BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÝ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT II
Lớp: Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý Nhà nước ngạch Kiểm lâm viên
chính khóa 23
TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
XỬ LÝ HÀNH VI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÁ RỪNG
Họ và tên học viên: Âu Phước Quý
Đơn vị công tác: Hạt Kiểm lâm rừng phòng hộ Dầu Tiếng
Tháng 7 năm 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. MƠ TẢ TÌNH HUỐNG
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Phân tích diễn biến tình huống
3. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
3.2. Cơ sở để giải quyết tình huống
3.3. Đề xuất phương án xử lý tình huống
4. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN
4.1. Kiến nghị
4.2. Kết luận
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang
1
2
3
3
5
10
10
10
12
15
15
17
18
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam rừng là một hệ sinh thái chứa đựng trong đó đa dạng sinh
học rất phong của rừng nhiệt đới. Bảo tồn đang dạng sinh học là yếu tố rất quan
trọng trong phát triển rừng và phát triển bền vững đất nước; bảo vệ và phát triển
rừng bền vững cũng là đảm bảo cho việc bảo tồn đa dạng sinh học và các hệ
sinh thái tự nhiên.
Song việc bảo vệ và phát triển rừng luôn đứng trước những thách thức to
lớn nhất như Việt Nam khi mà phần lớn dân cư vẫn phải sống gần rừng dựa vào
canh tác nông nghiệp. Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà
còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng. Rừng là lá phổi xanh của trái đất
hay nói cách khác, một bộ phận lớn rừng trên thế giới đã và đang cung cấp bầu
khơng khí trong lành để chúng ta hít thở mỗi ngày. Tuy nhiên, trên thực tế, rừng
còn giữ nhiều nhiệm vụ hơn thể nữa, rừng cịn có nhiều loại khác nhau và giữ
những chức năng đa dạng nhất định. Trong đó, có rừng phịng hộ đầu nguồn hồ
nước Dầu Tiếng nằm trên 3 tỉnh Bình Dương, Bình Phước và Tây Ninh
Mặc dù tầm quan trọng của rừng như thế nhưng tình hình cháy rừng, phá
rừng, trộm cắp, vận chuyển lâm sản trái pháp luật vẫn diễn biến phức tạp. Tính
từ 6 tháng đầu năm 2020 đến nay trên địa bàn Hạt Kiểm lâm rừng phòng hộ Dầu
Tiếng quản lý đã xảy ra 12 vụ cháy rừng trồng diện tích 18,69ha; 19 trường hợp
cháy dưới tán rừng tự nhiên với diện tích là 10,60 ha (Chủ yếu là trạng thái đất
trống có cây rãi rác) (số liệu đã được phúc tra) và 02 điểm cháy rừng trồng
(được phát hiện và dập tắt kịp thời): diện tích 2,70 ha. Khởi tố 03 vụ án hình sự,
và phạt vi phạm hành chính nhiều vụ khác;
Vì vậy, để góp phần tạo chuyển biến cơ bản và bền vững trong công tác
quản lý, bảo vệ rừng, phịng cháy chữa cháy rừng, tơi lựa chọn đề tài “Xử lý vi
phạm hành chính đối với hành vi phá rừng trái pháp luật ở huyện Tân
Châu, tỉnh Tây Ninh” làm nội dung cơ bản để viết bài tiểu luận tình huống
quản lý nhà nước.
1
1. MƠ TẢ TÌNH HUỐNG
Lúc 22 giờ 30 phút, ngày 10 tháng 7 năm 2020, nhận được tin báo của
Kiểm lâm phụ trách địa bàn xã Tân Hòa, huyện Tân Châu, Kiểm lâm viên Tài và
Việt thuộc Hạt Kiểm lâm Rừng Phòng hộ Dầu Tiếng phối hợp cùng với Ban quản
lý rừng và địa phương tiến hành kiểm tra tại khu vực Tiểu khu 38 Khu rừng
phòng hộ Dầu Tiếng thuộc phạm vi quản lý của mình và phát hiện ông Lâm Danh
đang tiến hành chặt phá cây rừng. Khi lực lượng kiểm lâm và Tổ công tác đến và
yêu cầu khơng được phép phá rừng thì ơng Lâm Danh đã có hành vi chống đối,
khơng cho lực lượng kiểm lâm thu giữ các công cụ, phương tiện được sử dụng để
phá rừng như gắn máy, cuốc, rựa, đèn pin, hom cây mì giống đang chuẩn bị trồng.
Tuy nhiên ơng Danh cố tình khơng chấp hành và vẫn ngang nhiên dùng cuốc,
tiếp tục trồng, sau một thời gian Tổ công tác tun truyền, thuyết phục thì ơng
Danh tạm dừng hành vi cuốc đất trồng mì và bỏ đi
Ngày 11 tháng 7 năm 2020, dưới sự chỉ đạo của Hạt trưởng các kiểm lâm
viên đến hiện trường thì thấy diện tích rừng phòng hộ bị chặt phá nhỏ. Tiến hành
dùng máy định vị đo đạc xác định diện tích bị phá là 289,6 m 2, trạng thái trên
bản đồ hiện trạng là DT2 (Chủ yếu là trảng cỏ, đất trống có cây gỗ nhỏ rãi rác).
