Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212 KB, 24 trang )

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Nguyễn Thành Kiên Lớp H304
NỘI DUNG
Câu 5: phân tích quan điểm của lênin:"dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ tư sản nào tiến bộ nhất
cũng dân chủ gấp triệu lần hơn". Liên hệ nền dân chủ nước ta hiện nay.
Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ
- Trong công xã thị tộc (thời nguyên thuỷ), thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc được người dân của bộ tộc bầu ra hoặc
phế bỏ. Điều này cho thấy quyền dân chủ ra đời từ rất sớm.
- Khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, giai cấp chủ nô lập ra nhà nước và lấy tên là Nhà nước dân chủ chủ nô, chỉ đến
giai đoạn này thì danh từ dân chủ mới chính thức được sử dụng.
- Dân chủ theo nguyên nghĩa Latinh
Dân chủ theo tiếng Hy Lạp cổ là từ ghép của hai chữ: Demos (nhân dân, quần chúng) + Kratos (sức
mạnh, quyền lực) = quyền lực, sức mạnh thuộc về nhân dân.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ
Trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại, đã tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về dân chủ, và có
những quan niệm cho rẳng dân chủ là phi giai cấp, dân chủ là phi lịch sử. Đối ngược lại với những quan niệm đó,
chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra những luận giải mang tính khoa học về dân chủ như sau:
- Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý những hoạt động thực tiễn và nhận thức của
nhân loại về dân chủ, đặc biệt là việc chủ nghĩa Mác-Lênin đã tán thành quan điểm cho rằng: dân chủ là một nhu
cầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực của nhân dân.
- Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì khi đó sẽ không có “dân chủ chung chung, phi giai cấp, siêu
giai cấp”, “dân chủ thuần tuý”. Trái lại mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mạng bản chất giai cấp
thống trị. Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách là một phạm trù lịch sử, phạm trù
chính trị.
- Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ thì dân chủ còn với ý nghĩa là một hình thức nhà nước, trong đó chính
quyền về mặt pháp lý thuộc về nhân dân, mọi công dân đề bình đẳng trước pháp luật, có quyền tham gia công việc
nhà nước, được sử dụng các quyền chính trị và các quyền tự do dân chủ, thiểu số phục tùng đa số.
- Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do một giai cấp thống trị cầm quyền chi phối
mọi lĩnh vực của toàn xã hội. Do vây, tính giai cấp thống trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chất của chế
độ chính trị, kinh tế, xã hội, … ở mỗi quốc gia dân tộc cụ thể.


Như vậy, trải qua các chế độ xã hội khác nhau thì dân chủ cũng có phản ánh mức độ phát triển khác nhau.
Trong lịch sử phát triển của mình, dân chủ đã trải qua các hình thức phát triển như: dân chủ chủ nô, dân chủ phong
kiến (quân chủ), dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1
Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
* Dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vô sản) là gì ?
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức mới và cao của dân chủ, là nền dân chủ thật sự đối với đa số nhân dân
lao động, dân chủ được thực hiện trong thự tiễn nhưng nó vẫn là dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định : chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa về căn bản
là thống nhất với nhau. Nên ngay trong Đại hội VII, Đảng ta đã thống nhất cách gọi “chuyên chính vô sản” là
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, chúng ta có thể khái quát về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa như sau:
- Bản chất chính trị: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính nhân dân
rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất kinh tế: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của
toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện
đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
- Bản chất tư tưởng - văn hoá: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin làm nền tảng, chủ
đạo đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống của
các dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hoá, văn minh, tiến bộ mà nhân loại đã tạo ra ở các quốc gia – dân
tộc trên thế giới.
Câu 6: tại sao nói đổi mới hoạt động của nhà nước ta hiện nay là một trong những giải pháp cơ bản để
bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân?
Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về Nhà nước
Đảng ta xác định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước bảo đảm việc thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể
nhà nước; nhà nước là công cụ thông qua hệ thống tổ chức, bộ máy luật pháp thực hiện dân chủ, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Nhân dân ủy quyền cho các bộ máy, công chức nhà nước thực thi quyền làm chủ, bảo vệ lợi ích của mình.
Nhà nước xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên mục đích chung của các giai cấp, các tầng lớp,

các dân tộc, các tôn giáo…vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhà nước ta được tổ chức và quản lý bằng pháp luật. Mọi hoạt động của nhà nước phải tuân thủ theo pháp
2
luật như Bác Hồ từng chỉ rõ “trăm điều phải lấy thần linh pháp quyền”. Nhà nước ta không phải chỉ gắn với
nhân dân mà mọi chính sách do nhà nước đề ra đều phục vụ lợi ích của nhân dân, thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Nhà nước có cơ chế, chính sách phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nhân dân kiểm tra, giám sát
các hoạt động có thể nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, lộng quyền của các
tổ chức, bộ máy, công chức nhà nước. Bảo đảm nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ; bảo
đảm quyền lực là thống nhất, có sự phân công hoạt động các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ
quan tư pháp.
Nhận thức rõ bản chất của dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Bác Hồ và Đảng ta luôn xác định dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân là chủ và nhân dân làm
chủ đất nước.
Vì thế thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng.
Bác Hồ xác định dân là gốc; trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, nước ta là nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ hoặc chế độ nước ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ. Bác xác
định, Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là đầy tớ của dân, nghĩa là để gánh vác chung cho dân.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định thực hiện dân chủ là mục tiêu và động lực của cách
mạng. Chỉ có thực hiện dân chủ thực sự mới bình đẳng, mới đoàn kết, mới phát huy sức mạnh của mọi tấng
lớp nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước bền vững.
Xây dựng đổi mới quan hệ giữa Nhà nước và thực hành dân chủ
Theo đó, mọi tổ chức, hoạt động của Nhà nước luôn bảo đảm quyền làm chủ trực tiếp và gián tiếp của nhân
dân. Nhà nước có cơ chế, chính sách khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân.
Cán bộ, công chức nhà nước thật sự gương mẫu, tận tụy phục vụ nhân dân, thật sự trong sạch về đạo đức, lối
sống, không sách nhiễu dân, không cửa quyền với nhân dân để nhân dân thật sự tin tưởng yên tâm trao gửi
quyền lực của mình.
Nhà nước thực sự công khai minh bạch về những chủ trương, chính sách, cơ chế, thiết chế, các nguyên tắc lề
lối, phương thức hoạt động; về chức năng, nhiệm vụ các tổ chức, cá nhân công chức các cấp để nhân dân

