Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Phát triển sản phẩm rượu vang của Công ty CPSP thiên nhiên Vinacom

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.24 KB, 50 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn do quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đem lại.Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu đang có
những bước chuyển mạnh mẽ để theo kịp sự xu thế phát triển chung của toàn thế giới hiện nay.
Điều đó được thể hiện ở tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam trong những năm gần đây khá cao và rất
ổn định, đời sống nhân dân được cải thiên rõ rệt, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ rệt…Để đạt
được những thành tựu to lớn này có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam,
lực lượng chủ chốt của quá trình CNH – HĐH đất nước.
Giai đoạn năm 2001 – 2005 đánh dấu sự thay đổi khá mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt
Nam. Với những quyết định đầu tư hợp lý cộng với sự hỗ trợ rất tích cực của Nhà nước, doanh
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn này đã có sự thay đổi căn bản cả về chất và lượng. Bên cạnh đó
vẫn còn những điểm yếu cố hữu chưa thể khắc phục được do những hậu quả của quá khứ để lại, do
sự thiếu hiểu biết hay hiểu biết còn lờ mờ.Chính vì vậy việc nghiên cứu và hỗ trợ các doanh nghiệp
để giúp họ có sự định hướng đúng đắn trong hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư phát triển giữ vai
trò sống còn với bảnthân các doanh nghiệp nói riêng, nền kinh tế nước nhà nói chung.
Giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống doanh nghiệp Việt Nam hiên nay là hệ thống doanh nghiệp
nhà nước.Trong 20 năm đổi mới do Đảng ta đã đề xướng và lãnh đạo, DNNN là đối tượng được
Đảng đặc biệt chú trọng tìm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Đảng ta đã
đề ra cả Nghị quyết riêng về đổi mới DNNN (Theo NQ TW3 khoá 9).Kết quả của quả trình sắp
xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN ở Việt Nam đã có những chuyển biến cụ thể, rất tích cực
với những sự đầu tư hợp lý đem lại hiệu quả cao. Song vẫn còn nhiều chuyện phải bàn về DNNN,
nhất là trong giai đoạn mới - thời kỳ Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).
Nhận thấy tầm quan trọng của việc tìm hiểu về hoạt động đầu tư phát triển trong doanh
nghiệp, đặc biệt là trong DNNN Việt Nam hiện nay, nhóm chúng em đã nghiên cứu đề tài : “ Nội
dung cơ bản của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp và thực trạng đầu tư phát
triển trong DNNN hiện nay.”
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương đã giúp đỡ chúng em rất nhiều
trong quá trình hoàn thiện bản đề án này.

1


CHƯƠNG I
Những vấn đề lí luận chung
về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
I) Đầu tư phát triển
1.1) Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến
hành các hoạt động nhằm tăng them hoặc tạo ra những tài xản vật chất ( nhà xưởng thiết bị…) và
tài sản trí tuệ ( trí thức,kĩ năng…), gia tăng năng lực sản xuất,tạo them việc làm và vì mục tiêu phát
triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều loại nguồn lực, Theo nghĩa hẹp,nguồn lực cho đầu tư phát
triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng,nguồn lực cho đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai,lao động ,máy
móc,thiết bị,tài nguyên.Như vậy khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt
động đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm
đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã hội,có hai nhóm đối tượng
đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ.Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư,
đối tượng đầu tư chia thành hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi
nhuận.Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành: loại được khuyến
khích đầu tư,loại không được khuyến khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư.Từ góc độ tài sản, đối
tượng đầu tư chia thành:những tài sản vật chất ( tài sản thực) và tài sản vô hình.Tài sản vật chất, ở
đây,là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh
tế và tài sản lưu động.Tài sản vô hình như phát minh sang chế,uy tín,thương hiệu…
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất( nhà xưởng,thiết bị…),tài sản
trí tuệ(trình độ văn hoá,chuyên môn,khoa học kĩ thuật…) và tài sản vô hình (những phát minh sáng
chế,bản quyền…). Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần tăng thêm năng lực sản xuất của xã
hội.Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế xã hội thu được
với chi phí chi ra để đạt kết quả đó.Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên
phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò
chr động sáng tạo của chủ đầu tư,vai trò quản lý kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước các
cấp.Thực tế,có những khoản đầu tư không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động cho

2
hoạt động sản xuất kinh doanh như đầu tư cho giáo dục,y tế,hoạt động xoá đói giảm nghèo…
nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống vì mục tiêu phát triển,do đó,cũng được
xem là hoạt động đầu tư phát triển.
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững,vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và
nhà đầu tư.Trong đó, đầu tư nhà nước nhằm mục đích thúc đẩy tưng trưởng kinh tế,tăng thu nhập
quốc dân,góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của thành viên trong xã hội. Đầu tư
của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí,tối đa lợi nhuận,nâng cao khả năng cạnh tranh và chất
lượng nguồn nhân lực…
Đầu tư phát triển thương được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định.Xác định rõ chủ đầu tư
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư nói chung và vốn đầu tư nói riêng.Chủ đầu tư
là ngời sở hữu vốn hoặc được giao quản lý,sử dụng vốn đầu tư.Theo nghĩa đầy đủ,chủ đầu tư là
người sở hữu vốn,ra quyết định đầu tư,quản lý quá trình thực hiên và vận hành kết quả đầu tư và là
người hưởng lợi thành quả đầu tư đó.Chù đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu tư,chịu
trách nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi trường môi
sinh và do đó có ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.Thực tế quản
lý còn có những nhận thức sai lầm về quan điểm chủ đầu tư.
Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình,diễn ra trong thời kì dài và tồn tại vấn đề “độ trễ
thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vân hành kết
quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai. Đặc điểm này
của đầu tư cần được quán triệt khi đánh giá kết quả,chí phí và hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển.
Nội dung đầu tư phát triển ở phạm vi doanh nghiệp và phạm vi nền kinh tế có thể khác nhau.Trên
góc độ nền kinh tế, đầu tư phát triển phải làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế chứ không phải
chuyển giao tài sản giữa các đơn vị.
Đầu tư phát triển khác về bản chất với đầu tư tài chính. Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong
đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ,thị trường
vốn để hưởng lãi suất định trước(gửi tiết kiệm,mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lợi nhuận phụ thuộc
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành(mua cổ phiếu…).Đầu tư tài sản tài chính
là loại đầu tư không trực tiếp làm tăng tài sản thực(tài sản vật chất) cho nền kinh tế(nếu không xét
đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản chính cho chủ đầu tư.Mua