Trên diện tích bị chặt phá khơng có các lồi thực vật rừng, động vật rừng nguy
cấp, quý hiếm thuộc danh mục 87 loài theo Nghị định số 06/2019/NĐ-CP về
quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước
về bn bán quốc tế các lồi động vật, thực vật hoang dã nguy cấp được Chính
phủ ban hành ngày 22/01/2019. Các Kiểm lâm viên đã tiến hành lập biên bản
hiện trường để báo cáo vụ việc cụ thể cho Hạt trưởng. Cùng ngày Bộ phận
Thanh tra - Pháp chế của Hạt tham mưu cho Hạt trưởng ký giấy mời ông Lâm
Danh đến trụ sở cơ quan Hạt Kiểm lâm RPH Dầu Tiếng để làm việc, nhưng ông
Lâm Danh không đến
Ngày 13 tháng 7 năm 2020, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm RPH Dầu Tiếng chỉ
đạo hai Kiểm lâm viên Tài và Việt đến ấp Sóc Con Trăn, nơi ơng Lâm Danh
đang sinh sống để gặp trưởng ấp (già làng) là ông Lâm Sol để yêu cầu giúp lực
2
lượng kiểm lâm tuyên truyền, lấy lời khai, giải thích và vận động ơng Lâm Danh
và gia đình khơng tiếp tục phá rừng để trồng mì nữa
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Cơ sở lý luận
Để phân tích và đưa ra phương án giải quyết hợp tình, hợp lý đối với tình
huống này, cần làm rõ một số lý thuyết về pháp luật trong quản lý nhà nước về
lâm nghiệp và xử phạt vi phạm hành chính như sau:
Nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật: Văn bản quy phạm
pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang
có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo
quy định đó. Như vậy, tình huống này xảy ra vào thời điểm Luật xử lý vi phạm
hành chính 2012 có hiệu lực, các nghị định hướng dẫn cũng đã được ban hành
và có hiệu lực; Nghi định 35/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực lâm nghiệp có hiệu lực từ ngày 10/06/2019. Chính vì vậy, theo
ngun tắc này, ta vận dụng các văn bản pháp luật trên để phân tích và giải
quyết tình huống nêu trên.
Để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, khai thác rừng phục vụ cho phát
triển kinh tế-xã hội và phát triển rừng vì tương lai, lợi ích của quốc gia một cách
có hiệu quả, Nhà nước phải thống nhất quản lý, bảo vệ rừng. Trong đó, quản lý
rừng là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật Nhà nước và các
biện pháp mang tính kinh tế, hành chính, dân sự và cả cưỡng chế trong những
trường hợp cần thiết đến hành vi của các cá nhân, tổ chức trực tiếp tham gia
hoặc có liên quan đến các q trình phát triển, khai thác rừng và các sản vật từ.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nhu cầu gỗ, lâm sản rất lớn, trong
khi dân số ngày càng tăng, công tác quản lý, bảo vệ rừng của các lực lượng chức
năng, đặc biệt là lực lượng kiểm lâm còn hạn chế khiến cho các vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực này gia tăng một cách đáng kể cả về số lượng, tính chất, mức
độ. Vì vậy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý rừng cần gắn bó chặt chẽ với
việc bảo đảm trật tự pháp luật (pháp chế xã hội chủ nghĩa).
3
Theo quy định của Luật Lâm nghiệp 2017, những hành vi dưới đây bị
nghiêm cấm:
“- Chặt, phá, khai thác, lấn, chiếm rừng trái quy định của pháp luật.
- Đưa chất thải, hóa chất độc, chất nổ, chất cháy, chất dễ cháy, công cụ,
phương tiện vào rừng trái quy định của pháp luật; chăn, dắt, thả gia súc, vật nuôi
vào phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng, rừng mới trồng.
- Săn, bắt, nuôi, nhốt, giết, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán động vật rừng,
thu thập mẫu vật các loài thực vật rừng, động vật rừng trái quy định của pháp
luật.
- Hủy hoại tài nguyên rừng, hệ sinh thái rừng, cơng trình bảo vệ và phát
triển rừng.
...”
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam hiện hành, hành vi phá rừng trái pháp
luật là hành vi vi phạm pháp luật và tùy vào tính chất, mức độ vi phạm mà chủ
thể thực hiện sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật.
Xử lý vi phạm pháp luật là một nội dung quan trọng của quản lý nhà nước
về bảo vệ và phát triển rừng. Tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm được pháp luật xác
định chế tài (hình sự, dân sự, hành chính, kỷ luật) và tính chất, mức độ của hành
vi đó mà các chủ thể có thẩm quyền sẽ tiến hành các biện pháp và các thủ tục
cần thiết để truy cứu trách nhiệm pháp lý tương ứng nhằm trừng phạt vi phạm,
khôi phục trật tự pháp lý bị xâm hại và khắc phục các hậu quả của vi phạm đó.
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính. Trong q trình xử lý cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
4
- Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải
bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được
khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
- Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, cơng khai,
khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp
luật;
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
- Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do
pháp luật quy định.
- Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
- Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi
người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó.
- Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm
hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
- Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành
chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại
diện hợp pháp chứng minh mình khơng vi phạm hành chính.
- Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ
chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Điều
này có nghĩa khi phân tích diễn biến tình huống và đưa ra quyết định xử phạt,
người có thẩm quyền cần căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi diễn ra trên
thực tế cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của hành vi để đưa ra mức
phạt phù hợp với các quy định của pháp luật cũng như đảm bảo được mục đích
cưỡng chế của pháp luật. Tuy nhiên, để xác định những tình tiết, dấu hiệu của
hành vi có được xem là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hay khơng thì căn cứ vào
quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính về các tình tiết tăng nặng, giảm
5
nhẹ. Cụ thể, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định trong Luật Xử lý vi
phạm hành chính 2012, cụ thể như sau:
* Các tình tiết giảm nhẹ: (i) Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn
chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi
thường thiệt hại; (ii) Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành
thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính,
xử lý vi phạm hành chính; (iii) Vi phạm hành chính trong tình trạng bị kích động
về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra,vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng; vượt q u cầu của tình thế cấp thiết; (iv) Vi phạm hành
chính do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần; (v) Người vi
phạm hành chính là phụ nữ mang thai, người già yếu, người có bệnh hoặc
khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình; (vi) Vi phạm hành chính vì hồn cảnh đặc biệt khó khăn mà khơng do
mình gây ra; (vii) Vi phạm hành chính do trình độ lạc hậu; (viii) Những tình tiết
giảm nhẹ khác do Chính phủ quy định.
