhận
truyền thống ngày càng đa dạng và phong phú thêm. Từ chỗ thay mặt khách hàng để
thực hiện các công việc đơn điệu, lẻ tẻ, tách biệt như: thuê tàu, lưu cước, chuẩn bị
12
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
hàng, đóng gói, tái chế hàng, làm thủ tục thông quan... cho tới cung cấp trọn gói một
dịch vụ vận chuyển từ kho đến kho (Door to Door) đúng nơi đúng lúc để phục vụ nhu
cầu khách hàng. Từ chỗ đóng vai trò là đại lý, người được uỷ thác trở thành một bên
chính (Pricipal) trong các hoạt động vận tải giao nhận với khách hàng, chịu trách

nhiệm trước các nguồn luật điều chỉnh đối với những hành vi của mình Không phải
như trước kia chỉ cần dăm ba xe tải, một vài kho chứa hàng... là có thể triển khai
cung cấp dịch vụ vận tải giao nhận cho khách hàng. ngày nay, yêu cầu dịch vụ cung
cấp cho khách hàng đa dạng, phong phú, người cung cấp dịch vụ phải tổ chức quản lý
một hệ thống đồng bộ từ giao nhận đến vận tải, cung ứng nguyên vật liệu phục vụ
sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hoá trong kho, phân phối hàng hoá đúng nơi,
đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để theo dõi, kiểm tra... Rõ ràng dịch vụ vận tải
giao nhận không còn đơn thuần như trước mà được phát triển ở mức độ cao với đầy
tính phức tạp. Người vận tải giao nhận trở thành người cung cấp dịch vụ Logistics
(Logistics Service Provider)
2.1.5 Logistics là sự phát triển hoàn thiện dịch vụ vận tải đa phương thức.
Trước đây, hàng hoá đi từ nước người bán đến nước người mua dưới hình
thức bán lẻ, phải qua tay nhiều người vận tải và nhiều phương thức vận tải khác
nhau, vì vậy xác suất rủi ro mất mát đối với hàng hoá rất lớn và người gửi hàng phải
ký nhiều hợp đồng với nhiều người vận tải khác nhau, trách nhiệm của mỗi người
vận tải theo đó chỉ giới hạn trong chặng đường hay dịch vụ mà anh ta đảm nhiệm.
Những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, cách mạng container trong ngành vận tải đã đảm
bảo an toàn và độ tin cậy trong vận chuyển hàng hoá, là tiền đề và cơ sở cho sự ra đời
và phát triển vận tải đa phương thức. Vận tải đa phương thức ra đời, bây giờ người
gửi hàng chỉ cần ký hợp đồng vận tải với một người (Người kinh doanh vận tải đa
phương thức - Multmodal transport operator - MTO). MTO sẽ chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện toàn bộ việc vận chuyển hàng hoá từ khi nhận hàng cho đến khi giao
hàng bằng một chứng từ duy nhất (Chứng từ vận tải đa phương thức - Multmodal
transport document) cho dù anh ta có thể không phải là người chuyên chở thực tế
(Actual Carrier). Hợp đồng chuyên chở như vậy có thể do người kinh doanh vận tải
13
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
đa phương thức đảm nhận, nhưng chủ hàng vẫn cần một người lên kế hoạch cung
ứng, mua hàng hoá, giám sát mọi sự di chuyển của hàng hoá để đảm bảo đúng loại