thuận tiện công việc và kiểm tra, giám sát thực hiện quyền làm chủ của mình.
Để thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước phải nhận thức đúng, đầy đủ về
quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật , cơ chế thực thi dân chủ; tạo lập các
3
yếu tố, các tiền đề kinh tế - xã hội thực thi dân chủ. Nhà nước có biện pháp nâng cao dân trí, phát triển văn
hóa dân chủ, cung cấp thông tin, định hướng phát triển đất nước. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững
mạnh, xã hội hóa các giá trị, năng lực của tập thể, cá nhân. Định rõ nội dung, hình thức, biện pháp, bước đi…
trong thực hiện dân chủ.
Câu 7: vì sao trong thời kỳ quá độ lên CNXH phải thực hiện liên minh công – nông - trí thức? Trình
bày những nội dung cơ bản của liên minh Công – Nông – Trí ở nước ta hiện nay?
Bài làm
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: “… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và
phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”, từ tư tưởng của Người cho ta thấy rõ: ĐĐK dân tộc là tập hợp mọi
người dân vào cuộc đấu tranh chung. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn giương cao ngọn
cờ ĐĐK toàn dân tộc, xác định đó là đường lối, chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu trong
kháng chiến cứu nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… ĐĐK toàn dân tộc thực sự là nhân tố đảm bảo
thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là một vấn đề cốt tử của cách mạng… Như ĐH X của Đảng
khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh GCCN với nông dân và đội ngũ trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn
độc chống lại GCTS thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh được với đại đa số NDLĐ mà
chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng nhất định thắng lợi. Sở dĩ
như vậy là vì giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức có những vị trí và vai trò quan trọng
trong xã hội.
Trong cách mạng XHCN, liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là một tất yếu
khách quan:
Trước hết, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cuộc cách mạng XHCN. Đây là cuộc cách mạng cuối
cùng trong lịch sử với nội dung rộng lớn, toàn diện trên tất cả tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội

nhằm lật đổ CNTB, xây dựng thành công CNXH, CNCS với tích chất gây go, quyết liệt, lâu dài gian khổ. Để
thực hiện được nội dung, mục đích của cuộc cách mạng XHCN,
phải có một lực lượng đông đảo dưới sự lãnh đạo của GCCN nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện
thắng lợi cuộc cách mạng XHCN. Do đó, cần phải liên minh 3 lực lượng đông đảo trong xã hội, đó là liên
minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Hai là, là từ vai trò, vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong cách mạng
XHCN.
4
Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng XHCN, với SMLS thủ tiêu CNTB, xây dựng thành
công XHCN, XHCS trong phạm vi mỗi nước, mỗi dân tộc và trên toàn thế giới. Trong cuộc đấu tranh đó
GCCN phải có lực lượng, phải thực hiện liên minh giai cấp để tạo thành sức mạnh to lớn nhằm xóa bỏ
CNTB, xây dựng thành công CNXH. Muốn thực hiện thắng lợi SMLS của mình GCCN phải tiến hành liên
minh chặt chẻ với nông dân và trí thức.
Giai cấp nông dân Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin là lực lượng xã hội đông đảo, có vai trò
quan trọng trong sản xuất và xây dựng chính quyền. Trong xã hội cũ nông dân bị bóc lột nặng nề, có nguyện
vọng được giải phóng. Song, do địa vị kinh tế-xã hội của mình không cho phép nông dân có khả năng tự giải
phóng mình và giải phóng xã hội. Chỉ có thể thoát khỏi áp bức bóc lột và phát huy vai trò khi giai cấp nông
dân liên minh chặt chẻ với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN.
Trí thức là tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng ngày càng tăng trong cách mạng XHCN. Trí thức tham
gia tích cực vào quá trình xây dựng CNXH, đổi mới đất nước, đi đầu trong lĩnh vực phát triển khoa học,
công nghệ và văn hóa tinh thần. Song, trong xã hội cũ, trí thức cũng bị bóc lột và không có khả năng tự giải
phóng mình, muốn thoát khỏi áp bức bóc lột và phát huy cao nhất vai trò của mình, trí thức phải liên minh
với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN. Ngược lại, công-nông không được nâng cao kiến thức, không dần
được trí thức hóa, thì không thể xây dựng CNXH được.
Ba là, từ yêu cầu, đặc điểm kinh tế, chính trị-xã hội của TKQD và của CNXH. Trong TKQĐ vẫn còn tồn
tại giai cấp và đấu tranh giai cấp, các giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất, song cũng còn những lợi ích
riêng của mỗi giai tầng. Muốn giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa các lợi ích bảo đảm sự cân bằng và thống nhất về lợi ích kinh tế-chính trị-xã hội của mỗi
giai tầng trong xã hội, thì phải thực hiện liên minh giữa GCCN, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Mặt
khác, do yêu cầu xây dựng những cơ sở vật chất của CNXH, đòi hỏi phải xây dựng và củng cố phát triển

khối liên minh công-nông-trí thức, V.I.Lênin chỉ ra: “Nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có dân chủ
bền vững, không thể có cải cách XHCN được”.
Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất là
ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên minh công, nông và
các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu
tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức được mối liên minh với "người bạn đồng minh tự nhiên" của
mình là giai cấp nông dân. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và
cuộc cách mạng vô sản này đã trở thành "bài ca ai điếu".
Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế quốc), V.I. Lênin đã vận dụng và
phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác
trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917). Trong thời kỳ đầu của thời kỳ quá độ,
không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Ngay cả trong
chuyên chính vô sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định trong thời kỳ quá độ không chỉ liên minh giữa các
giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao động khác mà ngược lại, rất cần phải liên minh với họ để thực hiện
5
mục tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công nhân liên minh với họ
là điều tất yếu. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công nhân
được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là
điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về
mặt chính trị-xã hội, là yếu
tố tiên quyết.
L
iên minh công - nông - trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhu
cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu phát triển của trí thức.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của CN Mác-Lênin, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ĐCSVN đã
nêu ra tư tưởng liên minh giữa giai cấp công nghiệp với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức ngay từ
ĐHĐB toàn quốc lần thứ II (02/1951) của Đảng chỉ rõ: “Chính quyền của nước VN Dân chủ Cộng hòa là
chính quyền dân chủ của nhân dân …. lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng
và do GCCN lãnh đạo”.