* Các tình tiết tăng nặng: (i) Vi phạm hành chính có tổ chức; (ii) Vi phạm
hành chính nhiều lần; tái phạm; (iii) Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành
niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực
hiện hành vi vi phạm hành chính; (iv) Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần
hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
để vi phạm hành chính; (v) Lăng mạ, phỉ báng người đang thi hành cơng vụ; vi
phạm hành chính có tính chất côn đồ; (vi) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi
phạm hành chính; (vii) Lợi dụng hồn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch
bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm hành chính;
(viii) Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc
đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính; (ix)
Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã
yêu cầu chấm dứt hành vi đó; (x) Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che
giấu vi phạm hành chính; (xi) Vi phạm hành chính có quy mơ lớn, số lượng hoặc
6
trị giá hàng hóa lớn; (xii) Vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người
già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực lâm nghiệp được Chính phủ quy định cụ thể, phân chia cho
từng đối tượng có thẩm quyền thực hiện các hình thức xử phạt theo quy định của
pháp luật. Cụ thể, về hình thức phạt cảnh cáo đối với người thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật về lĩnh vực lâm nghiệp các chủ thể có thẩm quyền theo quy định
trong Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và Nghị định 35/2019/NĐ-CP đều có
quyền áp dụng hình thức xử phạt này. Về hình thức xử phạt tiền, Luật xử lý vi
phạm hành chính 2012 và Nghị định 35/2019/NĐ-CP phân chia các mức phạt
cho các chủ thể có thẩm quyền khác nhau như kiểm lâm viên đang thi hành cơng
vụ thì được phạt tiền đến 500.000 đồng, trạm trưởng trạm kiểm lâm có quyền
phạt tiền đến 10.000.000 đồng, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm có quyền phạt tiền đến
25.000.000. Như vậy, khi xem xét xử lý một hành vi vi phạm pháp luật hành
chính về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, cần xem xét cụ thể hành vi khách
quan và đối chiếu với các quy định của pháp luật để ra quyết định xử phạt cho
đúng thẩm quyền.
Về mức phạt tiền áp dụng đối với người vi phạm hành chính, pháp luật quy
định một khoảng nhất định để cá nhân, cơ quan có thẩm quyền khi ra quyết định
xử phạt với hình thức phạt tiền có thể căn cứ vào các quy định của pháp luật
cũng như tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân người vi phạm, hoàn cảnh
thực hiện hành vi vi phạm,… để ra mức xử phạt hợp tình, hợp lý. Theo các quy
định của pháp luật, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính
là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có
tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng khơng được giảm
q mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền
phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung
tiền phạt. Như vậy, khi ra quyết định xử phạt, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
cần xem xét lưu ý những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để ra quyết định mức phạt
cho phù hợp.
7
2.2. Phân tích diễn biến tình huống
Trong tình huống vi phạm pháp luật của ông Lâm Danh là một điển hình
về hoạt động phá rừng trồng cây nơng nghiệp ngắn ngày như: trồng mì, trồng
ngơ, trồng cây lâu năm như cây cao su, điều, cây mít…ở trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh.
Theo các quy định pháp luật hiện hành, có thể xác định các hành vi vi
phạm của ông Lâm Danh như sau:
- Với diện tích rừng phịng hộ bị chặt phá để lấy đất sản xuất cây nông
nghiệp ngắn ngày là 289,6 m2, ông Lâm Danh đã thực hiện hành vi phá rừng trái
pháp luật. Theo quy định tại Điều 20, Nghị định Số 35/2019/NĐ-CP, ngày 25
tháng 4 năm 2019 của Chính phủ thì “Hành vi chặt, đốt, phá cây rừng, đào, bới,
san ủi, nổ mìn; đắp đập, ngăn dịng chảy tự nhiên, xả chất độc hoặc các hành vi
khác gây thiệt hại đến rừng với bất kỳ mục đích gì (trừ hành vi quy định tại Điều
13 của Nghị định này) mà không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền,” thì bị xử phạt bằng các hình thức và theo các khung tiền phạt được xác
định từ khoản 1 đến khoản 13, Điều 20 của Nghị định Số 35/2019/NĐ-CP.
Loại rừng mà ông Lâm Danh chặt phá là rừng phịng hộ, có diện tích dưới
300 m2; thì bị áp dụng hình thức xử phạt là phạt tiền (hình thức xử phạt chính);
Tịch thu tang vật, cơng cụ, phương tiện vi phạm (hình thức phạt bổ sung); Buộc
khơi phục lại tình trạng ban đầu; buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng
ơ nhiễm mơi trường, lây lan dịch bệnh; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được
do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định
của pháp luật; buộc trồng lại rừng hoặc thanh tốn chi phí trồng lại rừng đến khi
thành rừng theo suất đầu tư được áp dụng ở địa phương tại thời điểm vi phạm
hành chính đối với hành vi quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4,
khoản 5, khoản 6, khoản 7, khoản 8, khoản 9 và khoản 10 Điều này (biện pháp
khắc phục hậu quả).
8
Căn cứ quy định tại Điều 20 của Nghị định Số 35/2019/NĐ-CP, vi phạm
của ông Lâm Danh không cấu thành tội phạm theo quy định tại Điều 243 của Bộ
Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017.