hàng, đến đúng địa điểm và đúng thời gian. Người giúp chủ hàng chính là người tổ
chức dịch vụ Logistics. Dịch vụ Logistics sẽ giúp chủ hàng tiết kiệm chi phí cũng
như thời gian, từ đó nâng cao hiệu quả trong kinh doanh.
Tóm lại, Logistics là sự phối hợp đồng bộ các hoạt động, là dịch vụ hỗ trợ các
hoạt động, là sự phát triển cao, hoàn thiện của dịch vụ giao nhận vận tải và là sự phát
triển khéo léo của dịch vụ vận tải đa phương thức. Đây chính là những đặc điểm cơ
bản của Logistics.
2.2 Vai trò của Logistics
2.2.1 Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế quốc tế như cung cấp,
sản xuất, lưu thông phân phối; mở rộng thị trường cho các hoạt động kinh tế.
Khi thị trường toàn cầu phát triển với các tiến bộ công nghệ, đặc biệt là việc
mở cửa thị trường ở các nước đang và chậm phát triển, Logistics được các nhà quản
lý coi là công cụ, một phương tiện liên kết các lĩnh vực khác nhau của chiến lược
doanh nghiệp. Logistics tạo ra sự hữu dụng về thời gian và địa điểm cho các hoạt
động của doanh nghiệp. Thế giới ngày nay được nhìn nhận như các nền kinh tế liên
kết, trong đó các doanh nghiệp mở rộng biên giới quốc gia và khái niệm quốc gia chỉ
là thứ 2 so với các hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ như thị trường tam giác bao
gồm ba khu vực địa lý: Nhật, Mỹ - Canada và EU. Trong thị trường tam giác này, các
công ty trở nên quan trọng hơn quốc gia vì quyền lực của họ đã vượt quá biên giới
quốc gia, quốc tịch của công ty bắt đầu mờ đi. Cụ thể như hoạt động của Toyota hiện
nay, mặc dù phần lớn cổ đông của Toyota là người Nhật và thị trường quan trọng
nhất của Toyota là Mỹ nhưng điều muốn nói ở đây là phần lớn xe Toyota được bán
tại Mỹ là xe được sản xuất tại nhà máy của Mỹ thuộc sở hữu của Toyota. Như vậy
quốc tịch của Toyota đã bị mờ đi, nhưng đối với thị trường Mỹ thì lại rõ ràng -
Toyota là nhà sản xuất một số loại xe ô tô và xe tải chất lượng cao.
Hay liên minh Châu Âu là một thị trường nội địa mở rộng, đặc biệt với sự ra
đời của đồng tiền chung Châu Âu, buộc các nhà sản xuất kinh doanh phải áp dụng
14
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại

các phương pháp mang tính quốc tế đối với sản xuất, lưu thông và phân phối. Trong
một thị trường thống nhất như EU thì mỗi quốc gia không cần thiết phải sản xuất một
sản phẩm cụ thể hoặc dự trữ sản phẩm đó, miễn có một hệ thống vận tải hiệu quả có
thể giao hàng nhanh chóng từ một quốc gia khác.
2.2.2 Logistics có vai trò quan trọng trong việc tối ưu hoá chu trình lưu
chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào nguyên vật liệu, phụ kiện…tới sản
phẩm cuối cùng đến tay khách hàng sử dụng.
Kể từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, liên tiếp các cuộc khủng hoảng năng lượng
buộc các doanh nghiệp phải quan tâm tới chi phí, đặc biệt là chi phí vận chuyển. Các
giai đoạn lãi suất ngân hàng cao hơn cũng khiến các doanh nghiệp nhận thức sâu sắc
hơn về vốn, vì vốn bị đọng lại do việc duy trì hàng tồn kho. Vì vậy muốn tối ưu hoá
quá trình sản xuất phải cắt giảm tất cả những chi phí không chỉ trong hoạt động sản
xuất mà cả trong những lĩnh vực khác như vận tải, lưu kho phân phối hàng hoá. Làm
thế nào để cắt giảm được những chi phí này trong chu trình lưu chuyển của sản xuất
kinh doanh. Tất cả những hoạt động này chỉ có thể kiểm soát bằng hệ thống Logistics
tiên tiến có sử dụng công nghệ thông tin hiện đại.
2.2.3 Logistics đóng vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mục đích sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Muốn đạt được lợi nhuận như
mong muốn phải đưa ra được phương án sản xuất kinh doanh tối ưu. Nhưng trong
quá trình thực hiện, người sản xuất kinh doanh còn phải đối mặt với nhiều yếu tố
khách quan cũng như chủ quan, để giải quyết được phải có cơ sở để đưa ra những
quyết định chính xác. Nguồn nguyên liệu cung ứng ở đâu, thời gian nào, phương tiện
vận tải nào sẽ được lựa chọn để vận chuyển, địa điểm kho chứa nguyên liệu, hàng
hoá... tất cả những vấn đề này muốn giải quyết có hiệu quả không thể thiếu được vai
trò của Logistics. Logistics cho phép người quản lý kiểm soát và ra quyết định chính
xác những vấn đề như vật liệu cung ứng, lưu trữ trong kho, thời gian địa điểm cung
ứng, phương thức vận chuyển... để giảm tối đa chi phí phát sinh đảm bảo hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh.
15