Văn kiện Đại hội ĐCS VN lần thứ VII đã khẳng định: “Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức
của mình và nếu bản thân công-nông không được nâng cao kiến thức thì không thể xây dựng được CNXH”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCS VN (năm 2001) chẳng những tiếp tục khẳng định tính tất yếu
và vai trò của liên minh công-nông- trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc VN XHCN mà còn
đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo.
Tính tất yếu của liên minh công-nông-trí thức ở VN trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn là sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo những luận điểm cơ bản của CN Mác-Lênin về liên minh công-nông và các tầng lớp lao
động khác và hoàn cảnh cụ thể của VN.
Và quan điểm, đường lối và chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS VN về liên minh công-nông-
trí thức là nhất quán từ khi Đảng ta mới thành lập, lãnh đạo cách mạng VN đến nay và luôn luôn được thực
hiện, kiểm nghiệm qua thực tiễn và phát triển phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và của
thời đại.
Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách
quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng CNXH, mà còn
là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Liên minh thể hiện tính
quy luật chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có
nền kinh tế chậm phát triển.
6
Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, không ngừng
nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”.
Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH đất nước,
nếu không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao…
Như vậy, liên minh công-nông-trí thức là tất yếu khách quan, là quy luật của quá trình cách mạng XHCN.
Liên minh công-nông-trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở chính trị-xã hội vững chắc cho chế độ
mới. Bởi vì, đó những lực lượng lao động sản xuất, là những lực lượng chính trị cơ bản và đông đảo nhất để
xây dựng và bảo vệ CNXH. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng XHCN không thể
thành công ở những nước nông nghiệp nếu ba lực lượng đó tách rời nhau, không được tổ chức lại, dưới sự

lãnh đạo đúng đắn của gccn thông qua ĐCS. Do đó liên minh công-nông-trí thức vừa là nòng cốt, vừa là nền
tảng của khối ĐĐK toàn dân tộc, của Nhà nước XHCN.
Nội dung cơ bản của liên minh công-nông-trí thức trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta là: Kết hợp đúng
đắn các lợi ích (về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội) của GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và của
toàn xã hội.
Nội dung chính trị của liên minh: Mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản của liên minh thực chất là mang lại
lợi ích chính trị, quyền làm chủ x1t, là xây dựng một Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCS với đường
lối chính trị, đường lối cách mạng nhất quán: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; mang lại lợi ích cho
GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức.
Nội dung kinh tế của liên minh: Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật của
liên minh trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta. Nội dung này của liên minh thực chất là mang lại lợi ích kinh tế
cho các đối tượng liên minh và toàn thể nhân dân lao động; là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền KTQD. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay từng bước và
từng chính sách phát triển. Nội dung kinh tế của liên minh trong TKQĐ được biểu hiện qua 3 mối quan hệ
kinh tế cơ bản: Mối quan hệ kinh tế giữa công nghiệp và nông nghiệp; giữa Nhà nước với nông dân; giữa
Nhà nước với tầng lớp trí thức. Ba mối quan hệ kinh tế này xuất hiện dựa trên các ýt của nền KTTT định
hướng XHCN.
Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh: Văn hóa-xã hội là mục tiêu, là động lực của các nội dung chính
trị, kinh tế, suy cho cùng là nhằm phục vụ những nhu cầu, lợi ích vật chất và tinh thần ngày càng cao của
7
công-nông-trí thức và của nhân dân. Vừa khuyến khích mọi giai tầng làm giầu chính đáng, vừa tích cực xóa
đói giảm nghèo, nhất là cho đại đa số dân cư là nông dân, miền núi … Nâng cao dân trí, văn hóa cho nông
dân, công nhân và nhân dân lao động, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục phổ thông; chăm sóc sức khỏe nhân
dân, đặc biệt là công nhân và nông dân; chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, quan liêu và tệ nạn xã hội.
Thực hiện tốt các chính sách xã hội, nhất là gia đình thương bênh binh, gia đình liệt sỹ, già cả neo đơn,
khuyết tật … Việc quy hoạch phát triển đô thị gắn liền với công nhân, khoa học và công nghệ phải gắn liền
với quy hoạch xây dựng nông thôn, miền núi, hải đảo
Để phát huy vai trò của khối liên minh công-nông-trí thức ở nước ta hiện nay, đó là giải quyết tốt những
chính sách đối với từng thành viên trong liên minh như Đại hội X của Đảng đã khẳng định, đó là:

Đối với GCCN, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt
chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ
lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân; chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc
cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi
chính đáng, hợp pháp của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các khu công
nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú.
Đối với giai cấp nông dân, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ tiên tiến vào
nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng đất. Tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyến khích nông dân hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã,
chủ trang trại để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất, tiêu thụ nông
sản hàng hoá. Hỗ trợ và khuyến khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp dụng thành tựu khoa học, công
nghệ.
Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài.
Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng
đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của
các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội.
* CNXH khoa học là sự phản ánh bằng lý luận phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Việc đề ra chiến lược, sách
lược cách mạng; việc thiết lập, phát huy vai trò hiệu lực Nhà nước; việc xây dựng, củng cố khối liên
8
minh công nhân, nông dân và trí thức; việc xây dựng và phát huy mối quan hệ các dân tộc trên phạm
vi quốc gia và quốc
Đối với một Nhà nước XHCN, một nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực của Nhà nước
đều thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong là Đảng Cộng sản, đại diện cho quyền lợi của
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nó có vai trò, vị trí quan trọng đối với khối liên