Căn cứ quy định Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì ơng Lâm
Danh, sinh năm 1970 đủ năng lực gánh chịu trách nhiệm hành chính.
Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 20 Nghị định số 35/2019/NĐCP, ông Lâm Danh bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền. Theo quy
định thì khung tiền phạt là từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng. Theo quy
định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, vi
phạm của ơng Lâm Danh khơng có tình tiết tăng nặng và cũng khơng có tình tiết
giảm nhẹ. Vì vậy, trong quyết định khơng áp dụng tình tiết tăng nặng, cũng
khơng áp dụng tình tiết giảm nhẹ và áp dụng mức trung bình của khung tiền
phạt.
- Trong tình huống trên lãnh đạo Hạt chỉ đạo kịp thời và các Kiểm lâm
viên thực thi công vụ đã lựa chọn phương án hành động hợp lý, vừa đảm bảo
yêu cầu của pháp luật trong việc lưu giữ căn cứ cho việc đấu tranh, xử lý vi
phạm (lập biên bản về vi phạm hành chính), vừa tuyên truyền, phối hợp tốt với
địa phương để xử lý kịp thời, triệt để đối tượng tiếp tục vi phạm. Đồng thời, tiến
hành tham mưu, sử dụng các biện pháp quản lý mềm dẻo để tác động đến nhận
thức, thái độ của đồng bào nhằm từng bước tạo sự chuyển biến về hành vi chấp
hành pháp luật trong công tác quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trên địa
bàn được tốt hơn.
* Nguyên nhân xảy ra tình huống
- Nguyên nhân khách quan
+ Địa bàn rộng, hiện trạng rừng rất phức tạp, một số nơi đất có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp trùng trên đất lâm nghiệp, người dân sống gần rừng
nhiều và điều kiện sinh sống của đồng bào dân tộc ít người rất khó khăn; bó mật
thiết với rừng, đất rừng và thường có tập quán sinh sống là đốt rừng làm rẫy, săn
bắt thú rừng.
9
+ Áp lực về dân số ở các khu vực có rừng tăng nhanh do tăng cơ học,
người dân di cư tự do từ Campuchia về, đòi hỏi cao về đất ở và đất canh tác,
những đối tượng này chủ yếu là những hộ nghèo, đời sống gặp nhiều khó khăn,
sinh kế chủ yếu dựa vào đánh bắt cá, động vật rừng và khai thác lâm sản trái
phép. Nhận thức về bảo vệ rừng cịn hạn chế, do đó vẫn tiếp tục phá rừng kiếm
kế sinh nhai, lấy đất canh tác hoặc làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền để phá
rừng hoặc khai thác gỗ, lâm sản trái phép.
+ Đa số những người dân sống gần rừng không biết chữ nên việc tiếp cận
thơng tin cịn hạn chế ít nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng. Vì vậy, để mưu sinh, một bộ phận
đồng bào dân tộc ít người vẫn sống theo tập quán cũ, thậm chí phá rừng, đốt
rừng làm rẫy, tiếp tay cho lâm tặc vận chuyển lâm sản.
+ Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình
hình mới, nhiều cơng trình xây dựng (nhà máy xi măng FICO Tây Ninh), đường
xá (đường biên giới Việt Nam và Campuchia và cơ sở hạ tầng khác được xây
dựng gây áp lực lớn đối với rừng và đất lâm nghiệp, tạo môi trường thuận lợi
cho các hoạt động phá rừng, khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép đi qua
rừng.
+ Thể chế pháp lý trong quản lý, bảo vệ rừng và xử phạt các hành vi phá
rừng làm rẫy còn nhiều hạn chế
Hiện nay, một số chủ trương, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với
tình hình thực tế ở địa phương như: Việc chi trả kinh phí cho các hộ dân nhận
khốn rừng rất thấp 300 ngàn đồng/ha/năm. Các hộ nhận khốn bảo vệ rừng
chưa có chính sách hưởng lợi hợp lý theo lượng tăng bình quân hàng năm của
rừng, nên cuộc sống của người dân khơng đảm bảo, khơng làm trịn trách nhiệm
trong cơng tác bảo vệ rừng. Các cấp chính quyền địa phương cịn thiếu kiên
quyết trong việc di dời các điểm dân cư tự phát nằm giữa ngay rừng, mà còn tiến
hành hợp thức hóa thành các điểm dân cư hành chính cho họ, mặc dù các hộ dân
cư đó đang lấn chiếm đất rừng do Nhà nước quản lý (Khu vực dân cư Tổ 7, ấp
Con Trăn, xã Tân Hòa).
10
+ Theo quy định của pháp luật hành vi phá rừng có khung tiền phạt khá
cao (so với mức sống và thu nhập của đồng bào dân tộc ít người) nhưng khó có
thể đảm bảo thực hiện được do họ khơng có gì để cưỡng chế dẫn đến hiện tượng
“nhờn luật”. Đây cũng là nguyên nhân chính làm gia tăng tình trạng phá rừng,
lấn chiếm đất rừng của nhiều hộ đồng bào dân tộc ít người.
+ Năng lực quản lý và bảo vệ rừng của nhiều chủ rừng và cơ quan chức
năng còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của việc ngăn chặn các hành vi phá
rừng làm rẫy của đồng bào dân tộc ít người.
+ Quyền hạn của các hộ nhận khoán bảo vệ rừng của chủ rừng trong công
tác quản lý, bảo vệ rừng hầu như không có, chỉ được phép ngăn chặn và báo cáo
xin ý kiến, do đó hạn chế về nhiều mặt đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng.