15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
2.2.4 Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi và hoàn thiện dịch
vụ vận tải giao nhận, đảm bảo yếu tố đúng thời gian - địa điểm (Just in time - JIT).
Quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã làm cho hàng hoá và sự vận động của chúng
phong phú và phức tạp hơn, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ, đặt ra yêu cầu mới đối với
dịch vụ vận tải giao nhận. Đồng thời để tránh đọng vốn, các doanh nghiệp tìm cách
duy trì một lượng hàng trong kho nhỏ nhất. Kết quả là hoạt động vận tải giao nhận
nói riêng và lưu thông phân phối nói chung, một mặt phải đảm bảo yêu cầu giao hàng
kịp thời đúng lúc (JIT), mặt khác phải tăng cường vận chuyển thực hiện mục tiêu
không để hàng tồn kho. Để đáp ứng yêu cầu này, giao nhận vận tải phải nhanh, thông
tin kịp thời chính xác và có sự ăn khớp giữa các quá trình trong vận chuyển giao
nhận. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của tin học, cho phép kết hợp chặt chẽ các
quá trình cung ứng, sản xuất, lưu kho hàng hoá, tiêu thụ với hoạt động vận tải giao
nhận có hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn và đồng thời phức tạp hơn. Nó cho phép
người giao nhận vận tải nâng cao chất lượng dịch vụ đối với khách hàng. Phát triển
các dịch vụ truyền thống càng cao bao nhiêu, người vận tải giao nhận càng có khả
năng đáp ứng yêu cầu thị trường và mở rộng thị trường bấy nhiêu.
2.2.5 Logistics cho phép các nhà kinh doanh vận tải giao nhận cung cấp các
dịch vụ đa dạng, phong phú hơn ngoài dịch vụ giao nhận vận tải đơn thuần.
Logistics là sự phối hợp, gắn kết các hoạt động, các khâu trong dòng lưu
chuyển của hàng hoá qua các giai đoạn - cung ứng - sản xuất - lưu thông phân phối.
Vì vậy lúc này người kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận không chỉ đơn thuần là
người giao nhận vận chuyển nữa, mà thực tế họ đã tham gia cùng với người sản xuất
đảm nhận thêm các khâu liên quan đến quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá như:
lắp ráp, đóng gói, gom hàng, xếp hàng, cung cấp kho hàng, lưu trữ hàng, xử lý thông
tin... Thậm chí cả những hoạt động khác trong quá trình sản xuất như cung cấp thông
tin hay tạo ra những sản phẩm phù hợp cho các thị trường cụ thể hay các quốc gia...
Hoạt động vận tải giao nhận thuần tuý đã dần chuyển sang hoạt động quản lí
toàn bộ dây chuyền phân phối vật chất và trở thành một bộ phận khăng khít của chuỗi