minh trong cuộc cách mạng XHCN.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn
độc chống lại giai cấp tư sản thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh được với đại đa số
nhân dân lao động mà chủ yếu là gc nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng nhất
định thắng lợi.
Về giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động SX vật chất trong lĩnh vực nông nghiệp, bao
gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Lênin đã phân tích một cách khoa học về giai cấp nông dân, đây là một
lực lượng đông đảo nhất, có tinh thần cách mạng quật khởi, đấu tranh bất khuất và có nhiều đóng góp vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, nhưng nông dân vốn có PTSX phân tán, kỹ thuật lạc hậu, năng
suất lao động thấp kém, KT nông dân nông thôn chủ yếu là tự cung tự cấp.
nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ để bóc lột các giai cấp và tầng lớp XH. Vì vậy khi liên minh với gccn,
họ có mặt tích cực là dễ gắn bó với gccn, nhưng trong đấu tranh họ muốn bảo vệ mảnh đất nhỏ bé của mình,
không muốn xa rời, do đó họ trở nên trì trệ, bảo thủ, không có tinh thần cách mạng triệt để.
Mặt khác, nông dân không có hệ tư tưởng độc lập. Tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị XH đương thời. Trong cách mạng XHCN, khi chưa được giác ngộ thì lập trường tư tưởng của
nông dân không kiên định, dễ dao động. Phải trải qua quá trình giác ngộ và đấu tranh cách mạng lâu dài,
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS mới từng bước khắc phục được những mặt hạn chế của họ.
Nông dân vốn có cơ cấu không thuần nhất, với nhiều thành phần như: cố nông, bần nông, trung nông,
phú nông, họ không có sự cố kết cả về mặt KT lẫn tư tưởng và tổ chức. Giai cấp nông dân là LLSX và lực
lượng chính trị - XH đông đảo nhất trong những nước nông nghiệp. Nông dân gắn bó với cội nguồn dân tộc,
có ý thức dân tộc sâu sắc, có truyền thống yêu nước, có khả năng cách mạng to lớn. Tuy nhiên, do đặc điểm
những hạn chế của giai cấp mình mà giai cấp nông dân không thể tự giải phóng mình và giải phóng XH một
cách triệt để.
Tầng lớp trí thức: là một tầng lớp XH đặc biệt, gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo,
là những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực lao động trí tuệ của mình.
Phương thức lao động của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân. Sản phẩm lao động của họ là những tri
9
thức khoa học sáng tạo, những giá trị về tinh thần. Những sản phẩm trí tuệ ấy thường có tác dụng đặt cơ sở lý
thuật, định hướng cho nhận thức và hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của sự phát triển XH.
Các sản phẩm trí tuệ của trí thức có giá trị sáng tạo khoa học đều có tác động trực tiếp đến năng suất lao

động, chất lượng SX, tốc độ tăng trưởng và phát triển của XH trên cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Nhưng
do phương thức lao động đặc thù của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân, cho nên trí thức không thể đại biểu
cho một PTSX tiên tiến mà trong đó LLSX mang tính XH hóa cao, mặc dù ngày nay khoa học và công nghệ
ngày càng trở thành LLSX trực tiếp của XH và vai trò của trí thức ngày càng quan trọng.
Trí thức xuất thân trong tất cả các giai tầng trong XH. Họ hoạt động trong tất cả các ngành SX, các lĩnh
vực đời sống XH. Lợi ích của trí thức gắn bó với những cơ sở, những giai cấp mà họ phục vụ. Họ không có
hệ tư tưởng độc lập, chủ yếu vì không có PTSX riêng và địa vị KT-XH độc lập, từ thời chiếm hữu nô lệ cho
đến nay vai trò và tư tưởng của họ đều phụ thuộc vào giai cấp thống trị XH.
Trong các chế độ tư hữu, đại đa số trí thức là những người lao động bị áp bức, bóc lột (tuy hình thức và
mức độ bị bóc lột không hà khắc và nặng nề như đối với giai cấp nông dân và công nhân bị áp bức bóc lột).
Vì vậy, trí thức gắn bó với nhân dân, với dân tộc, luôn đấu tranh cho một XH hòa bình, dân chủ, bình đẳng
và tiến bộ. Khi được sự lãnh đạo của gccn, trí thức có điều kiện thể hiện là một lực lượng cách mạng quan
trọng, với nhiều đóng góp to lớn. nhưng trí thức không thể tự giải phóng mình khỏi chế độ tư hữu, áp bức,
bóc lột; càng không thể trở thành lực lượng độc lập để lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và
cách mạng XHCN.
Riêng đối với giai cấp công nhân, xét về nguồn gốc ra đời, là con đẻ của nền đại công nghiệp sinh ra và
phát triển theo đà phát triển của kỹ thuật và công nghệ và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi SX đại CN
đã thay thế về cơ bản nền SX thủ công.
Dưới chế độ TBCN, giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động làm thuê cho nhà tư bản, là
giai cấp hoàn toàn không có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Vì vậy, trong SX họ
là giai cấp bị phụ thuộc và trong phân phối là giai cấp bị bóc lột giá trị thặng dư, do đó giai cấp công nhân
đối lập trực tiếp về lợi ích với gc tư sản.
Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định giai cấp công nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức quan
trọng là xóa bỏ chế độ bóc lột TBCN, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ XH TBCN lên XH XHCN và
CSCN.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã luận chứng một cách khoa học sâu sắc và đầy thuyết phục: Địa vị
kinh tế và xã hội của giai cấp công nhân đã quy định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp, đó là người làm
cuộc cách mạng XH đánh đổ CNTB, xóa bỏ hình thái XH dựa trên nền tảng chế độ tư hữu và xây dựng XH
mới lấy chế độ công hữu về TLSX làm nền tảng, không có người bóc lột người.
10

CNTB ra đời đã đánh dấu một bước tiến vĩ đại về phát triển LLSX. Sự ra đời của nền đại CN một mặt
tạo ra cơ sở vật chất, mặt khác sản sinh ra giai cấp công nhân. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của
LLSX trong CNTB sẽ làm cho nó mang tính chất XH hóa ngày càng cao, mâu thuẫn với mối QHSX TBCN
dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX, tạo ra mâu thuẫn cơ bản trong XH tư bản: mâu thuẫn giữa
QHSX lỗi thời - đại diện là gc tư sản với LLSX mới - đại diện là giai cấp công nhân.
Theo quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, sớm muộn gì giai cấp công
nhân - người đại diện cho LLSX mới sẽ lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh lật đổ gc tư sản - người đại
diện cho QHSX lỗi thời, thiết lập QHSX mới, mở đường cho LLSX tiếp tục phát triển.
Là giai cấp đại biểu cho LLSX tiên tiến, do vậy giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng sáng
tạo ra PTSX mới tiến bộ hơn. Đồng thời là một giai cấp đối lập trực tiếp với lới ích của gc tư sản, giai cấp
công nhân là giai cấp đại biểu cho lợi ích của toàn bộ các giai cấp và người lao động trong XH, do đó học trở
thành lãnh tụ tự nhiên của quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống gc tư sản và xây dựng XH mới.
Thực vậy, từ địa vị KT, XH của mình đã tạo cho giai cấp công nhân trở thành một giai cấp tiên tiến nhất,
có khả năng vạch ra đường lối đúng đắn phát triển XH tốt hơn, kiên quyết loại bỏ gc tư sản bóc lột, còn giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức chỉ tiên tiến khi nào đia theo giai cấp công nhân làm CM.
Đặc điểm thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Thật vậy, sống dưới
chế độ TBCN giai cấp công nhân bị tước hết TLSX và bị áp bức bóc lột nặng nề. Muốn giải phóng họ phải
lật đổ ách thống trị của gc tư sản, xóa bỏ CNTB và mọi nguồn gốc sinh ra chế độ người bóc lột người. Mác
đã viết: “Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân chẳng mất gì hết ngoài xiềng xích trói buộc họ,
nhưng nếu được thì họ được cả thế giới về mình”. Sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể
hoàn tất khi XH thoát khỏi tình trạng phân chia giai cấp và áp bức bóc lột, nghĩa là muốn giải phóng mình,
giai cấp công nhân phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn XH, do đó giai cấp công nhân là giai cấp có
tinh thần cách mạng triệt để nhất. Đặc điểm tiếp theo là, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ
luật cao, bởi vì điều kiện SX và trình độ KHKT ngày càng hiện đại, lại có cơ cấu tổ chức SX khoa học chặt
chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân tính kỷ luật cao, trong cuộc đấu tranh chống lại gc tư sản có bộ máy
cai trị đàn áp khổng lồ với nhiều thủ đoạn thâm độc, giai cấp công nhân muốn chiến thắng thì phải tổ chức
thật chặt chẽ, có tinh thần đoàn kết cao và tinh thần kỷ luật cao, đó là cơ sở khách quan của việc hình thành
tính tổ chức chính trị của giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh tự giải phóng giai cấp mình
khỏi chế độ làm thuê. Một đặc điểm nữa là, giai cấp công nhân ở các nước tư bản đều có địa vị KT, XH
giống nhau, ở đâu cũng chỉ là những người lao động làm thuê và chịu sự bóc lột của gc tư bản.