cổ phiếu gắn với việc chuyển quyền sở hữu và hoạt động cho vay dẫn đến chuyển quyền sử
dụng,do vậy,hai loại đầu tư này đều thuộc loại đầu tư dịch chuyển. Đầu tư tài chính thường được
3
thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hang,công ty chứng khoán. Đầu tư
tài chính còn có đặc điểm là:chủ đầu tư thương có kỳ vọng thu được lợi nhuận cao khi đầu tư
nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không theo ý muốn.Tuy nhiên, đầu tư tài chính
là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triểnvà là một trong những loại
hình đầu tư lựa chọn để tối đa hoá lợi ích,giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư.
1.2) Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
-Quy mô tiền vốn,vật tư,lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất
lớn.Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.Quy mô vốn đầu tư lớn
đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý,xây dựng các chính sách,quy mô,kế
hoạch đầu tư đúng đắn,quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư,bố trí vốn theo tiến độ đầu tư,thực hiện
đầu tư trọng tâm trọng điểm.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc
gia.Do đó,công tác tuyển dụng, đào tạo,sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoách định
trước,sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời hạn chế
tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao
động,giải quyết lao động dôi dư…
-Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự
án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài
hàng chục năm.Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư,cần tiến hành phân kỳ đầu tư,bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành
dứt điểm từng hạng mụccông trình,quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư,khắc phục tình trạng
thiếu vốn,nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
-Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài.Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ
khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình.Nhiều
than quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài,có thể tồn tại vĩnh viễn như các Kim tự tháp Ai Cập,Nhà
thờ La Mã ở Rôm….Trong suốt quá trình vận hành,các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai

mặt,cả tích cực và tiêu cực,của nhiều yếu tố tự nhiên,chính trị,kinh tế xã hội…Để thích ứng với
đặc điểm này,công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý một số nội dung sau:
4
Thứ nhất,cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp vĩ mô và vi mô về
nhu cầu thị trường với sản phẩm đầu tư tương lai,dự kiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng
đời dự án.
Thứ hai,quản lý tốt quá trình vận hành,nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử
dụng,hoạt động tối đa công suất đẻ nhanh chóngthu hồi vốn,tránh hao mòn vô hình.
Thứ ba,chú ý đúng mức tới yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nhưng
thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo
dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn tới công tác
quản lý hoạt động đầu tư
-Các thành quả hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng thường phát huy tác
dụng ngay tại nơi nó được tạo dựng nên,do đó,quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận
hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên,kinh tế,xã hội
vùng.Không thể dễ dàng dịch chuyển các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác,nên công
tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển cần quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung sau:
Trước tiên,cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì,công suất
bao nhiêu là hợp lý…cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng,dựa trên các nghiên cứu khoa học.
Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý. Để lựa chọn địa điểm thực hiện đầu tư đúng phải dựa trên
những căn cứ khoa học,dựa vào hệ thống các chỉ tiêu kinh tế,chính trị,xã hội,môi trường,văn hoá…
Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau và nhiề phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và
địa điểm đầu tư cụ thể hợp lý nhất,sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư
cụ thể,tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
-Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao.Do quy mô vốn đầu tư lớn,thời kỳ đầu tư kéo dài và thời
gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài…nên mức độ rủi ro hoạt động đầu tư phát triển
thường cao.Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân,trong đó,có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà
đầu tư quản lý kém,chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu…có nguyên nhân khách quan như giá
nguyên vật liệu tăng,giá bán sản phẩm giảm…Như vậy, để quản lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu
quả,cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro bao gồm:

Thứ nhất,nhận diên rủi ro đầu tư.Có nhiều nguyên nhân rủi ro,do vậy,xác định đúng nguyên
nhân rủi ro là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp phù hợp để khắc phục.
5
Thứ hai, đánh giá mức độ rủi ro.Rủi ro xảy ra có khi rất nghiêm trọng,nhưng có khi chưa đến
mức gây nên những thiệt hại về kinh tế. Đánh giá đúng mức độ rủi ro sẽ giúp đưa ra biện pháp
phòng và chống phù hợp.
Thứ ba,xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro.Mỗi loại rủi ro và mức độ rủi ro nhiều
hay ít sẽ có biện pháp phòng và chống thích ứng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại có
thể có do rủi ro này gây ra.
1.3) Vai trò của đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống kinh tế của mỗi quốc gia.
Trên góc độ vĩ mô, đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh
tế; Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần làm tăng năng lực khoa học công
nghệ đất nước; Đầu tư còn tác động đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế.
Trên goc độ vi mô thì đầu tưlà nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở
sản xuất, cung ứng dịch vụ và của cả các đơn vị vô vị lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
sự ra đời của bất kỳ cơ sở, đơn vị sản xuất và cunh ứng dịnh vụ nào đều cần phải xây dựng nhà
xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị, tiến hành các công tác xây dựng cơ
bản khác và thực hiện các chi phí gắn liền với hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất
kỹ thuật vừa được tạo ra. Đây chính là biểu hiện cụ thể của hoạt động đầu tư. Đối với các đơn vị
đang hoạt động, khi cơ sở vật chất , kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng cần phải tiến
hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi
mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học, kỹ thuật và nhu cầu tiêu
dùg của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ
đã lỗi thời, đó cũng chính là hoạt động đầu tư.
1.4) Nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Nguồn lực để thực hiện đầu tư là vốn.Nội dung và nguồn gốc của vốn là những vấn đề cốt lõi
cần phải giải quyết của lý thuyết đầu tư phát triển.Bản chất của đầu tư phát triển còn được thể hiện
ở nội dung vốn và nguồn vốn đầu tư, lý luận biện chứng về mối quan hệ hữu cơ giữa hai vấn đề
này.