mắt xích "cung - cầu". Xu hướng đó không những đòi hỏi phải phối hợp liên hoàn
16
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
các phương thức vận tải (dịch vụ vận tải đa phương thức) mà còn phải kiểm soát
được các lượng thông tin, luồng hàng hoá... Chỉ khi tối ưu được quá trình này mới
giải quyết được vấn đề đặt ra là: vừa làm tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp sản
xuất, vừa làm tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao
nhận, đảm bảo được lợi ích chung.
2.3 Tác dụng của dịch vụ Logistics
Tác dụng của Logistics được thể hiện trên các mặt sau đây:
2.3.1 Dịch vụ logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí
trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Cho đến nay theo thống kê của một số tổ chức nghiên cứu về Logistics như
viện nghiên cứu Logistics của Mỹ cho biết chi phí cho hoạt động Logistics chiếm tới
khoảng 10 - 13% GDP ở các nước phát triển, con số này ở các nước đang phát triển
thì cao hơn khoảng 15 - 20% (Trung Quốc là 16%, Ấn Độ là 15%). Điều này cho
thấy chi phí cho Logistics là rất lớn. Vì vậy với việc hình thành và phát triển dịch vụ
Logistics sẽ giúp các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân giảm được
chi phí trong chuỗi Logistics, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh tinh giảm hơn và
đạt hiệu quả hơn. Giảm chi phí trong sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh tinh
giảm, hiệu quả sản xuất kinh doanh đựoc nâng cao, góp phần tăng sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường. Thực tế những năm qua tại các nước Châu Âu, chi phí
Logistics đã giảm xuống rất nhiều và còn có xu hướng giảm nữa trong các năm tới.
2.3.2 Dịch vụ Logistics có tác dụng tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động
lưu thông phân phối.
Giá cả hàng hoá trên thị trường chính bằng giá cả ở nơi sản xuất cộng với phí
lưu thông. Chi phí lưu thông hàng hoá, chủ yếu là chi phí vận tải chiếm một tỷ lệ
không nhỏ và là bộ phận cấu thành giá cả hàng hoá trên thị trường, đặc biệt là hàng
hoá trong buôn bán quốc tế. Vận tải là yếu tố quan trọng của lưu thông. C.Mac nói

"Lưu thông có ý nghĩa là hành trình thực tế của hàng hoá trong không gian được giải
quyết bằng vận tải". Vận tải có nhiệm vụ đưa hàng hoá đến nơi tiêu dùng và tạo khả
năng để thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. Trong buôn bán quốc tế, chi
17
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
phí vận tải chiếm tỷ trọng khá lớn, theo số liệu thống kê của UNCTAD thì chi phí
vận tải đường biển chiếm trung bình là 10 -15% giá FOB, hay 8 - 9% giá CIF. Mà
vận tải lại là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống Logistics cho nên dịch vụ
Logistics ngày càng hoàn thiện và hiện đại, sẽ tiết kiệm cho chi phí vận tải và các chi
phí khác phát sinh trong quá trình lưu thông dẫn đến tiết kiệm và giảm chi phí lưu
thông.
2.3.3 Dịch vụ Logistics góp phần gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh
nghiệp vận tải giao nhận.
Dịch vụ Logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và phức tạp hơn
nhiều so với hoạt động vận tải giao nhận thuần tuý. Trước kia người kinh doanh dịch
vụ vận tải giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản, thuần tuý
và đơn lẻ. Ngày nay do phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của một sản
phẩm có thể do nhiều quốc gia cung ứng và ngược lại một loại sản phẩm của doanh
nghiệp có thể tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác nhau. Vì vậy dịch vụ
mà khách hàng yêu cầu từ người kinh doanh vận tải giao nhận phải đa dạng và phong
phú. Người vận tải giao nhận ngày nay đã triển khai cung cấp các dịch vụ nhằm đáp
ứng yêu cầu thực tế của khách hàng. Họ trở thành người cung cấp dịch vụ Logistics
(Logistics Service Providers). Rõ ràng dịch vụ Logistics đã góp phần làm tăng giá trị
kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận.
Theo kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy, thông qua việc sử dụng
Logistics trọn gói, các doanh nghiệp sản xuất có thể rút ngắn thời gian từ lúc nhận
đơn hàng đến lúc giao sản phẩm cho khách hàng từ 5 - 6 tháng xuống còn 2 tháng.
Kinh doanh dịch vụ này có tỷ suất lợi nhuận cao gấp 3 - 4 lần sản xuất và gấp từ 1,2 -
2 lần các dịch vụ ngoại thương khác.