Do vậy, họ có mục tiêu đấu tranh chung là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của CNTB, xây dựng chế độ mới
XHCN, XH không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Tuy nhiên, gc tư sản để duy trì sự thống trị của mình đã có
11
sự liên minh trên phạm vi quốc tế, hình thành nên CNĐQ, để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức. Vì thế, muốn hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân các nước trên
toàn thế giới phải cùng đoàn kết lại, cùng phối hợp đấu tranh trên phạm vi toàn cầu, chính vì vậy giai cấp
công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế nhất.
Lý luận CN Mác-Lênin đã khẳng định: giai cấp công nhân muốn tiến hành đấu tranh cách mạng một
cách đơn độc chống gc tư bản thì sẽ thất bại; nhưng nếu giai cấp công nhân lôi kéo, liên minh được với đại
đa số quần chúng lao động, chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững được vai trò lãnh đạo cách mạng thì
cách mạng sẽ hoàn toàn thắng lợi.
CN Mác-Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công – nông và các tầng lớp lao động khác, chẳng
những chỉ trong giai đoạn cách mạng giành chính quyền mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng
CNXH – “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên
chính vô sản thì liên minh này đã tập hợp được LLSX và lực lượng cách mạng đông đảo nhất, trong đó gccn
là giai cấp tiên phong lãnh đạo thông qua chính đảng của mình là ĐCS. Xét về lợi ích cơ bản thì CM XHCN
vì lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. Đó là tính tất yếu của liên minh về mặt chính trị - XH.
Trong quá trình xây dựng CNXH, tức là khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, thì cùng với tính tất
yếu CT-XH, tính tất yếu của liên minh về mặt KT lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự
thắng lợi của CNXH. Đối với liên minh công – nông – trí ở một nước nông nghiệp đi lên CNXH, tính tất
yếu KT nổi lên mấy điểm cơ bản sau:
+ Tất yếu phải gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công nghệ trong một cơ
cấu KT quốc dân thống nhất.
+ Từ một nước nông nghiệp đi lên, thì tất yếu trước tiên phải đặc biệt chú trọng nông nghiệp, để cho
nông nghiệp thực sự trở thành cơ sở để tiến hành CNH, HĐH đất nước; từng bước hình thành nền CN hiện
đại có khả năng cải tạo toàn bộ nền KT quốc dân.
+ Nông nghiệp, CN và nhiều lĩnh vực KT đời sống, phải gắn liền với sự phát triển và ứng dụng khoa học
công nghệ ngày càng hiện đại thì mới có thể xây dựng thành công CNXH, CNCS. Lênin cũng đã rất coi
trọng vai trò tất yếu của khoa học công nghệ khi
bước vào xây dựng CNXH, Người cho rằng: Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô

sản và giới kỷ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được.
+ Có chính quyền rồi, phải quan tâm chăm lo giải quyết vấn đề KT trong liên minh, nếu không thì bản
thân công nhân, nông dân và đại đa số nhân dân lao động dù đã thoát khỏi ách nô lệ, áp bức, bóc lột nhưng
không thể thoát khỏi đói nghèo, bệnh tật, mù chữ… Những nội dung KT và VH, XH của liên minh khi được
thực hiện tốt, chính là giải quyết một cách cơ bản những vấn đề đặt ra đó trong quá trình xây dựng CNXH.
12
Xây dựng và củng cố được khối liên minh này, thực chất là xác lập và củng cố vai trò lãnh đạo của ĐCS
trong cách mạng XHCN. Mặt khác, chính khối liên minh này là lực lượng cách mạng hùng mạnh, đảm bảo
cho giai cấp vô sản giành và giữ được chính quyền.
Qua bài học (thất bại cũng như thắng lợi) của các cuộc cách mạng như: cách mạng Pháp năm 1848-1850,
Công xã Pari năm 1871, cũng như từ thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, đã chứng minh
rằng các nước thất bại là do giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của nó không liên minh được với giai
cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, không giữ được vai trò lãnh đạo thì không những
không đủ sức mạnh và trí tuệ để xây dựng CNXH mà còn mất cả chính quyền cũng như những thành quả
cách mạng đã giành được
Chính cương Đảng Lao động VN tại Đại hội lần thứ hai (tháng 2-1951) chỉ rõ: “Chính quyền của nước
VN Dân chủ Cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân …. lấy liên minh công nhân, nông dân và lao
động trí thức làm nền tảng và do gccn lãnh đạo”. (Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tập 12, trang 437).
Qua thực tiễn cách mạng VN, Chủ tịch HCM đã rút ra kết luận đúng đắn về vai trò khối liên minh công –
nông – trí là: “Chỉ có khối liên minh công – nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và
triệt để đánh đổ các thế lực phản CM, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên CNXH” (HCM toàn tập, tập 10, NXB sự thật,
1989).
Văn kiện Đại hội ĐCS VN lần thứ VII đã khẳng định: “Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức
của mình và nếu bản thân công – nông không được nâng cao kiến thức thì không thể xây dựng được CNXH”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCS VN (năm 2001) chẳng những tiếp tục khẳng định tính tất yếu
và vai trò của liên minh công – nông – trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc VN XHCN mà
còn đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa

công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo.
Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách
quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng CNXH, mà còn
là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển KT, VH, XH của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy luật
chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có nền KT
13
chậm phát triển.
Cốt lõi của liên minh về KT là mối quan hệ chặt chẽ giữa CN và nông nghiệp. Từ lâu, Chủ tịch HCM đã
khẳng định: “CN và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi
đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.
Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, không
ngừng nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”.
Nông nghiệp không thể có năng suất cao, hàng hóa nông sản nhiều và chất lượng tốt nếu không có sự tác
động trực tiếp của CN.
Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH đất nước,
nếu không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao…
Đặc biệt trong nội dung kinh tế của liên minh công – nông, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà
nước và nông dân. Trong quan hệ đó, Nhà nước vừa là một chủ thể lợi ích đại diện XH, có quan hệ dân chủ,
bình đẳng cùng có lợi với nông dân, vừa là người có vai trò trách nhiệm và khả năng giúp đỡ, định hướng và
điều tiết hợp lý các quan hệ lợi ích, các hoạt động, thông qua luật pháp, chính sách và những cơ sở kinh tế
quốc doanh.
Phát huy vai trò của khối liên minh công – nông – trí ở nước ta hiện nay, đó là giải quyết tốt những
vấn đề XH:
thứ nhất, nước ta vừa trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, trong đó nông dân, nông thôn
có đóng góp trực tiếp lớn về người và của cho đất nước, cũng như làm nhiệm vụ quốc tế. Vì
vậy Đảng và Nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, đặc biệt là
các gia đình thuộc diện chính sách.
Thứ hai, phải giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn nhất là thanh niên học
sinh, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ …

Thứ ba, chống mù chữ, nâng cao dân trí và đời sống VH, tinh thần cho nông dân, đấu tranh
loại trừ các tệ quan liêu, tham nhũng mất dân chủ …
Thứ tư, Đảng và Nhà nước cần gắn chặt việc quy hoạch phát triển CN đô thị với quy hoạch
và phát triển nông thôn.
14
Thứ năm, cần đề ra chính sách sử dụng, bồi dưỡng và đãi ngộ thỏa đáng đối với trí thức.
Thứ sáu, đào tạo đội ngũ trí thức mới đủ sức đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển khoa
học và công nghệ hiện đại của đất nước trong những năm tới, như Đại hội VII của Đảng ta
đã chủ trương “sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nước.
Phát triển giáo dục và VH, nâng cao dân trí”, đó là những nhiệm vụ mà trí thức ở nước ta
phải trực tiếp nghiên cứu, đề xuất những chính sách, giải pháp và trực tiếp tham gia vào
những hoạt động đổi mới. Thứ bảy, đổi mới việc tổ chức, lãnh đạo, cơ chế quản lý đối với
đội ngũ trí thức. Nhà nước phải kiện toàn hệ thống các tổ chức, cơ quan khoa kỷ thuật để đi
vào hoạt động đồng bộ trong sự phối hợp giữa các ngành khoa học và trong mỗi lĩnh vực …
đạt hiệu quả cao hơn cho XH. Từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý khoa học …
Thành tựu đạt được của cách mạng nói chung và thành tựu KT-XH mới thu được hơn 15 năm
đổi mới ở nước ta đã khẳng định sự đúng đắn của liên minh công – nông – trí và vai trò của
giai cấp công nhân VN mà nòng cốt là Đảng Cộng sản VN tiên phong đã từng bước đưa
cách mạng VN tiến lên con đường xây dựng CNXH, góp phần tích cực vào việc bảo vệ phong
trào cách mạng XHCN trên thế giới, bảo vệ CN Mác-Lênin. Chúng ta luôn tin tưởng rằng
với liên minh công – nông – trí và đặc biệt là đảng lãnh đạo tiên của giai cấp công nhân VN
ở thời đại ngày nay sẽ luôn tiếp nối truyền thống tốt đẹp của ông cha, vững tay lái chèo con
thuyền cách mạng VN cập bến “Dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”,
tiến lên CNXH và mục tiêu cuối cùng là CNCS
Tất yếu liên minh công nông trí trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác trong cuộc
cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện, xây dựng,
được Lê - nin vận dụng phát triển trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CNXH ở nước
Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH.

TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây
15
dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH
và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH.
Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những
tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh với
“người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công
nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN, đã tổ
chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại.
Trong hoàn cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã hội
mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước đây
mà các tầng lớp lao động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức.
Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh công -
nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách mạng
Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951,
Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay của
các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan.
Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài giai cấp công nhân là giai cấp đang
phát triển mạnh mẽ cùng với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội khác
thống nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản với giai cấp tư sản.
Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị thất bại,
theo Mác là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai điếu”.
Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập tan chính quyền của giai cấp thống trị bóc
lột, Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô
sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu
tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó

khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng
không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại
16
nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát
triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện
được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp
được mọi lực
lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc điểm, vai trò, nhu cầu
của các giai cấp tầng lớp.

Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát triển
của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu việt mà
không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi
thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong
việc giải phóng con người, giải
phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự
nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân.
Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu
của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu
cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu
nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập, luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng
chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân luôn có vai trò to lớn
trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của
các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế độ áp
bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác. Mặt khác
nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là lực lượng
sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung cấp lương
thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá

độ. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu cầu tìm đến
với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai cấp
công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ công – nông.
Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc biệt
bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học, trí
tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có
trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ không phải là giai
cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất, họ
17
chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng độc lập. Dưới
các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm công cụ trong tay
mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và cũng luôn có nguyện vọng được giải phóng. Cũng như giai
cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng giải phóng mình thành công. Trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống, càng có điều kiện để phát huy vai trò của mình. Ở mọi quốc
gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có vai trò nghiên cứu khoa học, phát
minh sang chế, vận dụng, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp để
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước
để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy được vị trí vai
trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công nhân và dân tộc để
thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động
sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp
đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu
quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh
đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các
giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng
“không có thế lực nào phá vỡ nổi”
Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức, không chi trong giai đoạn

giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô
sản”. Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, cần phải liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới
liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố. “Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì khối liên
minh…để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”.
Trên cơ sở đó để giai cấp công nhân thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, như mục tiêu Đảng ta đã đề ra
là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực hiện có
kết quả tốt khi tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của Nhà nước
XHCN là xây dựng thành công CNXH, vì lợi ích của toàn thể nhân dân,