Vốn đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của vốn nói chung.Trên phương diện kinh tế,vốn đầu
tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng
thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác.Về cơ bản vốn đầu tư
phát triển mang những đặc trung của vốn như:(1) vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản;(2) vốn
6
phải vận động sinh lời;(3) vốn cần được tích tụ và tập trung đến một mức nhất định mới có thể
phát huy tác dụng;(4) vốn phải gắn với chủ sở hữu;(5) vốn có giá trị về mặt thời gian.
Nội dung cơ bản của vốn đầu tư phát triển trên phạm vi nền kinh tế bao gồm:
(a). Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới ,mở rộng,xây
dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân.
(b). Vốn lưu động bổ sung: bao gồm những khoản đầu tư nhằm mua sắm nguyên vật liệu,thuê
mướn lao động…làm tăng tài sản lưu động trong kỳ của toàn bộ xã hội.
(c). Vốn đầu tư phát triển khác: là tất cả cá khoản đầu tư của xã hội nhằm gia tăng năng lực
phát triển của xã hội,nâng cao trình độ dân trí,cải thiện chất lượng môi trường.Ví dụ như vốn đầu
tư cho lĩnh vực giáo dục:chương trình phổ cập giáo dục,nghiên cứu,triển khai đầo tạo…Vốn chi
cho các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng cường sức khoẻ cộng đồng như chương trình
tiêm chủng mở rộng,chương trình nước sạch nông thôn…
Nguồn vốn đầu tư phát triển là thuật ngữ chỉ các nguồn tích luỹ,tập trung và phân phối cho
đầu tư.Về bản chất,nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà
nền kinh tế có thể huy động để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.Nguồn vốn đầu tư phát triển
trên phương diện vĩ mô,bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.Nguồn vốn trong
nước gồm:vốn nhà nước,vốn dân doanh và vốn trên thị trường vốn.Nguồn vốn nước ngoài bao
gồm: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA),vốn vau
thương mại nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường vốn quốc tế.Trong mỗi thời kỳ khác nhau,quy
mô và tỷ trọng vốn của từng nguồn vốn có thể thay đổi nhưng để chủ động phát triển KTXH của
quốc gia theo định hướng chiến lược và kế hoạch đặt ra,cần nhất quán quan điểm:xem vốn trong
nước giữ vai trò quết định,vốn nước ngoài là quan trọng.
II) Nội dung cơ bản về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
2.1) Khái niệm
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệplà hoạt động sử dụng vốn cùng các nguồn lực khác trong

hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng them tài sản của DN, tạo them việc làm và nâng cao
đời sống các thành viên trong đơn vị.
7
2.2)Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Qua phân tích nghiên cứu các nội dung của đầu tư trong doanh nghiệp chúng ta thấy rằng đầu
tư quyết định sự ra đời , tồn tại và phát triển của mỗidoanh nghiệp. Để tạo dựng cơ sở vật chất cho
sự ra đời của bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải xây dựng văn phòng , nhà xưởng , mua sắm lắp
đặt máy móc thiết bị ..trong quá trình hoạt động cơ sở vật chất này bị hư hỏng hao mòn , doanh
nghiệp phải bỏ chi phí để sửa chữa. Đáp ứng nhu cầu của thị trường và thích ứng với quá trình đổi
mới phát triển của khoa học kĩ thuật ,các doanh nghiệp phải đổi mới cơ sở vật chất kĩ thuật , quy
trình công nghệ.Tất cả các hoạt động đó đều là hoạt động đầu tư.
Qúa trình đầu tư trong doanh nghiệp có những vai trò quan trọng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp qua cá mặt sau :
Thứ nhất:Tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp , xã hội liên tục phát
triển , nền kinh tế toàn cầu nói chung, nền kinh tế mỗi quốc gia nói riêng cũng vì thế mà không
ngừng vận động phát triển.
Thị trường ngày càng trở nên sôi động , nhu cầu của con người phát triển đòi hỏi tiêu dùng
nhiều hơn , hàng hoá phải có chất lượng cao ,mẫu mã đẹp đa dạng và phong phú.Vì thế mà các nhà
cung cấp sản phẩm , dịch vụ cho thi jtrường muốn tồn tại được thì phải đáp ứng nhu cầu đó của
dân cư.Vì tất lẽ đó mà đòi hỏi nhà sản xuất phải tiến hành đầu tư phát triển.Hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp có thể được tiến hành theo những chiến lược khác nhau để giành được thế cạnh tranh
trên thị trường.Do đó đầu tư tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ hai: Đầu tư tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm
Như chúng ta đã biết , đầu tư trong doanh nghiệp bao gồm: đầu tư vào lao động , đầu tư vào
tài sản cố định , đầu tư vào hàng dự trữ …Tất cả việc đầu tư này nhằm mục đích là tạo ra một sản
phẩm với chất lượng cao , mẫu mã đẹp để đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội hiện đại.
Điều này đã được chứng minh , trong nhưng năm qua các doanh nghiệp muốn tồn tại trong nền
kinh tế thị trường thì căn bản nhất là phải nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành ..
Thứ ba là: Đâu tư tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất , tăng lợi nhuận
Không có doanh nghiệp nào tiến hành sản xuất kinh doanh lại không đặt mục tiêu về lợi nhuận.

