Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN : QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.17 KB, 58 trang )

HỌC VIỆN CÁN BỘ TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN MÁC LÊNIN
---------------------LỚP : TC 70
TÊN : Vũ Nguyễn Trâm Anh

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
MÔN : QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI

Câu 1 : Phân tích mục tiêu chung của của chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Chủ đề :
Trọng tâm :
Dàn ý :
1. Khái niệm chiến lược bảo vệ Tổ quốc :
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) xác định
mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi,
nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
2. Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ
quốc:
Để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc Đảng ta căn cứ vào
:
2.1. Học thuyết Marx – Lenine và tư tưởng Hồ Chí Minh để
bảo vệ Tổ quốc XHCN vì đây là nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Lenine nói : “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó
biết tự vệ”
Bác Hồ nói : Giữ nhà mà khơng giữ cửa có được khơng? Kẻ
gian tế vào chỗ nào trước? “Nó vào ở cửa trước". Do vậy Người
khẳng định chúng ta cần phải “canh cửa cho Tổ quốc"
2.2 Đường lối, quan điểm của Đảng ta về xây dựng đất nước
và tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
hiện nay.


Đường lối được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước, những định hướng cơ bản là cơ sở để đưa vào trong chiến
lược bảo vệ Tổ quốc, trong Văn kiện của Đảng.
2.3 Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc và tình
hình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đất nước ta luôn bị xâm lăng, cha ông ta đã rút ra nhiều bài
1


học kinh nghiệm.
2.4 Về đối tượng cuả cách mạng Việt Nam :
- Nguyên tắc xác định đối tượng, đối tác.
+ Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập
và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với
Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam.
+ Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá
nhân dân của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN đều là đối tượng đấu tranh.
- Một chủ thể có thể vừa là đối tác, vừa là đối tượng. Hai mặt
đối tác và đối tượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
2.5 Dự báo tình hình trong những năm tới có liên quan trực
tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Dự báo tình hình thế giới và khu vực :
+ Trên thế giới, hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều yếu tố
bất trắc khó lường.
Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên,
chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động
can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố.. có thể gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực hình thành ngày càng rõ hơn. Các

nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau,
chi phối các quan hệ quốc tế. Các nước tiếp tục điều chỉnh chiến
lược, tập hợp lực lượng mới trong khu vực và trên thế giới.
+ Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó các khu vực
Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng động và vẫn tồn tại nhiều
nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng
gay gắt.
- Dự báo tình hình trong nước : Tình hình trong nước ở
những năm tới, ổn định chính trị tiếp tục giữ vững, kinh tế - xã hội
phát triển, tiềm lực của đất nước được tăng lên,.. nhưng đất nước ta
sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới.
- Dự báo về các tình huống phức tạp có thể xảy ra :
+ Bạo động về chính trị trong nước : ảnh hưởng của kinh tế,
xã hội, văn hóa bị bọn xấu lợi dụng  biểu tình, gây rối,..  bạo
động về chính trị do hệ thống luật chưa nghiêm.
+ Bạo loạn xảy ra ở một số vùng.
+ Xung đột vũ trang và chiến tranh.
3. Mục tiêu chung : có 6 mục tiêu chung.
1. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
2


lãnh thổ của Tổ quốc.
2. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.
3. Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa.
4. Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
5. Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an ninh xã hội và nền văn
hóa Việt Nam.
6. Giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình để phát
triển đất nước theo định hướng XHCN.

Mục tiêu 1 : Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Vào mùa thu năm 1945, nhân dân Việt Nam, dưới ngọn cờ
của Đảng, đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại trong lịch
sử nước nhà: đập tan xiềng xích của chế độ thực dân, phong kiến;
giành lại nền độc lập dân tộc; khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Nhà nước của nhân dân và vì nhân dân; nhân dân ta từ
thân phận nơ lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh của mình. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh
trọng tuyên bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam độc lập,
tự do và khẳng định toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ nền tự do, độc lập
ấy. 70 năm qua, nhân dân ta đã vượt qua biết bao khó khăn, thử
thách để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân,
như lời Bác Hồ dạy: nước được độc lập mà dân không được hưởng
tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng khơng có ý nghĩa gì. Đồng thời,
nhân dân ta cũng đã phải hy sinh biết bao xương máu, đánh bại mọi
kẻ thù xâm lược để bảo vệ nền độc lập tự do, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ngày nay, trong một thế giới đang diễn ra mạnh mẽ q trình
tồn cầu hóa, đan xen nhiều mối quan hệ phức tạp, vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh, đấu tranh gay gắt giữa các nước, giữa các nền chính trị,
kinh tế và văn hóa khác nhau, sự hưng thịnh hay tồn vong của mỗi
quốc gia, dân tộc khơng cịn chỉ là chuyện riêng của từng quốc gia
hay dân tộc. Điều đó đã tạo ra cả thời cơ và thách thức với mọi quốc
gia, nhất là với các nước nhỏ trong việc bảo vệ lợi ích, bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong
bối cảnh đó, đặc biệt là trước diễn biến phức tạp của tình hình khu
vực và trên thế giới trong những năm gần đây, hơn bao giờ hết, đòi
hỏi đất nước ta phải phát triển nhanh, bền vững, nâng cao sức mạnh

tổng hợp, nội lực của đất nước về mọi mặt; đồng thời phải luôn nêu
cao cảnh giác, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
3


thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bất cứ hoàn cảnh
nào.
Đây là nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả của chúng ta hôm nay
trước tổ tiên và các thế hệ cha anh đi trước, như lời Bác Hồ dạy:
“Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước” và trước các thế hệ con cháu muôn đời sau.
Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
đất nước địi hỏi phải có tầm nhìn xa, bản lĩnh vững vàng, kiên định
về nguyên tắc nhưng tỉnh táo, linh hoạt, khôn khéo trong sách lược,
“dĩ bất biến ứng vạn biến”. Những bài học giữ nước của cha ông ta
để lại là hết sức quý giá với chúng ta ngày nay. Những cảnh báo của
nhà bác học Lê Quý Đôn về những nguy cơ làm mất nước: “Một, trẻ
khơng kính già; hai, trị khơng trọng thầy; ba, binh kiêu tướng thối;
bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sỹ phu ngoảnh mặt” là điều chúng ta
cần phải suy ngẫm; hay những lời nói của Quốc công Tiết chế Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn: phải biết chủ động “rút củi đáy nồi”,
“phải kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” trong xử lý quan hệ với
kẻ thù; “vua tơi đồng lịng, anh em hịa mục, cả nước góp sức, giặc
phải bị bắt”, xây dựng “quân đội một lịng như cha con thì mới dùng
được”, “phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng
sách giữ nước”... vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta hôm nay.
Ngày nay, kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, bất
khuất, kiên cường của dân tộc, những bài học giữ nước của cha ông,
bằng sự nỗ lực phấn đấu không ngừng phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao sức mạnh tổng hợp

và uy tín quốc tế của đất nước, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm
mục tiêu cao nhất, nhân dân ta nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất
nước, bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc do cha ơng để lại để trao
truyền cho muôn đời con cháu mai sau.
Thời nào cũng thế, nhân dân ta không dung thứ bất cứ ai, bất
cứ hành động nào làm xâm hại lợi ích của đất nước, của dân tộc. Đó
chính là đạo lý thiêng liêng nhất và là pháp lý công minh nhất! Ai vi
phạm hoặc làm vấy bẩn điều vơ giá đó, người ấy khơng xứng đáng
là người con đất Việt. Điều nhân dân ta cần và tơn vinh là những
người u nước chân chính, sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng của mình
vì lợi ích chung của đất nước, thể hiện lòng yêu nước bằng những
việc làm thiết thực, cụ thể có lợi cho dân, cho nước như lời Bác Hồ
dạy: Cái gì có lợi cho dân, cho nước thì cố hết sức làm, cái gì có hại
4


cho dân, cho nước thì cố hết sức tránh. Vì vậy, để góp phần giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
mỗi người chúng ta, dù làm gì, ở bất kỳ vị trí làm việc, cơng tác
nào, cũng phải làm hết sức mình để hồn thành tốt nhất nhiệm vụ,
chức trách của mình, tích cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các thói
hư, tật xấu, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm.
Chúng ta khơng thể chấp nhận những người miệng nói u nước
nhưng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” mà tham nhũng, lãng phí,
làm tổn hại đến lợi ích của đất nước, làm nghèo, suy yếu đất nước.
Đây là “giặc nội xâm”, là những “khối u” trên cơ thể đất nước cần
phải cắt bỏ.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ của Tổ quốc là nhiệm vụ thường xuyên, hằng ngày, hằng
giờ không được phép sao nhãng, lơ là, nhưng cũng là cuộc đấu tranh
lâu dài, kiên trì, bền bỉ với những khó khăn, thử thách to lớn. Đây là
sự nghiệp của toàn dân, của mọi người Việt Nam, nhưng Đảng và
Nhà nước ta, những người lãnh đạo và quản lý đất nước, có vai trò
và trách nhiệm to lớn.
Phát huy tinh thần và truyền thống vẻ vang của cuộc Cách
mạng Tháng Tám vĩ đại, tiếp tục học tập và thực hiện Di chúc
thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tồn Đảng, tồn dân, tồn
qn ta đồn kết một lịng thành một khối vững chắc, nỗ lực phấn
đấu, nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn thử thách, xây dựng nước
ta “đàng hồng hơn, to đẹp hơn”, sánh vai với các cường quốc năm
châu và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, để dân tộc ta, đất nước ta phồn vinh, mãi mãi
trường tồn. Đó cũng là thước đo lịng u nước của mỗi chúng ta lúc
này
Mục tiêu 2 : Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN.
Quan điểm Đại hội XI của Đảng về bảo vệ Tổ quốc là hệ
thống những quan điểm hoàn chỉnh, toàn diện và phát triển về
những vấn đề cơ bản của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta xác định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đã xác định rõ mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nâng cao
5



cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả của cách mạng”(2).
Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tiếp
tục khẳng định quan điểm: bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ với
bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng… Kế thừa và phát triển quan điểm bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội XI xác định: bảo vệ Tổ quốc hiện
nay không chỉ là bảo vệ các yếu tố về mặt tự nhiên - lịch sử mà cịn
bảo vệ các yếu tố chính trị xã hội, là bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta được tiến hành trong bối cảnh đất nước ta
đã trải qua gần 30 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập,
tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao v.v.. đã tạo ra thế và lực
mới cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cùng với những thuận lợi, thời cơ đó, sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đứng trước tác động từ những
khó khăn, thách thức như: hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang
trong tình trạng khủng khoảng; nguy cơ chệch định hướng xã hội
chủ nghĩa; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; sự tác
động của mặt trái nền kinh tế thị trường; đặc biệt là sự suy giảm
lòng tin của một bộ phận nhân dân với Đảng, với chế độ. Điều đó
đặt ra u cầu, nhiệm vụ khơng chỉ đối với bảo vệ toàn vẹn chủ
quyền lãnh thổ của đất nước mà còn đối với yêu cầu, nhiệm vụ bảo
vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp BVTQ. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày

càng sâu, rộng và các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để
chống phá thì việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước càng cần phải được coi trọng. Đó cũng là nhân tố bên
trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ
XHCN ở nước ta. Nghiên cứu lịch sử và một số cuộc chiến tranh
khu vực gần đây cho thấy, nguyên nhân cơ bản dẫn tới mất ổn định
của một quốc gia đều xuất phát từ vấn đề nội bộ. Nếu tình hình nội
bộ ổn định, đất nước phát triển, đời sống nhân dân được đảm bảo và
cải thiện thì lịng tin vào chế độ được giữ vững và do đó các thế lực
bên ngồi khơng có cớ và thời cơ để can thiệp.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
6