+ Chủ rừng chưa thành lập lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách, chưa có
chế độ ưu đãi phù hợp dù trên thực tế các hộ nhận khốn là lực lượng chính để
giữ rừng. Vì vậy, gánh nặng cơng tác quản lý, bảo vệ rừng dồn lên vai lực lượng
kiểm lâm, trong khi đó, lực lượng kiểm lâm mỏng, địa bàn thì phức tạp
- Nguyên nhân chủ quan
+ Các ngành, các cấp chính quyền cịn đùn đẩy trách nhiệm, một số địa
phương phân cơng chưa rõ ràng giữa Hạt Kiểm lâm và Phịng Nơng nghiệp và
PTNT, đặc biệt là cấp xã nhận thức chưa đầy đủ, tổ chức thực hiện thiếu nghiêm
túc trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp. Ở những điểm
nóng phá rừng, do lợi ích cục bộ, đã làm ngơ, thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho
các hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang nhượng đất đai trái phép,
nhưng không bị xử lý nghiêm túc.
+ Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và cơ chế chính
sách về lâm nghiệp chưa được thực hiện có hiệu quả, chưa có loa tuyên truyền
bằng tiếng của dân tộc ít người
+ Một số đơn vị chủ rừng có biểu hiện thiếu trách nhiệm, thông đồng, tiếp
tay cho hành vi phá rừng. Các diện tích rừng chưa có chủ, thuộc trách nhiệm
quản lý của Uỷ ban nhân dân xã, nhưng chưa có cơ chế để chính quyền cấp xã
thực hiện cơng tác quản lý, bảo vệ rừng có hiệu quả.
11
+ Chưa huy động tốt các lực lượng của xã hội cho bảo vệ rừng. Phối hợp
giữa các lực lượng Cơng an, Qn đội, Kiểm lâm ở địa phương cịn mang tính
hình thức, chưa thật sự có hiệu quả, nhiều tụ điểm phá rừng trái phép chưa có
phương án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp thời, thiếu
kiên quyết, cịn có những quan điểm khác nhau của các cơ quan chức năng ở
một số địa phương.
+ Cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút các nguồn
lực cho bảo vệ rừng chưa xã hội hóa được nghề rừng.
+ Cơng tác quy hoạch, kế hoạch chưa đồng bộ với các quy hoạch khác
như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, sử dụng đất đai,... nên quy hoạch không
được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên bị phá vỡ.
* Hậu quả của tình huống
Khi xảy ra phá rừng thì tài nguyên rừng bị mất đi sẽ rất lâu và rất khó
hoặc khơng thể khôi phục lại được. Các nguồn gen quý hiếm, cần được bảo tồn
sẽ bị thiệt hại, bị mất đi, làm mất chỗ sinh sống của động, thực vật rừng.
Nếu không được ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh sẽ tạo cơ hội
cho lâm tặc phá rừng, khai thác rừng trái phép, làm cho tài nguyên rừng bị cạn
kiệt một cách nhanh chóng, Rừng phịng hộ Dầu Tiếng là rừng đầu nguồn bảo vệ
hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam, góp phần bảo vệ mơi trường, cung cấp
nước ngọt cho Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Vì vậy, khi xâm hại
đến các nhóm đối tượng của rừng phòng hộ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nơi sinh
sống của nhiều loài động thực vật rừng, việc bảo vệ nguồn nước sạch, nước
ngầm là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, không kém an ninh
quốc gia và đều có những phương án ứng phó khẩn cấp khi nguồn nước gặp sự
cố
Khi rừng bị xâm hại thì ảnh hưởng lớn đến các nguồn lực (nhân lực, vật
lực, tài lực) mà Nhà nước đã, đang và sẽ đầu tư cho trong công tác quản lý, bảo
vệ và phát triển rừng.
12
Ảnh hưởng về mơi trường, khí hậu, đất đai do mất rừng ảnh hưởng đến đời
sống, sản xuất của người dân thì Nhà nước phải tổ chức khắc phục hậu quả. Với
các vi phạm pháp luật phát sinh trong quản lý, bảo vệ rừng cũng khiến Nhà nước
phải đầu tư về nhân lực, về phương tiện, cơng cụ, tài chính, về cơ chế, chính
sách, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho các lực lượng quản lý, bảo vệ rừng và xử
lý vi phạm.
3. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Mục tiêu của việc giải quyết tình huống trên là nhằm đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật trong công tác xử lý vi phạm quy định về quản lý,
bảo vệ rừng, đồng thời làm cho người dân nhận thức đúng trách nhiệm, loại bỏ
phong tục, tập quán lạc hậu, đốt rừng, phá rừng, ổn định đời sống và tham gia
vào sự nghiệp quản lý, bảo vệ, phát triển rừng trên những địa bàn có rừng
3.2 Cơ sở để giải quyết tình huống
a) Cơ sở pháp lý
Năm 2004, Quốc hội ban hành Luật số 29/2004/QH11 về bảo vệ và phát
triển rừng (gọi tắt là Luật bảo vệ và phát triển rừng); Sau 15 năm thực hiện, văn
bản này đã khơng cịn đáp ứng được các u cầu quản lý và phát triển rừng thời
kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
sâu, rộng vào các quan hệ quốc tế trong khu vực và thế giới. Vì vậy, ngày 15
tháng 11 năm 2017, Quốc hội ban hành Luật số 16/2017/QH14 quy định về quản
lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng; chế biến và thương mại lâm sản (gọi tắt là
Luật Lâm nghiệp).