Không chỉ là mong muốn có lợi nhuận mà họ còn mong muốn tiền của họ không ngừng tăng lên
tức là quy mô lợi nhuận ngày càng được mở rộng.
8
Hoạt động đầu tư của mỗi doanh nghiệp chính là hoạt động nhằm thực hiện chiến lược sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó với mục tiêu đạt được lợi nhuận mà doanh nghiệp đề ra.Khi
lợi nhuận càng cao thì lợi ích càng lớn và ngược lại .Lợi nhuận được quy mô bởi doanh thu và chi
phí theo công thức:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Doanh thu có lớn hay không lại phụ thuộc vào quá trình đầu tư của doanh nghiệp.Nếu đầu
tư mang lại hiệu quả cao thì doanh thu sẽ nhiều .Như vậy đầu tư đã tạo điều kiện giảm chi phí sản
xuất, tăng lợi nhuận.
Thứ tư là: Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ , trình độ khoa học kĩ thuật tróngản xuất sản
phẩm của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường , các doanh nghiệp luôn luôn chú trọng đến việc đổi mới nhằm
nâng cao sức cạnh tranh của mình.Và một trong các công việc đầu tư của doanh nghiệp là đầu tư
vào tài sản cố định. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị , đổi
mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất , đổi mới sản phẩm cả về chủng loại mẫu mã và chất
lượng…
Như vậy có thể thấy dưới sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ , mỗi
doanh nghiệp đều nhận thấy vai trò to lớn của đầu tư cho công nghệ cũng như hiện đại hoá máy
móc thiết bị trong quá trình sản xuất.Hay nói cách khác đầu tư góp phần đổi mới công nghệ trình
độ khoa học kĩ thuật.
Thứ năm: Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để hoạt động được và hoạt động hiệu quả , bất cứ một doanh nghiệp nào cũng cần có đội ngũ
lao động có trình độ , kĩ năng.Trình độ kĩ năng của người lao động ảnh hưởng tới quá trình sản
xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm.Cùng với điều kiện sản xuất như nhau nhưng lao động có
trình độ sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Đầu tư vào lao động bao gồm những hoạt động
như đầu tư vào đào tạo cán bộ quản lí , tay nghề công nhân các chi phí để tái sản xuất sức lao động
2.3) Những nội dung cơ bản
2.3.1) Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới máy móc thiết bị công nghệ ở doanh nghiệp

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng đòi hỏi ngày càng cao cũng như đối phó với các đối
thủ cạnh tranh tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thì doanh nghiệp không còn con đường nào
khác là phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình hạ giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh
đồng thời tăng năng suất lao động , cải tiến công nghệ và phát triển các loại hàng hoá dịch vụ mới
9
để thoả mãn những đòi hỏi của thị trường, vấn đề này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư vào đổi
mới máy móc thiết bị và công nghệ.
Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ ở các doanh nghiệp xem xét các vấn đề
sau:
Thứ nhất là :vòng đời của máy móc thiết bị và công nghệ.
Chu kì phát triển của máy móc thiết bị và công nghệ như sau: xuất hiện , tăng trưởng , trưởng
thành , bão hoà , chu kì ddos gọi là vòng đời của máy móc thiết bị. Đổi mới máy móc thiết bị ,
công nghệ cũng phải căn cứ vào vòng đời này để quyết định thời điểm đầu tư thích hợp nhằm đảm
bảo hiệu quả của đồng vốn.
Thứ hai là: phân tích môi trường kinh doanh.
-Phần lớn máy móc thiết bị công nghệ chủ yếu phải nhập từ nước ngoài hoặc qua chuyển công
nghệ nên cần phải phân tích môi trường quốc tế như các vấn đề pháp luật , quyền sở hữu bằng phát
minh sáng chế , chuyên gia công nghệ …Bên cạnh đó cần phải xem xét phân tích môi trường văn
hoá như phong tục tập quán , định chế xã hội của nước có công nghệ xuất khẩu.Các vấn đề hệ
thống chính trị , các chính sách như chính sách thương mại , quan hệ kinh tế đối ngoại cũng cần
xem xét một cách kĩ lưỡng.
-Phân tích môi trường kinh tế quốc dân cần chủ động đối với các yếu tố kinh tế , chính trị xã
hội , điều kiện tự nhiên , nắm bắt được thực trạng nền kinh tế đang ở giai đoạn nào , tỷ lệ lạm phát
là bao nhiêu …
-Phân tích môi trường ngành và nội bộ ngành
Tập trung và tìm hiểu xem có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh tiềm lực và khả năng của họ như thế
nào , sản phẩm của họ đóng vai trò như thế nào đối với người tiêu dùng, họ đang sử dụng máy
móc thiết bị công nghệ nào .
Thứ ba là: phân tích thực trạng nội bộ doanh nghiệp
-Phân tích nhóm nhân tố liên quan đến nguồn nhân lực bao gồm :