Nhà nước và xã hội nói chung, sự nghiệp BVTQ nói riêng thì Đảng
phải mạnh. Những năm qua, bên cạnh những mặt mạnh, cơng tác
xây dựng Đảng cịn nhiều hạn chế, mà Hội nghị Trung ương 4 (khóa
XI) đã chỉ ra là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong
đó có cả đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Các hiện
tượng tham nhũng, lợi ích nhóm, mất đồn kết nội bộ,… tuy đã
được khắc phục một bước, nhưng vẫn còn diễn ra, làm cho lòng tin
của một bộ phận nhân dân vào Đảng, Nhà nước bị giảm sút. Do đó,
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), khi xác định mục tiêu BVTQ,
ngồi mục tiêu chung, cịn nhấn mạnh các mục tiêu cụ thể trong
những năm trước mắt; trong đó, mục tiêu đầu tiên là “Tạo được
chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo
đó, Nghị quyết đề ra giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây

dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) về cơng tác xây dựng Đảng, tăng
cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhất là ở cấp chiến lược,
củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước; đổi mới mạnh
mẽ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền các cấp đối với
nhiệm vụ BVTQ; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các
cấp ủy, chính quyền, tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ.
Mục tiêu 3 : Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa –
hiện đại hóa.
Trong cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế hiện nay, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước
được biểu hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ
gắn bó hữu cơ với nhau là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ biện
chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta nhìn nhận
tồn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến
lược là phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết tồn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa quốc phòng với
an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác, bảo đảm kinh tế - xã
hội phát triển ổn định, bền vững; quốc phòng, an ninh được tăng
cường. Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế 7


xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển
kinh tế - xã hội đi đơi với tăng cường sức mạnh quốc phịng, an
ninh; bảo đảm quốc phòng, an ninh trở thành một trong những mục
tiêu trọng yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; kinh tế phát

triển, các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, đời sống nhân dân
không ngừng được nâng cao, thực hiện tốt công bằng xã hội, quốc
phòng, an ninh được bảo đảm, đối ngoại được mở rộng sẽ tạo ra sức
mạnh vật chất và tinh thần to lớn, mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc.
Phương thức kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc cũng được đổi mới và hoàn thiện theo hướng chủ động gắn
kết xây dựng với tự bảo vệ; kết hợp theo quy hoạch, kế hoạch của
từng địa phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của
Trung ương; kết hợp theo khu vực, vùng lãnh thổ, ngành, lĩnh vực
kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn quốc; kết hợp chặt chẽ phát triển
kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong các dự án đầu tư, quy
hoạch phát triển các vùng, các ngành kinh tế, nhất là các vùng kinh
tế trọng điểm, các địa bàn chiến lược, các ngành kinh tế quan trọng.
Lịch sử đã chứng minh, quy luật phát triển của đất nước ta là
dựng nước luôn luôn đi đôi với giữ nước, xây dựng luôn luôn đi đôi
với bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành
được độc lập, tự do, thống nhất đất nước và có vị thế ngày càng
được nâng cao trên trường quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta nhất định sẽ giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất
nước, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội
như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn
Chiến lược Bảo vệ TQ là mưu lược (kế sách) xác định mục
tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm
tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh để bảo vệ vững chắc TQ Việt Nam XHCN;
giữ vững hịa bình, ổn định đất nước; ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh,
làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, bạo loạn
lật đổ, ly khai, can thiệp, xâm lược của giặc ngoài và thù trong, phục

vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH-HĐH, đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Nỗ lực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trung tâm là phát
triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh
CNH-HĐH; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ công
8


bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi kinh tế phát triển, các vấn đề xã hội được giải quyết, đời
sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, thực hiện tốt công
bằng xã hội sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần để xây dựng và
bảo vệ TQ VN XHCN. Xây dựng dược nền kinh tế độc lập tự chủ,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra sức mạnh tự thân, khơng
lệ thuộc vào nước ngồi là điều kiện bảo vệ tổ quốc.
Mục tiêu 4 : Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trải qua đã mấy ngàn năm, ông cha ta, dẫu cho trước bất cứ
ai, dù trong bất cứ tình huống nào, bao giờ cũng quyết lấy lợi ích
quốc gia, dân tộc làm mục tiêu tối thượng trong mọi hành xử của
mình cho nên mới tạo dựng được cơ đồ vững vàng để lại cho con
cháu hôm nay. Lịch sử từng cho thấy, làm trái đi là tự rước lấy tai
họa, khơng mất nước, trở thành nơ lệ thì cũng đẩy đất nước, đẩy
nhân dân vào cảnh thống khổ, lầm than.
Trong thời đại ngày nay, giữa biển rộng toàn cầu hóa tranh
đua sinh tử, chân lý “Khơng có gì quý hơn độc lập, tự do”, hơn bao
giờ hết, càng tỏa sáng. Đất nước ta hội nhập với thế giới, với bạn bè
năm châu, bốn bể là để học hỏi, tiếp thu tinh hoa của nhân loại, của
thời đại, làm giàu thêm, phong phú hơn nền văn hóa đậm đà bản sắc