Hiện nay, với các vi phạm hành chính trong quản lý, bảo vệ rừng được xử
lý theo Nghị định Số 35/2019/NĐ-CP, ngày 25 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ
thì. Nghị định này cịn xác lập cơ sở pháp lý cho việc xác định ranh giới giữa vi
phạm hành chính và tội phạm (Điều 243 của Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi năm
2017). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vi phạm, các đối tượng thường
không chỉ dừng lại ở các hành vi vi phạm trên mà có thể kéo theo các vi phạm
khác (hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật). Vì vậy, quá trình xử lý thường hết
13
sức phức tạp, bởi không chỉ xác định đúng vi phạm, áp dụng đúng chế tài, đảm
bảo thực thi quyết định vì sự nghiêm minh của pháp luật mà cịn phải đảm bảo
cả các yêu cầu về chính trị-xã hội, ổn định an ninh, trật tự địa phương.
Tổ chức và hoạt động của lực lượng Kiểm lâm được quy định tại Nghị
định Số 01/2019/NĐ-CP ngày 01/01/2019 về Kiểm lâm và lực lượng chuyên
trách bảo vệ rừng.
Từ Điều 3 đến Điều 10 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và
Điều 21, 23, 26, 28, 43 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
Điều 9 của Luật Lâm nghiệp 2017 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm
trong hoạt động lâm nghiệp.
Điều 20 của Nghị định Số 35/2019/NĐ-CP, ngày 25 tháng 4 năm 2019
của Chính phủ.
b) Đường lối, quan điểm xử lý, giải quyết
Áp dụng đúng các quy định pháp luật để xử lý đúng người đúng tội nhưng
có tính đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân người vi phạm, điều kiện,
hoàn cảnh kinh tế gia đình, trình độ dân trí.
Phát hiện và ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm, tiến hành xử lý theo quy
định của pháp luật với tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và tạo các điều kiện
thuận lợi cho nhân dân ổn định về đời sống vật chất, tinh thần để ổn định về an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn để những người vi phạm không
tái phạm hoặc phạm tội nhiều lần.
Ngăn chặn vi phạm tiếp diễn, không để các hộ dân khác làm theo, huy
động lực lượng và các nguồn lực một cách hiệu quả để khắc phục các hậu quả do
vi phạm pháp luật.
c) Kinh nghiệm xử lý, giải quyết những tình huống tương tự:
Trong q khứ có những tình huống tương tự như thế nếu không kịp thời,
kiên quyết ngăn chặn hành vi vi phạm thì đối tượng vị phạm tiếp tục phá rừng
và các hộ dân khác thấy vậy bắt chước làm theo gây ra nhiều hậu quả hơn
Khi làm việc với người dân tộc ít người thì nên mời già làng (trưởng ấp
Sóc Con Trăn) đối tượng sẽ không chống đối Kiểm lâm và nghe theo lời của già
14
làng. Tập trung tham mưu cho chính quyền UBND xã đề nghị cấp có thẩm
quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống vật chất, nhu cầu sản xuất,
canh tác của người dân nhất là người dân tộc ít người.
d) Cơ sở thực tiễn để giải quyết tình huống
Khi Kiểm lâm lập biên bản để xử phạt vi phạm hành chính vì đối tượng sẽ
dừng lại việc phá rừng vừa mang tính răn đe vừa mang tính giáo dục, với mức
phạt như thế nếu đối tượng khơng có tiền phạt thì làm thủ tục cưỡng chế và xếp
lại hồ sơ để đó từ đó đối tượng khơng dám tiếp tục phá rừng
3.3. Đề xuất phương án xử lý tình huống
- Phương án 1. Xử phạt vi phạm hành chính đối với ơng Lâm Danh
bằng hình thức xử phạt cảnh cáo
Cảnh cáo là hình phạt ln đứng đầu nhất tương ứng với hình phạt nhẹ
nhất, nhắc nhở và khiển trách công khai của pháp luật đối với cá nhân, tổ chức
khi vi phạm liên quan đến các lỗi nhẹ, mang tính chất khơng nghiêm trọng.
+ Ưu điểm:
Khi áp dụng phương án này là phát huy tác dụng của giáo dục, thuyết
phục đối với người dân tộc ít người vốn có điều kiện kinh tế gia đình cịn khó
khăn. Việc áp dụng hình thức phạt cảnh cáo có tác dụng vừa thể hiện thái độ
khơng đồng tình với các hành vi vi phạm, vừa thể hiện chính sách nhân đạo,
khoan hồng của Nhà nước với đồng bào dân tộc ít người. Vì vậy, u cầu về
chính trị sẽ đạt được.
+ Nhược điểm:
Yêu cầu về mặt pháp lý lại rất hạn chế. Theo Điều 21 Luật Xử lý vi phạm
hành chính thì cảnh cáo được áp dụng đối với với hình phạt nhẹ nhất, nhắc nhở
và khiển trách công khai của pháp luật đối với cá nhân, tổ chức khi vi phạm liên
quan đến các lỗi nhẹ, mang tính chất khơng nghiêm trọng, vi phạm trong tình
huống trên khơng thuộc lỗi nhẹ, lại có cả hậu quả để lại nên nếu áp dụng cảnh
cáo thì khơng phù hợp về mặt pháp lý. Đối tượng vi phạm sẽ tiếp tục vi phạm
nếu có đối tượng khác lơi kéo
15
- Phương án 2. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật gắn với tuyên truyền, giáo dục và tạo điều kiện cho vợ chồng ông Lâm
Danh chấp hành quyết định xử phạt
Vi phạm hành chính của ơng Lâm Danh khơng có tình tiết tăng nặng và có
tình tiết giảm nhẹ (gia đình có hồn cảnh rất khó khăn). Vậy phải áp dụng các
tình tiết đó như thế nào để quyết định xử phạt là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
trong đảm bảo sự kết hợp hài hồ yếu tố chính trị, pháp lý trong xử lý vụ việc.