+ Trình độ nghề nghiệp của công nhân sản xuất trực tiếp .
+Trình độ của cán bộ lãnh dạo , nhất là năng lực lãnh đạo kĩ thuật.
-Phân tích vị thế của doanh nghiệp trên thị trường:
+Nguồn tài chính là vấn đề cần chú ý lựa chọn mục tiêu vừa phải và c ó hướng đi phù hợp.
+Cần xem xét quy mô vốn có thể huy động và đặc điểm kinh tế-kĩ thuật của mỗi ngành .
10
-Xem xét các điều kiện về cơ sở hạ tầng hiện có hoặc có các biện pháp bổ xung thích hợp với máy
móc thiếp bị và công nghệ dự kiến sẽ lựa chọn.
Thứ tư là: phân tích các yếu tố liên quan đến máy móc thiết bị và công nghệ
-Xem xét xu hướng lâu dài của máy móc thiết bị và công nghệ để đảm bảo ttránh sự lạc hậu hoặc
khó khăn gây trở ngại cho việc sử dụng máy móc thiết bị trong khi chưa thu hồi đủ vốn.
11
-Lựa chọn máy móc thiết bị mà các dụng cụ thay thế sẵn có trong nước hoặc là được đảm bảo chắc
chắn có phụ tàng thay thế.
-Máy móc công nghệ phải lựa chọn loại có nhiều nguồn vốn cung cấp để tạo ra sự cạnh tranh giữa
các nhà cung cấp để mua được công nghệ với giá phải chăng , tạo thế chủ động cho hoạt động sau
này.
-Xem xét toàn diện khía cạnh kinh tế kĩ thuật của máy móc thiết bị và công nghệ để lựa chọn công
nghệ thích hợp , tối ưu với điều kiện của doanh nghiệp.
Thứ năm là : phân tích các chỉ tiêu thể hiện hiệu quả đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công
nghệ.
-Giảm bớt cường độ lao động , các công việc nặng nhọc , thay đổi cơ cấu lao động trong doanh
nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật , giảm tỷ trọng lao động tay
nghề thấp , không có trình độ nghiệp vụ.
-Tác động đến cơ cấu tổ chức cũng như tổ chức sản xuất của doanh nghiệp theo hướng tinh gọn ,
năng động và hiệu quả.
-Cải thiện môi trường lao động theo hướng giảm dần các yếu tố và khu vực độc hại , phát triển
công nghệ sạch.
2.3.2) Đầu tư bổ xung hàng dự trữ
Hàng dự trữ là hàng hoá mà doanh nghiệp giữ lại trong kho bao gồm cả vật tư nguyên liệu ,

bán thanh phẩm và thanh phẩm.
*Đặc điểm của đầu tư hàng dự trữ
-Dự trữ chuyển hoá thành các dạng khác nhau trong quá trình sản xuất
-Quy mô đầu tư vào dự trữ phụ thuộc vào nhiều nhân tố như dự đoán cầu trong tương lai , phụ
thuộc vào quy luật tiêu dùng nhu cầu riêng biệt của mỗi mặt hàng và quy luật tiêu dùng ở thời kì
quá khứ sẽ được phản ánh tương tự ở kì dự báo.
-Phụ thuộc vào khách hàng , sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có tham vọng
chiếm lĩnh thị trường .
-Phụ thuộc vào mức độ chậm trễ của khâu phân phối lưư thông thể hiện ở một bộ phận dự trữ .
-Chi phí dự trữ
*Vai trò của dự trữ
Dụ trữ luôn là vấn đề sống còn là một đòi hỏi tất yếu khách quan , nó đảm bảo tính liên tục và hiệu
quả của sản xuất và tiêu dùng .
12
Trong mô hình dự trữ JIT ( Just in time ) chỉ ra:
Nếu dự trữ thật nhiều dẫn đến ứng đọng vốn , hàng hoá hỏng , tăng chi phí bảo quản không hiệu
quả.
Nếu dự trữ ít quá không đủ nguyên vật liệu để sản xuất , không đủ hàng hoá để bán và dẫn đến
gián đoạn sản xuất kinh doanh .
Cần phải phân biệt giữa dự trữ và tinh trạng dư thừa ứng đọng sản phẩm trong các doanh nghiệp.
2.3.3) Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào đều phải quan tâm đến lao động trong quá trình đầu tư
của mình.Việc quan tâm đến lao động trong doanh nghiệp không chỉ về mặt số lượng mà cần quan
tâm cả mặt chất lượng.Số lượng lao động ảnh hưởng đến quy mô sản xuất của doanh nghiệp, còn
chất lượng lao động ảnh hưởng đến cường độ lao động , năng suất lao động.Việc tăng chất lượng
lao động chỉ băng cách đầu tư cho y tế , giáo dục đào tạo , dạy nghề ..Từ đó nâng cao thể lực ,
trình độ ,tay nghề của người lao động .
Trong điều kiện hiện nay nhiều doanh nghiệp coi việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực là
chiến lược canh tranh.Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm :Cán bộ quản lí , công nhân
sản xuất và cán bộ nghiên cứu khoa học. Đối với từng loại phải có chính sách đào tạo riêng nhưng