2.3.4 Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế.
Sản xuất mục đích là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh
vấn đề thị trường là vấn đề quan trọng luôn được các nhà sản xuất kinh doanh quan
tâm. Thị trường cung ứng và tiêu thụ sản phẩm càng rộng càng tạo điều kiện cho sản
xuất kinh doanh phát triển. Sản xuất kinh doanh phát triển thì càng đạt được hiệu quả
18
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
cao. Trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc đã làm cho
khoảng cách về mặt không gian giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngày càng trải
rộng. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị trường cho sản
phẩm của mình phải có sự hỗ trợ của dịch vụ Logistics. Dịch vụ Logistics có tác
dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hoá trên các tuyến đường mới
đến các thị trường mới đúng theo yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Dịch vụ
Logistics phát triển có tác dụng rất lớn trong việc khai thác và mở rộng thị trường
kinh doanh cho các doanh nghiệp.
2.3.5 Dịch vụ Logistics phát triển góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu
chuẩn hoá chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và vận tải quốc tế.
Thực tiễn, một giao dịch trong buôn bán quốc tế thường phải tiêu tốn các loại
giấy tờ, chứng từ. Theo ước tính của liên hợp quốc cho thấy chi phí về giấy tờ để
phục vụ mọi mặt giao dịch thương mại trên thế giới hàng năm đã vượt quá 420 tỷ
USD. Và theo các chuyên gia buôn bán quốc tế thì riêng các giấy tờ, chứng từ rườm
rà hàng năm khoản chi phí tiêu tốn cho nó cũng chiếm tới hơn 10 % kim ngạch mậu
dịch quốc tế, ảnh hưởng rất lớn đến các họat động buôn bán quốc tế.
Việc cung cấp các dịch vụ Logistics đa dạng trọn gói đã có tác dụng giảm rất
nhiều các chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế. Người vận tải giao
nhận ngày nay trở thành người cung cấp các dịch vụ Logistics như gom hàng, tổ chức
giao nhận chuyên chở hàng. Tổ chức thực hiện việc giao nhận vận chuyển hàng từ
kho người bán đến tận kho người mua (Door to Door) , trên các phương thức vận tải
khác nhau mà chỉ cần một hợp đồng vận tải thể hiện trên một chứng từ với một chế

độ trách nhiệm thống nhất. Dịch vụ vận tải đa phương thức do người kinh doanh dịch
vụ Logistics cung cấp đã loại bỏ đi rất nhiều chi phí cho giấy tờ thủ tục, đồng thời
nâng cấp và chuyển hoá chứng từ cũng như giảm khối lượng công việc văn phòng
trong lưu thông hàng hoá, từ đó nâng cao hiệu quả buôn bán quốc tế.
Ngoài ra cùng với việc phát triển Logistics điện tử (Electronic Logistics) sẽ
tạo ra cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và Logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng
từ trong lưu thông hàng hoá càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ
19
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
Logistics ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian và
thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hoá. Các quốc gia sẽ xích lại
gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông.
3. Các loại dịch vụ logistics
Trong WTO phân loại các yếu tố cơ bản của dịch vụ logistics gồm:
• Dịch vụ logistics chủ yếu (core logistics service): Dịch vụ thiết yếu trong
hoạt động logistics và cần phải tiến hành tự do hóa để thúc đẩy sự lưu
chuyển dịch vụ bao gồm: dịch vụ làm hàng, dịch vụ lưu kho, dịch vụ đại lý
vận tải và các dịch vụ hỗ trợ khác.
• Dịch vụ có liên quan tới vận tải: Các dịch vụ có liên quan tới cung cấp có
hiệu quả dịch vụ logistics tích hợp cũng như cung cấp môi trường thuận lợi
cho hoạt động của Logistics bên thứ 3 phát triển gồm có vận tải hàng hóa
(đường biển, đường thủy nội địa, hàng không, đường sắt, đường bộ và cho
thuê phương tiện không có người vận hành) và các dịch vụ khác có liên
quan tới dịch vụ logistics gồm dịch vụ phân tích và thử nghiệm kỹ thuật,
dịch vụ chuyển phát, dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn và bán lẻ.
• Dịch vụ thứ yếu hoặc mang tính bổ trợ (non core logistics service): Gồm
dịch vụ máy tính và liên quan tới máy tính, dịch vụ đóng gói và dịch vụ tư
vấn quản lý.
Trong khuôn khổ hợp tác kinh tế ASEAN, các nước thành viên đã nhất trí xây