Hành vi vi phạm của ông Lâm Danh bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết pháp luật
(do điều kiện cư trú, sinh sống, kinh tế). Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến
hành vi phá rừng, không chấp hành u cầu của người thi hành cơng vụ. Theo
đó, chỉ áp dụng mức phạt là 3.000.000 đồng (mức thấp nhất của khung tiền phạt)
đối với ông Lâm Danh. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 20 Nghị định
số 35/2019/NĐ-CP, ơng Lâm Danh bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt
tiền. Theo quy định thì khung tiền phạt là từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000
đồng. Theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012, vi phạm của ơng Lâm Danh khơng có tình tiết tăng nặng và có tình
tiết giảm nhẹ. Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc trồng lại rừng.
+ Ưu điểm:
Phương án này là đảm bảo kết hợp hài hoà các yếu tố chính trị với yếu tố
pháp lý. Vừa thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật, có giá trị phòng ngừa
và đấu tranh chung với các vi phạm pháp luật trên địa bàn, vừa thể hiện được
chính sách nhân đạo của Nhà nước với vi phạm của đồng bào dân tộc ít người.
Đồng thời, kết hợp với tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho ông Lâm Danh để
thấy được sự linh hoạt trong áp dụng pháp luật của lực lượng Kiểm lâm vì lợi ích
của gia đình ơng nhưng cũng để răn đe các đối tượng khác cố ý xâm hại đến rừng.
+ Nhược điểm:
Phương án này có nhược điểm là số tiền phạt cao (so với thu nhập của ơng
Lâm Danh), biện pháp khắc phục hậu quả khó có thể được đảm bảo nếu khơng có
các biện pháp thường xuyên kiểm tra, giám sát cần thiết từ phía các cơ quan chức
năng, trong đó có UBND xã và lực lượng kiểm lâm địa bàn xã.
16
* Lựa chọn phương án giải quyết
Trong hai phương án trên, mỗi phương án đều có những ưu, nhược điểm
nhất định. Từ những ưu, nhược điểm của 2 phương án trên, tiểu luận lựa chọn
phương án 2 là phương án tối ưu để giải quyết tình huống.
* Tổ chức thực hiện phương án tối ưu
Để thực hiện được phương án tối ưu (phương án 2), cần thực hiện một số
việc như sau: cùng đến nhà ông Lâm Danh để yêu cầu đến cơ quan kiểm lâm
giải quyết vi phạm.
- Vận động, thuyết phục trưởng ấp (già làng)
Vai trò của trưởng ấp (già làng) rất lớn, vì vậy, trước hết cần thuyết phục
trưởng ấp ủng hộ lực lượng kiểm lâm trong xử lý hành vi vi phạm của ông Lâm
Danh. Sau đó, cùng trưởng ấp đến nhà Lâm Danh giải thích cho họ rõ các quy
định của pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng; các hành vi bị nghiêm cấm trong
lĩnh vực này; chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm của ơng Lâm Danh.
Q trình vận động, thuyết phục phải trên tinh thần vì lợi ích của họ,
khơng bài xích, khơng áp lực để họ hiểu ra hành vi của mình là sai trái. Từ đó,
thuyết phục họ ký vào các biên bản vi phạm để làm cơ sở cho việc xử lý. Sau đó,
hẹn họ đến trụ sở của cơ quan Hạt Kiểm lâm để giải quyết. Nhắc nhở họ trong
thời gian chờ xử lý không được tiếp tục thực hiện vi phạm nếu không sẽ khơng
được hưởng chính sách của Nhà nước.
- Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng phòng hộ ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối ơng Lâm Danh bằng hình thức phạt tiền, mức tối thiểu là
3.000.000 đồng và buộc ông phải trồng lại rừng. Quyết định xử phạt sau khi
được ban hành phải giao cho ông Lâm Danh trong thời gian 3 ngày, kèm theo
công tác thuyết phục, động viên để ông yên tâm chấp hành quyết định xử phạt.
- Kiểm lâm địa bàn tham mưu cho Chủ tịch UBND xã giúp đỡ gia đình
ơng Lâm Danh trong thời gian thực hiện quyết định xử phạt
Đề nghị BQL RPH Dầu Tiếng ký hợp đồng cho hộ gia đình ơng Lâm
Danh thuê rừng, nhận khoán rừng theo khả năng. Cử cán bộ hướng dẫn gia đình
17
ông hoặc khi có lớp tập huấn kiến thức về sản xuất lâm nghiệp, nơng nghiệp thì
mời hộ gia đình ông cùng tham gia học tập để nâng cao hiểu biết.
Bên cạnh đó, UBND xã cần chỉ đạo các ấp, sóc xây dựng và thực hiện
quy ước quản lý, bảo vệ, phát triển rừng; tổ chức và huy động lực lượng quần
chúng trên địa bàn phối hợp với kiểm lâm, lực lượng công an, quân đội trên địa
bàn phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi xâm hại rừng.
4. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN
4.1. Kiến nghị
- Đối với Đảng, Nhà nước
Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc tăng cường công tác
thông tin, tuyên truyền (bằng tiếng dân tộc ít người) về các vấn đề liên quan đến
công tác quản lý, bảo vệ rừng để tạo sự đồng thuận trong xã hội; nâng cao nhận
thức và ý thức bảo vệ rừng trong Nhân dân
Chính phủ tiếp tục quan tâm đến chất lượng xây dựng pháp luật, kịp thời
ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, bảo đảm đồng bộ, khả thi của hệ
thống pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp. Bộ Tư pháp chú trọng công tác tuyên
truyền, phổ biến, theo dõi thi hành pháp luật, gắn với công tác kiểm tra, xử lý
văn bản; thực hiện sơ kết, đánh giá việc thi hành Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp đề nghị các cơ quan, tổ chức
Đảng và Nhà nước, chính quyền các cấp
Chính phủ cần ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp
luật, quy chế, quy trình, quy phạm, các tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật
về bảo vệ và phát triển rừng và tổ chức chỉ đạo việc thực hiện. Tổ chức và chỉ
đạo thực hiện việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo
nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng
Hợp tác quốc tế để thu hút các nguồn vốn ODA và các hỗ trợ kỹ thuật của
cộng đồng quốc tế cho công tác bảo vệ rừng.