dân tộc Việt Nam; để tranh thủ ngoại lực, khơi dậy nội lực, biến
ngoại lực thành nội lực, xây dựng đất nước ta hùng cường, giàu
mạnh, sánh vai cùng với các cường quốc năm châu, nhân dân ta có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, chứ quyết không đánh mất
mình, khơng rơi vào tụt hậu, lệ thuộc.
Giang sơn, xã tắc mấy nghìn năm ơng cha ta truyền lại, thế
hệ con cháu chúng ta hôm nay và mãi mãi sau này có nghĩa vụ và
trách nhiệm thiêng liêng là phải giữ gìn, quyết khơng để tổn thất
một ly lai.
Dân tộc ta đã mấy nghìn năm nối đời dựng nước, giữ nước,
đã đi qua hàng trăm cuộc khởi nghĩa, kháng chiến chống xâm lăng,
ở mọi quy mô, với biết bao hy sinh, xương máu; trong những giờ
phút hiểm nghèo, đã nêu cao ý chí “dù phải tát cạn biển Đơng”, “dù
phải đốt cháy dãy Trường Sơn” cũng quyết giành lại và giữ gìn
vững chắc độc lập, tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ngày nay, hơn 90 triệu đồng bào ta nguyện làm hết sức mình,
nguyện đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải, sẵn
sàng hiến dâng tới giọt máu cuối cùng vì những điều thiêng liêng vơ
giá đó.
9


Lợi ích quốc gia - dân tộc của chúng ta là cụ thể: Độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc;
chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh, hùng cường của đất nước,
ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đây là mục tiêu mà chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi chông
gai, quyết phấn đấu thực hiện cho bằng được, cũng là cơ sở để
chúng ta phân định những việc cần phải làm và những việc cần phải
tránh, như lời Bác Hồ dạy: Cái gì có lợi cho dân, cho nước thì phải

hết sức làm, cái gì có hại cho dân, cho nước thì phải hết sức tránh;
là tiêu chuẩn để chúng ta nhận diện ai là bạn, ai là thù, ai là đối tác,
ai là đối tượng trong từng lĩnh vực, từng tình huống, hồn cảnh cụ
thể; những quan điểm của Đảng ta: Những ai tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thiết lập quan hệ hữu nghị và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của
chúng ta; bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá mục
tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là
đối tượng đấu tranh. Làm trái thế, xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân
tộc là vong thân, hại quốc, là có tội với tổ tiên, các thế hệ cha ơng,
là phụ lại lịng tin và sự ủy thác của hơn 90 triệu đồng bào!
Mục tiêu 5 : Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an ninh xã
hội và nền văn hóa Việt Nam.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. V.I. Lenin, người
thầy vĩ đại của cách mạng thế giới đã chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng
chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Trải qua các giai đoạn cách
mạng, cùng với đường lối xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội,
Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược
sống còn. Trong cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay, quy luật dựng nước đi đôi với giữ
nước, được biểu hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau là xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong các kỳ đại hội,
nhất là qua gần 30 năm đổi mới, tư duy xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của Đảng ta có sự phát triển và đổi mới mạnh mẽ. Chúng ta ngày
càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn về hai nhiệm vụ
chiến lược, cũng như những chủ trương, biện pháp tạo nên sức

mạnh tổng hợp của đất nước. Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị
quyết Trung ương 8 (Khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
10


tình hình mới, đã nêu nhận thức mới về nội hàm bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Bảo
vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự, an tồn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị
và mơi trường hịa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (Khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
tiếp tục kế thừa nội hàm bảo vệ Tổ quốc đã được nêu trong Nghị
quyết Trung ương 8 (Khóa IX); đồng thời chỉ rõ quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là: Giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp,
tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc;
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, khơng ngừng củng cố, tăng cường
khối đại đồn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước; đồng thời
luôn nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá, xâm lược của các thế lực thù địch; không để bị động, bất ngờ
trong mọi tình huống; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc...

Phương châm chỉ đạo về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được
Đảng ta xác định rõ là kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược;
linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu
thuẫn bằng biện pháp hồ bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tranh
thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế;
phân hố, cơ lập các phần tử, thế lực ngoan cố chống phá Việt Nam;
lấy việc giáo dục, thuyết phục, phịng ngừa là chính, đi đơi với giữ
nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp
luật; chủ động đấu tranh với các âm mưu, hoạt động "diễn biến hồ
bình" của các thế lực thù địch, khơng để hình thành tổ chức chính trị
đối lập dưới bất kỳ hình thức nào...
Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã
được Đảng ta nhìn nhận tồn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu kết hợp
giữa hai nhiệm vụ chiến lược là phát huy sức mạnh tổng hợp của
khối đại đồn kết tồn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh
11


đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực
khác, bảo đảm kinh tếxã hội phát triển ổn định, bền vững; quốc
phòng, an ninh được tăng cường. Sự ổn định và phát triển bền vững
mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc
phòng-an ninh. Phát triển kinh tế-xã hội đi đôi với tăng cường sức
mạnh quốc phòng, an ninh; bảo đảm quốc phòng, an ninh trở thành
một trong những mục tiêu trọng yếu của chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội; kinh tế phát triển, các vấn đề xã hội được quan tâm giải
quyết, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, thực hiện tốt
công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, đối ngoại
được mở rộng sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn, mạnh

mẽ để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Phương thức kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc cũng được đổi mới và hoàn thiện theo hướng chủ động gắn
kết xây dựng với tự bảo vệ; kết hợp theo quy hoạch, kế hoạch của
từng địa phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của
Trung ương; kết hợp theo khu vực, vùng lãnh thổ, ngành, lĩnh vực
kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn quốc; kết hợp chặt chẽ phát triển
kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong các dự án đầu tư,
quy hoạch phát triển các vùng, các ngành kinh tế, nhất là các vùng
kinh tế trọng điểm, các địa bàn chiến lược, các ngành kinh tế quan
trọng.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định vấn đề tăng cường sức
mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu
vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh, tiếp tục phát triển quan
điểm Đại hội lần thứ X, Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định:
“Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược
bảo vệ Tổ quốc”. Đây là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm
của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
nhân dân trong lịch sử; nâng lên tầm cao mới truyền thống, bài học
kinh nghiệm “lấy dân làm gốc”, huy động sức mạnh toàn dân tộc
trong lịch sử dựng nước, giữ nước hào hùng của cha ông. Đảng ta
đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, Đảng ta đặc biệt
chú trọng trang bị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiến thức về
quốc phòng, an ninh, đồng thời cung cấp những thông tin về âm
12



mưu, hoạt động chống phá, nhất là chiến lược “diễn biến hịa bình”
của các thế lực thù địch cũng như những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” từ bên trong; các mối đe doạ an ninh truyền thống
và phi truyền thống. Kiến thức về quốc phòng, an ninh cần được
giáo dục, bồi dưỡng thường xuyên trong mỗi cơ quan, tổ chức, cộng
đồng dân cư. Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường
tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách
nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức
quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức
lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện
mới, như chiến tranh bằng vũ khí cơng nghệ cao, tranh chấp chủ
quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hịa bình”, bạo loạn chính trị,
khủng bố, tội phạm cơng nghệ cao, tội phạm xun quốc gia”.
Để chủ động phịng ngừa tình trạng “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng ta nhấn mạnh cần chăm lo xây
dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; chủ động vận dụng tư
tưởng, lý luận cách mạng đánh bại tư tưởng, lý luận phản động; lấy
chính nghĩa và sự thật đánh bại sự xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo; đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để
chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; sử dụng
sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của tồn dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng để phòng, chống “diễn biến hịa bình”, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Trong cơng tác bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, phải
quán triệt phương châm “chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong
là chính”; “giữ vững bên trong” là nội dung cốt lõi của cơng tác bảo
vệ chính trị nội bộ, nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của từng cơ
quan, tổ chức, khả năng “tự đề kháng” của mỗi cán bộ, đảng viên
trước tác động của “diễn biến hịa bình” cũng như mặt trái của cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế. Đây vừa là mục tiêu, vừa là

động lực của cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới.
Mọi âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của
các thế lực thù địch, phản động sẽ bị vơ hiệu hóa, nếu nội bộ các cơ
quan, tổ chức, đoàn thể đoàn kết thống nhất, thật sự trong sạch,
vững mạnh; nếu mỗi cán bộ, đảng viên vững vàng bản lĩnh chính trị,
cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Đảng ta ln kiên định ngun tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân. Bảo vệ và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định bản chất
giai cấp cơng nhân của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
13


trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử đã chứng minh, quy luật phát triển của đất nước ta là
dựng nước luôn luôn đi đôi với giữ nước, xây dựng luôn luôn đi đôi
với bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành
được độc lập, tự do, thống nhất đất nước và có vị thế ngày càng
được nâng cao trên trường quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta nhất định sẽ giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới
đất nước, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn.
Mục tiêu 6 : Giữ vững ổn định chính trị và mơi trường
hịa bình để phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc bối cảnh, dự báo xu hướng phát
triển của những vấn đề quốc tế, khu vực và trong nước, khi đề cập
đến mục tiêu chiến lược quốc phòng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp

hành Trung ương (khóa XI) khẳng định: “Trong bất kỳ tình huống
nào, tồn Đảng, tồn dân, toàn quân ta đều quyết tâm bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, mơi trường hịa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Điều dễ nhận
thấy là nội hàm mục tiêu của quốc phòng và sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc hiện nay của chúng ta rất rộng, rất toàn diện và ngày càng sâu
sắc. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa giữ vững độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững chế độ xã hội
chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;… Nhưng trên
hết là giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước;
cơ bản nhất là ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
Để đạt được mục tiêu trên theo quan điểm của Đảng ta thì
quốc phịng và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải được đặt trong mối
quan hệ tổng hòa với các lĩnh vực. Theo tinh thần đó, Đảng ta xác
định chiến lược quốc phòng phải được kết hợp chặt chẽ với Chiến
lược an ninh và Chiến lược ngoại giao trong Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, dựa chắc trên nền tảng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
lấy giữ vững hịa bình, ổn định, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi
14


mặt và phát triển bền vững là phương thức tối ưu để bảo vệ Tổ
quốc. Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
phải gắn chặt với cuộc đấu tranh giữ gìn hịa bình, ổn định trong
khu vực và trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi và thế đối ngoại