dựng Lộ trình Hội nhập nhanh ngành dịch vụ logistics trong ASEAN để ký kết tại
Hội nghị Không chính thức các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM Retreat) vào tháng
5/2007. Việt Nam được cử làm nước điều phối chung về xây dựng Lộ trình này.
Tháng 8/2006 và tháng 1/2007, Việt Nam đã tổ chức hai Hội nghị Tham vấn ASEAN
về logistics tại Hà Nội với sự tham gia rộng rãi của đại diện các nước ASEAN, giới
doanh nghiệp và các học giả liên quan trong khu vực. Trong ASEAN, bản dự thảo Lộ
trình Hội nhập nhanh ngành logistics đã được thảo luận tại các diễn đàn khác nhau
như Hội nghị các Quan chức kinh tế cao cấp (STOM), Hội nghị các Quan chức Cao
cấp về viễn thông (TELSOM) và các Ủy ban chức năng của ASEAN như Ủy ban
20
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
điều phối về Hải quan (CCC), Ủy ban điều phối về dịch vụ (CCS). Hiện nay, Việt
Nam phối hợp với Ban Thư ký ASEAN đã tổng hợp lấy ý kiến của các nước, các
nhóm công tác để hoàn chỉnh dự thảo lần 3 (dự thảo cuối cùng) của Lộ trình Hội
nhập nhanh ngành dịch vụ logistics.
Theo nội dung của dự thảo lần 3 của Lộ trình Hội nhập nhanh ngành dịch vụ
logistics trong ASEAN, thời hạn cuối cùng để tự do hóa các phân ngành thuộc dịch
vụ logistics là năm 2013,nhưng phương pháp tiếp cận để xử lý vấn đề tự do hóa sẽ
được thảo luận và thống nhất trong khuôn khổ Ủy ban điều phối về dịch vụ ASEAN
(CCS). Xét về phạm vi, dịch vụ logistics trong ASEAN được coi là gồm 11 phân
ngành sau:
1. Dịch vụ xếp dỡ hàng hóa trong vận tải biển (có mã phân loại trong Bảng
phân loại các hàng hóa và dịch vụ chủ yếu của Liên Hợp Quốc là 741-CPC
741)
2. Dịch vụ kho bãi (CPC 742)
3. Dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa (CPC 748)
4. Các dịch vụ bổ trợ khác (CPC 749)
5. Dịch vụ chuyển phát (CPC 7512**)
6. Dịch vụ đóng gói (CPC 876)