- Đối với cơ quan chức năng
Bộ Tài nguyên và Mơi trường, chính quyền các địa phương tăng cường
cơng tác quản lý đất đai; rà sốt, sửa đổi, hồn thiện các chính sách, quy định
18
pháp luật, nhất là các quy định liên quan đến đất lâm nghiệp, đảm bảo cơng
khai, minh bạch, hài hịa giữa quyền lợi của người dân, Nhà nước và doanh
nghiệp nhất là đối với ranh giới cos 24.4 giữa BQL RPH Dầu Tiếng và Cơng ty
Thủy lợi Phước Hịa Tây Ninh (hai ranh giới này đang chồng lấn nhau)
Kiến nghị Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh: tiếp tục chỉ đạo
quyết liệt Ban quản lý rừng phòng hộ Dầu Tiếng thực hiện nghiêm Luật Lâm
nghiệp; đồng thời có biện pháp nâng cao vai trò của người đứng đầu; kiểm tra,
giám sát, chỉ đạo, kịp thời ngăn chặn xử lý đối với cán bộ để xảy ra vi phạm; Có
biện pháp tăng cường tuần tra, kiểm sốt, bảo vệ rừng; đồng thời tổ chức kiểm
điểm làm rõ trách nhiệm của các cá nhân, đơn vị để xảy ra vi phạm và có hình
thức xử lý đúng theo quy định của pháp luật;
Tăng cường trang thiết bị cho kiểm lâm gồm các phương tiện hoạt động
phù hợp với địa bàn nhất là xe gắn máy phục vụ cho công tác tuần tra, kiểm tra
rừng. Đánh giá nhu cầu đào tạo về quản lý bảo vệ rừng, lập kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng về chun mơn nghiệp vụ và chính trị cho các đối tượng.
Đối với chính quyền tỉnh, huyện, xã cần có các chính sách thiết thực để hỗ
trợ nâng cao đời sống người dân, nhất là đồng bào dân tộc ít người như đẩy
mạnh việc giao rừng và đất lâm nghiệp, khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia đình,
cộng đồng dân cư sống gần rừng. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ của Nhà nước
cho người dân tộc ít người, tạo việc làm ổn định, cung cấp giống cây rừng và một
số vật tư cần thiết khác cho đồng bào dân tộc tại chỗ để chuyển căn bản họ sang
trồng rừng
4.2 Kết luận
Hiện nay, hệ thống pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ngày càng hoàn
thiện; chế độ chính sách lâm nghiệp, nhất là chính sách chi trả dịch vụ mơi
trường rừng, giao đất, giao rừng, khốn bảo vệ rừng và quyền hưởng lợi từ rừng
được ban hành và bước đầu đi vào cuộc sống. Nhà nước đã tăng cường đầu tư
thơng qua nhiều chương trình, dự án đã tác động tích cực vào bảo vệ rừng.
Song rừng vẫn bị tàn phá do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
từ sự thiếu hiểu biết pháp luật và do phong tục, tập quán lạc hậu của một bộ
19
phận đồng bào dân tộc ít người. Các ngành chức năng đã áp dụng nhiều biện
pháp cương quyết như tổ chức các đợt truy quét các vùng trọng điểm phá rừng,
giải tỏa các tụ điểm mua bán lâm sản trái phép, ngăn chặn chuyển đổi mục đích
sử dụng đất lâm nghiệp ngoài quy hoạch.
Trong thời gian tới để tạo ra sự chuyển biến tích cực việc thực hiện Luật
Xử lý vi phạm hành chính trong cơng tác quản lý bảo vệ rừng, cần tăng cường
hơn nữa sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, sự nỗ lực
của lực lượng Kiểm lâm và các cơ quan đơn vị liên quan trong việc tuyên
truyền, quán triệt chỉ đạo, tăng cường năng lực xử lý vi phạm hành chính, và xử
lý thật nghiêm để tiến đến chấm dứt các hành vi vi phạm về quản lý bảo vệ rừng,
tạo tiền đề thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp
bền vững trong giai đoạn tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 26-NQ/TƯ của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
2. Kết luận số 54-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 7, khóa X về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn;
3. Luật Lâm nghiệp năm 2017 số 16/2017/QH14 được Quốc hội thông qua ngày
15/11/2017 quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng; chế biến và
thương mại lâm sản.
4. Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 số 15/2012/QH13 được Quốc hội thông
qua ngày 20 tháng 6 năm 2012
5. Nghị định Số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ Quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp
6. Nghị định Số 35/2019/NĐ-CP, ngày 25 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ Quy
định xử phạt hình chính trong lĩnh vực lâm nghiệp
7. Nghị định số 01/2019/NĐ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ Quy định về Kiểm
lâm và lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng.
20
8. Nghị định số 81/2013/NĐ-CP, ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ Quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính
9. Nghị định số 97/2017/NĐ-CP, ngày 18 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP, ngày 19 tháng 7 năm
2013 của chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử
lý vi phạm hành chính
10. Nghị định Số 06/2019/NĐ-CP, ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ về
quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi cơng ước
về bn bán quốc tế các lồi động vật, thực vật hoang dã nguy cấp
21