vững mạnh để tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phịng của đất
nước.
Như thế cũng có nghĩa chiến lược quốc phịng của ta khơng
phải là phịng ngự, bị động mà phải luôn luôn quán triệt tư tưởng
tiến công, chủ động bảo vệ từ xa, lấy giữ cho “trong ấm” là chủ yếu,
đồng thời phải tích cực ngăn chặn mọi nguy cơ chống phá từ bên
ngoài, làm sao để "ngoài êm”. Đồng thời kết hợp chặt chẽ hai
phương thức đấu tranh vũ trang và "phi vũ trang", lấy đấu tranh "phi
vũ trang", lấy hịa bình, đối thoại trên cơ sở luật pháp quốc tế là giải
pháp chủ yếu trong xử trí các tình huống về quốc phịng. Đấu tranh
vũ trang chỉ là giải pháp cuối cùng khi các giải pháp hịa bình, “phi
vũ trang” khơng thể thực hiện được.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch phản động luôn thay đổi chiến lược và phương thức
chống phá cách mạng Việt Nam, "phi vũ trang" được chúng lựa
chọn làm phương thức chủ yếu, thơng qua thực hiện chiến lược
“diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn lật đổ. Chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” được các thế lực thù địch phản động tiếp tục sử dụng
để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Vì vậy, phương thức
đấu tranh "phi vũ trang" ngày càng giữ vị trí quan trọng. Cùng với
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá ngày
càng tinh vi từ bên ngoài, chúng ta cần đặc biệt coi trọng việc “tự
bảo vệ”. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN phải được thể hiện ngay
trong khả năng "tự bảo vệ" của mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi
ngành, mỗi cấp, đặc biệt là ở cơ sở.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Ban Chấp
hành Trung ương đặc biệt nhấn mạnh, phải ln ln giữ vững vai
trị lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững
mạnh; khơng ngừng củng cố, tăng cường khối đại đồn kết toàn dân

tộc; nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống
phá, xâm lược của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ
trong mọi tình huống; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; gắn phát triển kinh tế, xã hội với củng
cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Tiếp tục nắm chắc nhiệm vụ phát
15


triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Bảo vệ Tổ quốc bằng sức
mạnh tổng hợp cả về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, quốc
phịng, an ninh, đối ngoại.
Phương thức giữ nước duy nhất đúng của dân tộc
Việt Nam là xây dựng nền quốc phịng tồn dân gắn với nền an ninh
nhân dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân. Trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân, Đảng ta xác
định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận
quốc phịng tồn dân với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân,
đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng khu vực
phòng thủ vững chắc để tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc
phòng. Đồng thời tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
vững mạnh, nhất là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức
mạnh chiến đấu tồn diện và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, làm
nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, cũng cần phải
thấy lực lượng quân đội tinh nhuệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại
là cần thiết nhưng sẽ là chưa đủ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc
gia. Đi kèm với đó, quan trọng là ta phải giữ vững đường lối độc
lập, tự chủ, tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, sẵn sàng hợp

tác với tất cả các bên vì lợi ích chung, vì hịa bình, ổn định và phát
triển trong khu vực.
Thực tế những năm qua cho thấy, Quân đội nhân dân
Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả quân đội các nước,
đặc biệt là quân đội các cường quốc. Đó là một minh chứng sinh
động cho đường lối đối ngoại quốc phòng đúng đắn như một
phương sách bảo vệ Tổ quốc cao nhất - xây dựng và củng cố mơi
trường hịa bình, an ninh và ổn định để đất nước phát triển. Trong
bối cảnh khó lường hiện nay, để bảo vệ Tổ quốc, hơn lúc nào hết,
chúng ta cần những cái đầu tỉnh táo, hiểu thời cuộc, hiểu mình và
hiểu người. Chúng ta kiên định nguyên tắc chiến lược, đồng thời
phải hết sức linh hoạt về sách lược trong xử trí các tình huống liên
quan đến quốc phịng. Giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để
phát triển đất nước nhưng khơng vì thế mà chúng ta lơ là mất cảnh
giác, bị động bất ngờ, mà phải bảo đảm cho đất nước luôn chủ động
về chiến lược trong mọi tình huống.
Tóm lại, Chiến lược Bảo vệ TQ Việt Nam XHCN thời kỳ
mới là một bộ phận trọng yếu của chiến lược quốc gia, nhằm cụ thể
hóa đường lối tăng cường quốc phịng an ninh để thực hiện thắng lợi
16


một trong hai nhiệm vụ chiến lược là Bảo vệ TQ XHCN trong thời
kỳ đầy mạnh CNH-HĐH đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng đề ra; đó là một chiến lược mang tính tổng hợp, tồn
diện, do cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng đề ra.
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh về
dựng nước và giữ nước; thực hiện có kết qủa “ chiến lược Bảo vệ
TQ thời kỳ mới”.
Liên hệ thực tế:

- Trước hết, cần phải làm tốt công tác tham mưu cho các
cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc đường lối
quân sự của Đảng, thấy rõ vai trị, vị trí, tầm quan trọng của nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; vị trí, nhiệm vụ quốc
phịng địa phương trong thế trận khu vực phòng thủ của quân khu
và cả nước. Những yêu cầu xây dựng khu vực phịng thủ trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và q trình hội nhập của phát
triển kinh tế - xã hội thành phố;
Thực hiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số
28- NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc
trong tình hình mới. Theo đó, tập trung xây dựng tiềm lực về chính
trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sinh, khoa học - cơng
nghệ, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của khu vực phịng thủ; xây
dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
vững chắc ở từng địa phương; chủ động nắm tình hình, phát hiện,
ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn
biến hịa bình”; tổ chức phịng thủ dân sự, phối hợp chặt chẽ các lực
lượng để phòng, chống kịp thời, có hiệu quả thiên tai, thảm họa…

Câu 2 : Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Chủ đề :
Trọng tâm :
Dàn ý :
1. Khái niệm chiến lược bảo vệ Tổ quốc :
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) xác định
mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi,
nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chiến lược bảo vệ