7. Dịch vụ thông quan (không có trong phân loại của CPC)
8. Dịch vụ vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường biển, loại trừ vận tải ven bờ
9. Dịch vụ vận tải hàng không (được đàm phán trong khuôn khổ Hội nghị các
Quan chức Cao cấp về vận tải trong ASEAN)
10.Dịch vụ vận tải đường sắt quốc tế (CPC 7112)
11.Dịch vụ vận tải đường bộ quốc tế (CPC 7213)
Như vậy, theo các khái niệm của các tổ chức, diễn đàn khác nhau có khá nhiều
các yếu tố cấu thành nên dịch vụ logisitcs. Căn cứ trên các yếu tố chung nhất, ta có
thể nêu bức tranh tổng thể về cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh dịch vụ
logistics như sau:
3.1. Dịch vụ vận tải:
21
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
3.1.1. Dịch vụ vận tải biển: Việt Nam có cam kết trong 2 phân ngành vận tải
hành khách và vận tải hàng hóa (trừ vận tải nội địa)
- Phương thức 1: Ta chưa cam kết, chỉ không hạn chế với hàng hóa vận tải
quốc tế
- Phương thức 2: Không hạn chế.
- Phương thức 3: Đến năm 2009, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được
thành lập liên doanh vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam với vốn góp không
quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Thuyền viên nước ngoài được làm
việc trên các tàu treo cờ Việt Nam hoặc đăng ký ở Việt Nam thuộc sở hữu
của các doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam nhưng tổng số không vượt
quá 1/3 định biên của tàu. Thuyền trưởng hoặc thuyền phó thứ nhất phải là
công dân Việt Nam. Đối với các loại hình công ty khác, ngay sau khi gia
nhập, mức vốn góp cam kết là 51%, 2012 là 100%. Số lượng liên doanh
được thành lập vào thời điểm gia nhập không vượt quá 5. Sau đó, cứ hai
năm một sẽ cho phép thêm 3 liên doanh. Sau 5 năm kể từ khi gia nhập (đến
năm 2012), không hạn chế số lượng liên doanh.

22
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
- Phương thức 4: Chưa cam kết.
3.1.2. Vận tải đường thủy nội địa gồm hai phân ngành là vận tải hành khách
và vận tải hàng hóa nội địa
- Phương thức 1: Chưa cam kết
- Phương thức 2: Không hạn chế
- Phương thức 3: Chỉ cho phép thành lập liên doanh với vốn góp không
vượt quá 49% vốn pháp định
- Phương thức 4: Chưa cam kết
3.1.3. Vận tải hàng không gồm 3 phân ngành bán và tiếp thị sản phẩm hàng
không, đặt, giữ chỗ bằng máy tính, bảo dưỡng và sửa chữa máy bay.
- Dịch vụ bán và tiếp thị sản phẩm hàng không: Phương thức 1 và 2: Không
hạn chế. Trong Phương thức 3, các hãng hàng không nước ngoài được
phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua văn phòng bán vé của mình
hoặc các đại lý tại Việt Nam. Phương thức 4: Chưa cam kết
- Dịch vụ đặt, giữ chỗ bằng máy tính: Phương thức 1, 2, 3 không hạn chế,
ngoại trừ nhà cung cấp nước ngoài phải sử dụng mạng viễn thông công
cộng dưới sự quản lý của nhà chức trách viễn thông Việt Nam. Phương
thức 4: Chưa cam kết
- Dịch vụ bảo dưỡng và sửa chữa máy bay: Phương thức 1 và 2: Không hạn
chế. Phương thức 3: Cho phép thành lập liên doanh với vốn góp nước
ngoài là 51% kể từ ngày gia nhập. Đến năm 2012 sẽ cho phép thành lập
liên doanh 100% vốn nước ngoài.
3.1.4.Vận tải đường sắt: Phương thức 1 và 4: Chưa cam kết, phương thức 2:
Không hạn chế, phương thức 3 cho phép lập liên doanh với vốn góp nước ngoài
không quá 49%.
3.1.5Vận tải đường bộ: Phương thức 1 và 4 chưa cam kết. Phương thức 2
không hạn chế. Phương thức 3 cho phép hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc

liên doanh trong đó tỷ lệ vốn góp nước ngoài không quá 49%. Sau 3 năm kể từ khi
gia nhập, tùy theo nhu cầu thị trường được phép thành lập liên doanh với tỷ lệ vốn
23
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
góp nước ngoài không vượt quá 51%. 100% lái xe của liên doanh phải là công dân
Việt Nam.
3.2. Dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải:
3.2.1. Dịch vụ xếp dỡ công-ten-nơ: Phương thức 1 và 4: Chưa cam kết.
Phương thức 2: Không hạn chế. Phương thức 3: Cho phép thành lập liên doanh với
vốn góp nước ngoài không vượt quá 50%.
3.2.2. Dịch vụ thông quan đối với hàng hóa vận chuyển bằng đường biển:
Phương thức 1 và 4: Chưa cam kết. Phương thức 2: Không hạn chế. Phương thức 3:
Cho phép thành lập liên doanh với vốn góp nước ngoài không vượt quá 51% kể từ
khi gia nhập, đến năm 2012 cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
3.2.3. Dịch vụ kho bãi công-ten-nơ đối với hàng hóa vận tải bằng đường biển:
Phương thức 1 và 4: Chưa cam kết. Phương thức 2: Không hạn chế. Phương thức 3:
Cho phép thành lập liên doanh với vốn góp nước ngoài không vượt quá 51% kể từ
ngày gia nhập, đến năm 2014 cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài.
3.2.4. Dịch vụ xếp dỡ công-ten-nơ, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay:
Phương thức 1 và 4 chưa cam kết. Phương thức 2 không hạn chế. Phương thức 3:
Cho phép thành lập liên doanh với đối tác nước ngoài không quá 50%.
3.2.5.Dịch vụ đại lý kho bãi và đại lý vận tải hàng hóa: Phương thức 1 và 4:
Chưa cam kết. Phương thức 3: Kể từ ngày gia nhập cho phép thành lập liên doanh
trong đó tỷ lệ vốn nước ngoài không vượt quá 51%. Đến năm 2014 là không hạn chế.
3.3.Dịch vụ chuyển phát:
Phương thức 1, 2: Không hạn chế. Phương thức 3: Trong vòng 5 năm kể từ
ngày gia nhập, cho phép thành lập liên doanh với vốn góp nước ngoài tối đa lên tới
51%. Tới năm 2012, cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.

Phương thức 4: Không cam kết.
24
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Thương mại
3.4.Dịch vụ phân phối:
Về cơ bản, Việt Nam giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới
gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn
nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị
trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo,
đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi
măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường phân phối sau 3 năm kể từ ngày gia nhập.
Doanh nghiệp có có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được
Việt Nam cho phép theo từng trường hợp cụ thể.
Xét về phương thức cung cấp dịch vụ theo quy định của WTO, trong cam kết
gia nhập Việt Nam không cam kết Phương thức 1 (đồng nghĩa với việc kiểm soát bán
lẻ theo đơn đặt hàng qua mạng), trừ phân phối các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân
và các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp và 4 (không cam kết về việc công
dân các nước thành viên WTO vào Việt Nam để phân phối hàng hóa với tư cách cá
nhân độc lập), và không hạn chế Phương thức 2 (người Việt Nam sang các quốc gia
thành viên WTO để sử dụng dịch vụ phân phối do các nhà phân phối của các nước đó
cung cấp).
Trong Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam
sẽ giành quyền kinh doanh đầy đủ cho các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài
(trong đó bao gồm quyền phân phối sản phẩm cho các cá nhân và doanh nghiệp được
phép phân phối sản phẩm đó ở Việt Nam) kể từ ngày 1/1/2007, ngoại trừ một số sản
phẩm chịu sự điều chỉnh của cơ chế thương mại nhà nước (thuốc lá, xăng dầu, báo,
tạp chí chuyên ngành, băng đĩa hình, tàu vũ trụ, máy bay trực thăng), gạo (cho phép
xuất khẩu kể từ ngày 1/1/2011), dược phẩm, phim điện
3.5.Dịch vụ máy tính và liên quan tới máy tính:
Việt Nam cam kết Không hạn chế trong Phương thức 1 và 2. Trong Phương

thức 3, trong giai đoạn 2007-2009, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài chỉ
được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đến năm 2010 doanh nghiệp nước ngoài được phép thành lập chi nhánh để cung cấp
25
25

×