đều phải liên tục được tu dưỡng rèn luyện nghiên cứu học tập.. để nâng cao kinh nghiệm , trình độ
tay nghề.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bắt đầu từ khâu tuyển người lao động. Đây
là cơ sở để có được lực lượng lao động tốt, bởi vậy khâu tuyển người đòi hỏi cần phải rất khắt khe
cẩn thận nhất.Tuyển người hiện nay đòi hỏi phải đạt được các yêu cầu như : Trình độ văn hoá ,
ngoại ngữ, trình độ vi tính …Tiếp đến là quá trình nâng cao khả năng lao động của người lao động
thường xuyên.Trong điều kiện đổi mới hiện nay rất nhiều công nghệ hiện đại đã và đang được ứng
dụng trong các loại hình doanh nghiệp nước ta.Vì vậy việc đào tạo lao động là yêu cầu vô cùng
quan trọng .Cuối cùng là việc khen thưởng tổ chức các hoạt động về tinh thần giúp người lao động
hăng say trong công việc từ đó nâng cao năng suất lao động. Các hinh thức khen thưởng đang được
thực hiện ở các doanh nghiệp các cá nhân thành viên có thanh tích tốt đều được thưởng xứng đáng
góp phần nâng cao trong xí nghiệp , công ty , các cuộc thi các cá nhân …Nhờ có chính sách đào
tạo lao động nhiều doanh nghiệp đã đạt được những thanh công to lớn , góp phần không nhỏ trong
chiến lược sản xuất kinh doanh cũng như chiến lược cạnh tranh của mình.
2.3.4) Đầu tư vào nghiên cứu và triển khai
13
Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ là lĩnh vực đầu tư không thể thiếu được của các doanh
nghiệp kinh doanh nói chung.Nghiên cứu khoa học và công nghệ giúp nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, đẩm bảo sức mạnh và vị trí canh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường hiện tại cũng như tương lai.
Mục đích của các chương trình và dự án R&D không chỉ dừng lại ở dạng nghiên cứu ứng
dụng, nghiên cứu nhằm tăng chất lượng sản phẩm , tạo nên sản phẩm có đặc điểm nổi bật hơn mà
còn tập trung nghiên cứu tìm kiếm , phát triển kỹ thuật và công nghệ mới nhất cho doanh nghiệp
.Có thể nói R&D là phần không thể thiếu được trong các hoạt động của doanh nghiệp. Đầu tư vào
R&D là một trong những yếu tố giúp các công ty giảm được các chi phí liên quan đến sản xuất
kinh doanh.
*Các yếu tố ảnh hưởng đến nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp
-Khả năng tài chính của doanh nghiệp: khả năng tài chính của doanh nghiệp sx cho phép xác định
được khả năng và quy mô đầu tư nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp.
-Quy mô sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp: quy mô sản xuất kinh doanh cang lớn thì khả năng

quy mô đầu tư nghiên cứu triển khai càng lớn .
-Cơ hội về đổi mới kĩ thuật và các cơ hội trong ngành : những ngành có nhiều cơ hội đổi mới công
nghệ và kĩ thuật đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành đó phải tích cực đầu tư cho nghiên cứu nắm
bắt kịp thời các cơ hội về kĩ thuật và công nghệ của ngành.
Khi đánh giá hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai các doanh nghiệp thường dựa trên một số
quan điểm sau :
Thứ nhất là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai phải được xem xét đánh giá toàn diện về
các mặt tài chính kinh tế xã hội , môi trường .
Thứ hai là ,hiệu quả đầu tư nghiên cứu và triển khai vừa có thể lượng hoá được vừa có thể
không lượng hoá được.Do đó kết quả của đầu tư cho nghiên cứu và triển khai có thể được thể hiện
dưới dạng hiện hoặc dưới dạng ẩn tuỳ theo dự án , chương trình nghiên cứu.
Tóm lại có thể nói đầu tư cho nghiên cứu triển khai đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chương trình và dự án R&D gắn chặt với chiến lược kinh
doanh giúp các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn về kinh tế cũng
như các ảnh hưởng khác.
2.3.5) Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường
14
Thứ nhất là : đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trước hết là nghiên cứu
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Có thể nói cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường của doanh nghiệp , sẽ không
có thị trường nếu không có cạnh tranh , trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh
nghiệp , người tiêu dùng là tối đa hoá lợi nhuận và sự tiện ích của chính mình , khả năng cạnh
tranh là nguồn năng lượng thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập
kinh tế.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp kinh doanh thành công thực hiện các kĩ năng cạnh tranh rất
thuần thục , nó tạo thành phương pháp cạnh tranh đặc trưng doanh nghiệp
Các kĩ năng này tập trung vào :
-Tạo lập và phát triển uy tín doanh nghiệp
-Coi trọng chiến lược mở rông thị trương
-Xây dựng và thực hiện đổi mới sản phẩm , mẫu mã

-Luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất
-Sách lược tiêu thụ sản phẩm khôn khéo
Thứ hai là: khi nghiên cứu thị trường trong đầu tư tài sản vô hình của doanh nghiệp ta cần
phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.
Hành vi của người tiêu dùng thực hiện trong việc tìm kiếm , mua , sử dụng đánh giá và vứt bỏ
các sản phẩm và dịch vụ mà họ dự định sẽ thoả mãn các nhu cầu của họ.Nghiên cứu hành vi của
người tiêu dùng là nghiên cứu các cá nhân đưa ra quyết định thế nào đối với việc chi tiêu các
nguồn tài nguyên có thẻ sử dụng của họ trong các hạng mục liên quan đến sự tiêu dùng.Qua việc
nghiên cứu hành vi người tiêu dùng sẽcung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin quan trọng để
họ lên kế hoạch sản xuất thiết kế cải tiến và xây dựng được cac chiến lược khuyến mại.
Mục đích của nghiên cứu người tiêu dùng là phục vụ cho công tác quản lí kinh doanh sản xuất
và dịch vụ.Các nhà quả lí muốn biết nguyên nhân hành vi của người tiêu dùng , họ muốn biết con
người đưa ra quyết định mua hàng sử dụng , cất kho và vứt bỏ các sản phẩm như thế nào từ đó xây
dựng chiến lược Maketing lập ra những mảng thị trường mới cho một sản phẩm riêng hay một
loại sản phẩm.Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng được tiến hành bởi các tổ chức Maketing riêng
biệt.
15
Thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng ,các
doanh nghiệp đang đầu tư một cách thích đáng cho việc nghiên cứu.Việc nghiên cứu thành công
giúp doanh nghiệp có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng hướng , tiêu thụ nhanh sản phẩm quay
vòng vốn nhanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.3.6) Đầu tư vào bí quyết công nghệ
Ngoài máy móc thiết bị thì bí quyết công nghệ là một phần quan trọng của công nghệ.Thật sai
lầm và không đầy đủ khi đầu tư đổi mới công nghệ mà không chú ý đến bí quyết công nghệ .Các
doanh nghiệp hiện nay thường chỉ nghĩ đến mua máy móc thiết bị mà quên mất đi phần bí quyết
công nghệ.
Bí quyết công nghệ chứa đựng trong tất cả các khâu , các công đoạn của quá trình sản xuất
như tổ chức hợp lí hoá , điều hành sản xuất , hệ thống tài chính kế toán , khách hàng , thị trường
tiêu thụ sản phẩm , đào tạo và thông tin , lập kế hoạch cải tiến công nghệ , sử lí môi trường ….
Chinh vì thế bí quyết công nghệ đóng vai trò rất quan trọng nó là một nhân tố mà các doanh