Tổ quốc :
17


Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước; không ngừng củng cố, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc là những nhân tố thắng lợi của sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp cơng
nhân Việt Nam ra đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp. Ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai cấp và dân tộc
giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh
chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho
nhân dân. Trước sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các lực
lượng cách mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự
thất bại không tránh khỏi của các phong trào chống Pháp do các sĩ
phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản lúc đó, dân
tộc ta đã hướng đến con đường cứu nước mới, khác về chất, con
đường mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính lúc dân
tộc Việt Nam cần một đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên
phong dẫn đường, một bộ tham mưu lãnh đạo thì Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng
kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.
Trải qua 85 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15
năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ

phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu
Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ
nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại
xâm lược Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi
của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng chiến và cuối cùng đã
giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược và lập lại
hồ bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hồn cảnh đất nước tạm bị
chia làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành
đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi Mỹ đưa
quân vào xâm lược ở miền Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ đánh
phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm
lược ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
nhân dân hai miền "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", giải
18


phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1975), đưa cả
nước đi lên CNXH.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm
1975, đất nước Việt Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc cách mạng XHCN, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước
tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân
còn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành
công công cuộc đổi mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn
trong 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hố,
xã hội, quốc phịng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định tính
đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ một đất
nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của
chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch điên cuồng chống phá, bị

bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai
khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã nhanh chóng khơi phục và phát
triển kinh tế - xã hội; đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động
không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lịng tin của quần
chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao.
Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước,
Việt Nam trở thành một trong những nước đầu tiên tiến hành đổi
mới thắng lợi theo định hướng XHCN. Nhân dân, dân tộc Việt Nam
có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo,
người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công cuộc
đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định một cách có cơ sở
rằng, được trang bị bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin và đi theo, Đảng
Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lãnh đạo nhân
dân Việt Nam không chỉ thắng lợi trong đấu tranh giành và giữ
chính quyền trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước,
mà cả trong xây dựng phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo
mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh".
85 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt
Nam, quãng thời gian chưa dài nhưng những gì mà giai cấp, dân tộc
đã thực hiện được quả là phi thường. Nếu khơng phải là một đảng
Mác xít-Lêninnít chân chính như Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt
đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
trung thành với lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao
động, của dân tộc thì chưa hẳn đạt được nhiều kỳ tích đến như vậy.
19



Với tất cả sự khiêm tốn của người Cộng sản, có thể nói,
Đảng Cộng sản Việt Nam thật vĩ đại! Đảng Cộng sản Việt Nam
xứng đáng là lãnh tụ của giai cấp, của dân tộc, xứng đáng là chính
đảng cách mạng duy nhất được giai cấp, dân tộc trao cho sứ mệnh
lịch sử.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 chế định rõ:
"- Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình.
- Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ
là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trị độc
tơn lãnh đạo của Đảng, mà cịn là một nguyên tắc bất di bất dịch của
cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị-xã hội mà Việt
Nam đã lựa chọn.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là
vấn đề chiến lược có tính ngun tắc, bởi vậy, cần kế thừa và phát
triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu
tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong
quá trình lãnh đạo, Đảng tiếp tục tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp
với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai
trị lãnh đạo của Đảng; khơng ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng
cao hiệu lực, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói
chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong

thời kỳ mới./.
Trong thời kỳ đổi mới, sự sụp đổ của mơ hình xã hội chủ
nghĩa hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây cũng
như tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, khiến cho
một số cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động, suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trước thực trạng đó, Hội nghị
Trung ương 3 (khóa VII) đã ban hành Nghị quyết Một số nhiệm vụ
đổi mới và chỉnh đốn Đảng (ngày 29-6-1992). Tiếp đó, tháng 111999, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) (kh óa VIII) đã ban hành Nghị
20


quyết Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay . Trung ương Đảng chủ trương: "Thực hiện nghiêm
ngặt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc
tập trung dân chủ, ngăn chặn và khắc phục tệ vô tổ chức, vơ kỷ luật,
độc đốn chun quyền trong Đảng" [3] . Kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nền tảng tư tưởng của
Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chấp nhận "đa
nguyên, đa đảng ".
Mặc dù đã có nghị quyết riêng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
song trong Đảng vẫn còn những khuyết điểm nghiêm trọng, kéo dài,
chậm được khắc phục, với những diễn biến phức tạp, chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với
Đảng; làm suy giảm vị trí, vai trò, sức chiến đấu và năng lực lãnh
đạo của Đảng. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI)
đã thảo luận và ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay (ngày 16-01-2012) . Nghị quyết đã chỉ rõ, vấn
đề cấp bách nhất hiện nay là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những

biểu hiện như: phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ,
cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục
bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy viện, vơ ngun tắc..., khơng ít tổ
chức cơ sở Đảng bng lỏng nguyên tắc sinh hoạt và kỷ luật Đảng,
giảm sút sức chiến đấu... Chỉ ra các giải pháp khắc phục tình trạng
đó: Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm
cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với
tập thể cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị
Quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)
(khóa VIII), đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng từng bước được nâng lên;
phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò
lãnh đạo của Đảng được giữ vững; niềm tin của Nhân dân với Đảng
được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước
trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt.
21