nhưng nhân dân lại tập trung chủ yếu trong công nhân, nông dân, trí thức.
Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục têu chung cũng như lợi ích chính trị của từng giai cấp, tầng lớp là
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và những thành quả của cách mạng XHCN, các giai cấp tâng lớp không
18
được tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành một khối liên minh vững
mạnh. Liên minh phải được Đảng cộng sản - đội tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức hoạt
động, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước XHCN và nòng cốt của
khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai cấp tầng lớp công - nông - trí thức ở nước ta còn
tất yếu chính trị từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nhờ sự lãnh đao của Đảng, họ đã đoàn kết lại
trong mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi ích, niềm tin của công
nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết lập vững chắc. Bước vào thờI kỳ quá độ, mối liên kết
chính trị đó tiếp tục được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách quan, là diều kiện
chính tri- xã hội để liên minh công - nông - tri thức ngày càng bền chặt hơn.
Lê - nin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “ chuyên chính vô sản”,
chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải
lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp
lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với nông nghiệp
và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông
nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp. Hồ Chí Minh cũng
chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện trong hội nghị trung ương

bảy( Khóa IX), trung ương bảy (Khóa X).
Câu 8: hãy nêu cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách dân tộc của đảng ta và làm rõ nội dung chính
sách dân tộc của Đảng ta hiện nay
1. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin
Trước tiên, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, sống
trên cùng một lãnh thổ nhất định, có chung một mối quan hệ về kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý. Đặc
trưng chung cơ bản và quan trọng nhất của một dân tộc là có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế - đây
là cơ sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Trên thế giới, sự hình thành của các cộng đồng dân tộc diễn ra không đồng đều. Ở Châu Âu, dân tộc ra
đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của CNTB; còn ở châu Á, trước khi CNTB thâm nhập, do trong quá
trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm và thiên nhiên để sinh tồn, các cộng đồng người kết hợp lại với nhau
hình thành một quốc gia độc lập, vì thế dân tộc được ra đời sớm hơn khi CNTB hình thành.
Từ khi dân tộc ra đời, vấn đề dân tộc luôn luôn được đặt ra và thu hút sự chú ý của mọi giai cấp và tầng
lớp xã hội quan tâm. Nội dung của vấn đề dân tộc, trước tiên là quan hệ giữa các tộc người trong một xã hội
nằm trong khuôn khổ một quốc gia dân tộc về các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, ngôn ngữ… và những
vấn đề này thường kết hợp với những lợi ích giai cấp, nên các phong trào dân tộc đều mang tính giai cấp sâu
sắc. Ngày nay, tình hình dân tộc trên thế giới diễn biến rất phức tạp, đa dạng và gay gắt, giảii quyết vấn đề
19
này ở từng lúc, từng nơi có khi phải bằng vũ trang quân sự. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn
đề quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc, như ở Tiệp Khắc
cũ, Liên Xô cũ, Nam Tư cũ, Inđônêsia hay vấn đề ở Đông Timor Vấn đề dân tộc còn đề cập đến quan hệ
giữa các quốc gia dân tộc và sự phát triển của thế giới nói chung với tư cách là công đồng quốc tế của các
dân tộc.
Vấn đề dân tộc luôn gắn với tính giai cấp và mỗi giai cấp đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp mình
trong quan niệm và tham gia phong trào dân tộc. Đối với các nước XHCN thì bao giờ quan hệ dân tộc và
quan hệ giai cấp cũng gắn bó với nhau, giải quyết vấn đề dân tộc chính là giải quyết vấn đề giai cấp và ngược
lại. Còn đối với các nước TBCN thì giai cấp thống trị luôn lợi dụng vấn đề dân tộc để phục vụ cho lợi ích của
giai cấp thống trị, vì thế quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp tách rời nhau, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp
tách rời nhau.
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong điều kiện của CNTB, Lênin đã phát hiện ra hai

xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc.
Một là xu hướng phân lập, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân cư muốn
tách ra thành lập quốc gia dân tộc độc lập.
Hai là xu hứơng liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau, do sự phát triển của LLSX, của khoa học và công
nghệ. Ngày nay, các dân tộc có xu hướng liên kết, hợp tác với nhau trong quan hệ thị trường mở rộng dựa
trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi (Ví dụ như thị trường chung châu Âu, châu Á (ASEAN)
…).
Tuy nhiên, hai xu thế này là một thể thống nhất, mỗi nước đều có chủ quyền độc lập, quyền tự chủ, tự quyết
nhằm xây dựng quốc gia dân tộc mình phồn vinh, công bằng, văn minh bên cạnh sự hòa nhập cộng đồng
quốc tế. Hiện nay, vấn đề dân tộc, giai cấp đã trở thành một vấn đề vừa có tính quốc gia, vừa có tính quốc tế,
vừa có tính thời sự vừa có tính lâu dài.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm phong trào cách mạng thế giới trong việc gỉai quyết vấn đề dân tộc, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh Dân
tộc với 3 vấn đề chính bao gồm :

- Một là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Quyền bình đẳng của các dân tộc là quyền thiêng liêng,
không phân biệt dân tộc đông người hay ít người, lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, không phân
biệt chủng tộc, màu da…. Nghĩa là tất cả đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau. Thực chất của bình đẳng
dân tộc là xóa bỏ sự nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác.
20
Từng bước xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Bình đẳng phải được thực hiện
trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội….
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và
phải được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên phạm vi giữa các quốc gia, đấu tranh cho
quyền bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay phải gắn với cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc,
chống chủ nghĩa sôvanh (nước lớn bắt nạt nước bé), chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển
đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Hai là các dân tộc được quyền tự quyết: là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân
tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường phát triển riêng không bị lệ thuộc vào
bên ngoài. Đây cũng là quyền thiêng liêng cơ bản của mỗi dân tộc. Bao gồm: Quyền tự do độc lập về chính

trị, quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc chứ không phải xuất phát từ mưu
đồ lợi ích của một nhóm người nào đó. Và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình
đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ
xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc. Khi xem xét quyền tự quyết của dân
tộc cần phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu thủ đoạn, lợi dụng
chiêu bài dân tộc tự quyết để can thiệp vũ trang và áp bức các dân tộc khác.