nghiệp cần quan tâm xem xét và tiến hành đầu tư.
16
Chương II
Thực trạng đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Nhà nước
giai đoạn 2001 đến 2005
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường đinh
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt là giai đoạn những năm gần đây từ 2001 – 2005,
DNNN ngày càng giữ một vai trò vô cùng quan trọng trên mọi phương diên về kinh tế, chính trị,
văn hoá và xã hội:
Vai trò kinh tế: DNNN giúp khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường; đảm nhận các
lĩnh vực sản xuất-kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đòi hỏi vốn đầu
tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân; tham gia vào những lĩnh vực khoa học-công nghệ mũi nhọn,
có hệ số rủi ro cao; tham gia vào một số ngành có lợi thế cạnh tranh.
Vai trò chính trị: Một là, DNNN nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến an
ninh, quốc phòng quốc gia. Hai là, DNNN tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng
(tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế) để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát
triển hội nhập kinh tế quốc tế.
Vai trò xã hội: DNNN gánh vác chức năng và vai trò xã hội và khác biệt so với các loại hình
doanh nghiệp khác, những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị-xã hội mà tư nhân
không muốn đầu tư, đảm bảo cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành
sản xuất hàng hoá công cộng thiết yếu.
Có được những kết quả như vậy là do hiệu quả của hoạt đông đổi mới hệ thống DNNN đem
lại.Chính vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng về sự đổi mới kéo theo hiệu quả của hoạt
động đầu đầu tư trong hệ thống DNNN là rất cần thiết, góp phần đưa ra một cánh nhìn tồng quan
về các DNNN Việt Nam hiên nay.
I) Sự đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2001 - 2005
So với tất cả các giai đoạn trước đây,có thể khẳng định giai đoạn từ 2001-2005 là giai đoạn
đánh dấu sự đổi mới rõ nét nhất các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN) và hoạt động của
chúng.Trong giai đoạn này,DNNN đã được đổi mới theo các hướng chủ yếu sau:
1.1) Giảm doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn nhà nước

17

Khác với các giai đoạn trước đây,chỉ đén giai đoạn từ 2001-2005 số DNNN mới thực sự giảm
xuống.Nếu đầu năm 2001 nước ta vẫn có 5.759 DNNN (vẫn gần với con số từ khi bắt đầu có chủ
trương giảm DNNN của hàng chục năm trở về trước) thì đến năm 2002 nước ta có 5.363 DNNN
trong đó có 91 tổng công ty nhà nước (TCTNN) gồm 1.476 doanh nghiệp thành viên.Và theo con
số thống kê tới năm 2005 có khoảng 4.086 DNNN đang hoạt động.
Trong số DNNN có 100% vốn Nhà nước ,mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước
(CTTNHHNN) mới ra đời chưa lâu và được hình thành trong trào lưu hình thành các tập đoàn kinh
doanh theo mô hình công ty mẹ- công ty con nên chưa có các đánh gia cụ thể.Tuy nhiên,có thể thấy
mô hình này cũng không khác lạ nhiều so với mô hình công ty nhà nước phụ thuộc
1.2) Dù tăng tốc độ cổ phần hoá DNNN nhưng con đường phía trước còn dài
1.2.1) Đã tăng tốc độ cổ phần hoá DNNN
Mặc dù chủ trương CPH là đúng đắn và đã có từ đầu thập niên 90 song chỉ đến giai đoạn 2001
trở lại đây tiến trình CPH DNNN mới được đẩy mạnh.Tính đến hết năm 2005 đã có 2955 DNNN
và bộ phân DNNN được CPH, số DNNN chủ yếu ở những năm 2003-2005.Với kết quả này,mặc dù
thời kỳ 2001 tới nay đã tăng tốc độ cổ phần hoá nhưng từ khi có chủ trương cổ phần hoá đến cuối
năm 2005 mới chỉ thực hiên được khoảng 75,38 % so với kế hoạch CPH số lượng DNNN đã đề ra
(xem bảng 1).
18