Tuy nhiên, trong những năm sắp tới, tình hình thế giới, khu
vực và trong nước có những thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng rất nhiều
phức tạp, khó khăn, thách thức, đặt ra cho Đảng ta nhiều vấn đề cần
phải giải quyết. Trong đó, bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu tồn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng chỉ ra vẫn cịn tồn tại, có
mặt trầm trọng hơn. Nguy cơ "tụt hậu xa hơn về kinh tế" đang là

thách thức lớn đối với đất nước; tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, đảng viên cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang gây
bất bình và làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Các thế lực thù địch tăng
cường chống phá, đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hịa bình", thúc
đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ ta, hịng hạ thấp uy
tín và phủ định vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bối cảnh đó, địi hỏi
Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, giữ vững
bản chất cách mạng, vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống nhất
cao về ý chí, hành động, siết chặt đội ngũ; thực sự trong sạch về đạo
đức, lối sống; gắn bó máu thịt với nhân dân. Hơn bao giờ hết, công
tác xây dựng Đảng trở thành một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý
nghĩa sống còn, quyết định vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn
vong của chế độ.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, để xứng
đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động
và cả dân tộc, nâng cao năng lực lãnh đao, năng lực cầm quyền,
Đảng ta cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Trước hết, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị : Kiên
định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Kiên định những
vấn đề có tính ngun tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao
năng lực cầm quyền của Đảng và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng có
hiệu lực, hiệu quả. Kiên định đường lối đổi mới, cơng nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách
phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam. Tiếp
tục đổi mới tư duy, hồn thiện các cơ chế, chính sách, kịp thời tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy tiềm năng và nguồn lực
22


của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển.
Hai là, tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, lý luận: Tiếp tục
đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu và hiệu quả
của cơng tác tư tưởng. Đổi mới công tác tuyên truyền, học tập chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết đấu tranh, ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên; ngăn chặn, đẩy
lùi những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ;
tích cực chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tăng cường đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hịa bình" của
các thế lực thù địch, chủ động, kịp thời ngăn chặn, phản bác các
thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ
những vấn đề xuất hiện trong quá trình đổi mới, làm tốt chức năng
định hướng cho hoạt động thực tiễn, cung cấp các luận cứ khoa học,
lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới cơng tác giáo dục lý luận
chính trị và học tập nghị quyết của Đảng đảm bảo thiết thực, hiệu
quả.
Ba là, tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ,
nâng cao chất lượng đảng viên: Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy
của Đảng và hệ thống chính trị. Tập trung củng cố, nâng cao chất

lượng và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; đổi mới nội dung,
hình thức phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động
của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Kiện toàn tổ chức, đảm bảo sự
lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.
Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ
chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về
cơng tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong
gương mẫu, có trách nhiệm cao trong cơng tác, có phẩm chất, đạo
đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, phấn đấu cho
mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; coi đây là việc làm thường
xuyên của các tổ chức Đảng, các cấp chính quyền và các tổ chức
chính trị-xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối
sống cơ hội, thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi…
Bốn là, đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm
23


tra, giám sát, kỷ luật Đảng: Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ
chức đảng, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát để lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật Đảng. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra
các cấp và chi bộ. Chú trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát người
đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Tăng
cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn,

các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế. Tăng
thẩm quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật cho ủy ban kiểm tra các cấp.
Năm là, đổi mới nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân: Củng cố vững chắc
niềm tin của nhân dân với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc và mối quan hệ Đảng - Dân; tập hợp, vận động và phát huy
sức mạnh của toàn dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng về công tác dân vận. Giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn
đề bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân. Tiếp tục cụ
thể hoá mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ" và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
giám sát, hưởng thụ".
Sáu là, đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng
phí : Xác định nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí là trách nhiệm và nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của các cấp
ủy đảng, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và tồn bộ hệ thống
chính trị. Kiên quyết phịng, chống tham nhũng, lãng phí; chủ động
phịng ngừa, khơng để xảy ra tham nhũng, lãng phí, khơng bao che,
dung túng và không can thiệp, ngăn chặn việc chống tham nhũng,
lãng phí. Từng bước hồn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng
trong cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Kiên quyết xử lý
và thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng, lãng phí, uy
tín giảm sút. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan có chức
năng phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơng tác phịng,
chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phịng ngừa, ngăn
chặn quan hệ lợi ích nhóm, chống đặc quyền, đặc lợi.
Bảy là, đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm

24


quyền của Đảng: Tiếp tục nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền,
xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung
cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong
điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; phòng ngừa các nguy cơ
đối với đảng cầm quyền. Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Tiếp
tục làm rõ phương thức cầm quyền của Đảng phù hợp với yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực
của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vừa đảm bảo vai trò lãnh
đạo của Đảng, vừa phát huy mạnh mẽ vai trị, tính chủ động, sáng
tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh
đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Đẩy mạnh cải cách hành
chính trong Đảng.
Tiếp nối truyền thống lịch sử 85 năm vẻ vang của Đảng,
bước vào thời kỳ mới, toàn thể cán bộ, đảng viên cần nỗ lực phấn
đấu, kiên quyết đấu tranh chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị 03
của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, khơng ngừng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xứng đáng với sự
tin cậy của Nhân dân.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Đồng thời, luôn

nêu cao cảnh giác, đánh bại mọi âm mưu, hành động chống phá,
xâm lược của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ
trong mọi tình huống.
Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã tiến hành tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) gắn với quá trình
gần 30 năm đổi mới đất nước; trên cơ sở đó, ban hành Nghị quyết
mới về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới”.
Nghị quyết đã xác định hệ thống những quan điểm mang tầm chiến
lược về BVTQ; trong đó,“Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
(ĐLDT) gắn liền với CNXH” là một quan điểm cơ bản. Thực chất
đây vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu xuyên suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm
25


×