- Ba là liên hiệp công nhân giữa các dân tộc: đó là sự đoàn kết của giai cấp công nhân các dân tộc trên
toàn thế giới để đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Đó là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong
trào công nhân. Điều đó xuất phát từ bản chất quốc tế, tinh thần quốc tế vô sản của giai cấp công nhân giải
phóng dân tộc mình và giải phóng các dân tộc khác cùng cảnh ngộ; do chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản
trong các nước tư bản cấu kết nhau, bắt tay nhau chống lại phong trào công nhân, phong trào cách mạng. Vì
vậy, giai cấp công nhân phải đoàn kết liên hiệp lại với nhau để đấu tranh chống lại chúng. Vì vậy đoàn kết
giai cấp công nhân giữa các quốc gia dân tộc là nhân tố quan trọng để giải quyết các vấn đề dân tộc .
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần sáng tạo không được xem nhẹ vấn đề nào. Thực
tiễn cách mạng trên thế giới trong thời gian qua đã chứng minh được tính đúng đắn, khoa học, cách mạng
của Cương lĩnh. Những nơi nào, thời điểm nào quốc gia nào vận dụng đúng đem lại thành quả hết sức to lớn,
ngược lại khi vận dụng sai hoặc bóp méo lý luận dẫn đến thất bại, trì trệ thậm chí bị tan rã, sụp đổ ….
Nhìn chung, Cương lĩnh dân tộc của Lênin đã có những tác dụng tích cực cho các nước
trong tiến trình cách mạng XHCN. Đó là cơ sở cho đoàn kết công nhân quốc tế và phong trào
giải phóng dân tộc; đoàn kết giai cấp công nhân gắn với phong trào giải phóng dân tộc giúp
cho các nước bị thực dân, đế quốc xâm lược có lối thoát trên cơ sở đó tạo điều kiện cho cách
21
mạng vô sản ở các nước sớm nổ ra. Đồng thời, cương lĩnh còn giúp cho các nước khi giai cấp
công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với cương lĩnh mà Lênin đã nêu ra.

Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay.
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là vận dụng Cương lĩnh dân tộc của Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, xuất phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập đã xem vấn đề dân tộc và
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng hàng đầu.
Tính xen kẻ đan xen giữa các tộc người khác nhau đã tạo nên nét văn hóa đa dạng, phong phú trong lối
sống, phong tục tập quán. Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng, một số dân tộc thiểu số có cả chữ viết riêng,
nhưng đều lấy tiếng Việt làm phương tiện ngôn ngữ giao tiếp thống nhất chung.
Do những đặc điểm trên, nên các dân tộc Việt Nam có sự hợp tác, gắn bó nhau trong một
cộng đồng dân tộc, trong một Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Song từ xưa đến nay, vấn đề dân
tộc luôn là vấn đề rộng lớn, phức tạp và lâu dài, cần phải xem xét nó như là vấn đề chính trị,
xã hội rộng lớn, toàn diện gắn liền với mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Xuất phát từ nhiệm vụ đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tạo ra một
quan hệ mới giữa các dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa song song với việc
phát huy tiềm lực kinh tế ở các vùng đồng bào dân tộc ít người và bảo tồn vốn văn hóa quý
báu, đặc thù của các dân tộc và phát huy truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta luôn xem vấn đề dân tộc là vấn đề quan trọng có tính chiến lược, là
yếu tố phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác

mọi tiềm năng của các thành phần dân tộc trong sự nghiệp cách mạng XHCN, nhất là
trong thời kỳ đổi mới hiện nay trên tinh thần “đại đoàn kết dân tộc”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta xác định:
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để
các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển
22
chung của các cộng đồng dân tộc Việt Nam
Từ quan điểm trên, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là phát triển mọi mặt về kinh
tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, từng bước khắc phục dần sự chênh lệch giữa các vùng đồng bằng, trung du,
miền núi, để xây dựng và củng cố mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở tôn trọng lợi
ích, truyền thống lịch sử , văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta thể hiện tập trung một số nội dung, nhiệm vụ chủ yếu như:
Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhằm khắc phục tình trạng kinh tế tự cung tự cấp, mở rộng giao

lưu hàng hoá, ổn định và từng bước cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc ít người. Cụ thể là các chương
trình 135, chương trình Xóa đói giảm nghèo; các chương trình điện, đường, trường, trạm để phát triển giao
thông giữa các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thuận lợi hơn, đưa điện lưới quốc gia về tận các vùng đặc
biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho con em và đồng bào dân tộc được khám chữa bệnh và đến
trường… Chính phủ đặt sự phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số trong quan hệ hữu cơ với các vùng trong
cả nước và trong quan hệ phân công lao động quốc tế là nhu cầu đòi hỏi khách quan.

Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN phù hợp với điều kiện, trình độ sản xuất
nhằm khai thác tiểm năng thế mạnh của từng vùng dân tộc, đặc biệt các vùng dân tộc ít người. Đổi mới chính
sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển và xây dựng nông thôn mới; thực hiện vững chắc công
tác định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc miền núi; sắp xếp bố trí lao động dân cư trên quy mô cả
nước.
Chú trọng nâng cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa, tư tưởng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân
tộc. Tôn trọng phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền thống và bản sắc văn hóa các dân tộc.
Thực hiện chính sách đại đòan kết dân tộc, xây dựng cơ cấu xã hội giai cấp mới, cùng với quá trình phát
triển KT-XH miền núi, làm tăng thên chất lượng mới trong quan hệ giữa các dân tộc. Thực hiện dân chủ hoá
xã hội giữa các vùng dân tộc. Tránh mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, áp đặt một cách quan liêu mệnh lệnh
làm mất khả năng sáng tạo của quần chúng các dân tộc.
Bên cạnh, Đảng và Nhà nước còn có chính sách đối ngoại về vấn đề dân tộc. Với nội dung tư tưởng là:
Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều mặt,
nhiều lĩnh vực, cả song phương, đa phương, trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ
quyền và cùng có lợi.
Trong Văn kiện Đại hội IV của Đảng có nêu: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn
có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình
23
đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, phát
triển SX hàng hóa. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang
dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản sắc văn hóavà thống nhất tốt đẹp của các dân tộc,
thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc,


giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm đến vùng gặp nhiều khó khăn, vùng căn cứ
cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên phát huy vai trò của người tiêu biểu, có uy tín
trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn,
dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”.
Kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra Chiến lược lâu dài về vấn đề dân tộc. Và như ta
thấy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mà 54 dân tộc anh em trong cộng đồng Việt Nam luôn kề vai, sát
cánh, đoàn kết, yêu thương chống giặc ngoại xâm và đang cùng nhau ra sức xây dựng thành công CNXH ở
Việt Nam , bất chấp âm mưu “diễn biến hòa bình”, chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch. Từ đó càng khẳng định cho chân lý sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân
tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi
24

×