5759
5363
4845
4596
4086
0
1000
2000
3000

4000
5000
6000
2001 2002 2003 2004 2005
Năm
Số DNNN 100% vốn Nhà nước
Số DNNN 100% vốn Nhà
nước
Bảng 1. Số lượng các DNNN đã CPH
Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Thực hiên
Số lượng 254 212 140 198 481 830 724
Cộng dồn 370 582 722 920 1.401 2.231 2.955
Kế hoạch
Số lượng 400 450 500 600 700 767 338
Cộng dồn 565 1.015 1.515 2.115 2.815 3.582 3.920
Thực hiện kế hoạch về số
lượng
65,49 57,34 48,25 43,55 49,7 62,3 75,38
Nguồn: ThS Phạm Tuấn Anh: CPHDNNN giai đoạn 2001-2005,tạp chí Con số và Sự kiện số
1+2/2006 và các bài có liên quan
Chủ yếu các DNNN đã được CPH là các doanh nghiệp địa phương có quy mô nhỏ thuộc lĩnh
vực sản xuất công nghiệp – xây dựng:
-Theo cấp chủ quản: có tới 67,6% doanh nghiệp địa phương, 24,2% doanh nghiệp trung ương
và 8,2% doanh nghiệp thuợc tổng công ty được CPH.
-Về quy mô vốn nhà nước: có tới 60,2% doanh nghiệp CPH có số vốn dưới 5 tỷ đồng; 22,6%
có số vốn từ 5-10 tỉ đồng; 11,9% doanh nghiệp CPH có số vốn từ 11-20 tỉ đồng và chỉ có 5,3%
doanh nghiệp CPH có số vốn trên 20 tỷ đồng.
-Về lĩnh vực hoạt động: 65% doanh nghiệp CPH thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp – xây
dựng: 29% doanh nghiệp cổ phần hoá thuộc lĩnh vực thương mại - dịch vụ; 6% doanh nghiệp CPH

thuộc lĩnh vực nông – lâm - thuỷ sản.
Cho đến nay dù đã CPH khoảng gần một nửa số DNNN được hình thành tử 1993 song do kế
hoạch CPH chỉ xác định số lượng doanh nghiệp sẽ CPH mà không xác định chỉ tiêu giá trị vốn nhà
nước nên giá trị vốn được CPH lại quá nhỏ bé. Cho đến nay,cả nước mới chỉ CPH khoảng 9% tổng
số vốn của nhà nước tại các DNNN.Với kết quả này, con đường CPH theo chủ trương của Đảng đã
xác định ở Nghị quyết Đại hội X chắc sẽ còn khá dài ở phía trước.
1.2.2) Mô hình công ty cổ phần nhà nước – “bình mới,rượu cũ”
Các đánh giá về hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần (CTCP) sau CPH
DNNN đều cho thấy kết quả đạt được khá hơn trước,chẳng hạn: “Vào năm 2004,chưa đến 4%
DNNN CPH làm ăn thua lỗ. Đối với các doanh nghiệp còn lại,tỷ lệ lợi nhuận trung bình là
19
17%,gấp 3 lần so với trước khi CPH”.Trong khi đó,các đánh giá về nhận thức cũng như quản trị
CTCP nhà nước lại cho thấy hầu như khác trước rất ít.
Cơ chế hoạt động của mô hình CTCPNN còn chưa thống nhất và bất cập.Một số DNNN sau
khi CPH có tình trạng hiểu sai và làm sai mô hình CTCP,nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động “y như
trước”,mô hình tổ chức,tư duy,công nghệ,quản lý và triết lý kinh doanh dập theo bài bản của
DNNN.
Đội ngũ cán bộ quản trị ở các CTCPNN sau CPH ít được đổi mới.Sau khi CPH nhiều
CTCPNN vẫn sử dụng toàn bộ cán bộ quản trị thuộc bộ quản trị của DNNN trước đó.Có tới 85%
chức danh chủ tịch hội đồng quản trị,gần 84% chức danh giám đốc,gần 77% chức danh phó giám
đốc và gần 80% chức danh kế toán trưởng vẫn được giữ nguyên như cũ.
Chính vì vậy khi chuyển sang CTCPNN nhiều cán bộ vẫn còn dè dặt trong cung cách kinh
doanh, nhiều cán bộ không đáp ứng được yêu cầu trong môi trường kinh doanh mới theo luật mới
quy định.
1.3) Từ sắp xếp lại các TCT đến hình thành các tập đoàn kinh doanh
1.3.1) Sắp xếp lại các TCT – hai cách đánh giá trái ngược
Đây là hướng đổi mới khá rõ nét trong giai đoạn 2001-2005.Những năm đầu giai đoạn này
các cơ quan có thẩm quyền đã giải thể 6 TCT 90;thực hiện sát nhập,hợp nhất 8 TCT thành 4 TCT
mới;tách 1 TCT thành 2 TCT mới.Tách, nhập đã dẫn đến kết quả nước ta còn 88 TCTNN đang
hoạt động (giảm 10,tăng 4). Đến nay đang tồn tại cả hai đánh giá rất khác biệt về mô hình TCTNN.

Thứ nhất,các đánh giá khả quan.Nhiều tổng giám đốc các TCTNN - những người trực tiếp
điều hành hoạt động của các TCTNN cho rằng TCTNN đã:
-Thể hiện vai trò nòng cốt,chủ lực ,xương sống của nền kinh tế biểu hiện ở việc huy động
năng lực sản xuất cao,cung cấp các sản phẩm trọng yếu để xuất khẩu và phục vụ nền kinh tế,không
để xảy ra sốt hàng,sốt giá hoặc ứ đọng sản phẩm. Đối với sản phẩm trọng yếu,các TCTNN cung
cấp 98% sản lượng điện,97% sản lượng than,52% sản lượng thép,các ngân hàng thương mại nắm
giữ 70% thị trường vốn vay,…
-Là đầu mối xuất khẩu chính,thu về nguồn ngoại tệ lớn góp phần cân đối ngoại tệ và duy trì sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế.Kim ngạch xuất khẩu của 17 TCT 91 đã chiếm hơn 30% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước.
-Có nhiều biện pháp bảo toàn và phát triển vốn.So với năm đầu thành lập,chỉ chưa đầy 10
năm sau số vốn tự bổ sung của TCT Bưu chính - Viễn thông tăng 1,7 lần;TCT Rượu bia - Nước
20

×