Tải bản đầy đủ (.doc) (161 trang)

Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT CHUYÊN đề ôn đoạn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (912.9 KB, 161 trang )

Tài liệu ơn thi tốt nghiệp THPT

TUN NGƠN ĐỘC LẬP
- Hồ Chí MinhI. MỞ BÀI CHUNG
“Những ai muốn biết thế nào là một con người thực sự, vẻ đẹp của thế giới ở đâu, sự
chiến thắng của chân lý trên trái đất ở nơi nào, mùa xuân ở đâu, xin mời đến thăm cuộc đời
của chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hiện diện mẫu mực của một con người anh hùng của thời
đại…”. Đó là nhận xét rất xác đáng của tác giả Rơ-nê Đê Pêstre, người Cu-ba về chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người khơng chỉ là một lãnh tụ tài ba, người anh hùng đã giải phóng dân tộc, đất nước Việt
Nam thốt khỏi xiềng xích của nơ lệ mà Người còn là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc với
nhiều tác phẩm đặc sắc trên nhiều thế loại khác nhau. Đặc biệt, bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời
vào năm 1945 là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chính
luận của Người. Tác phẩm có giọng văn hùng hồn thống thiết, có lập luận chặt chẽ sắc bén, có sức
thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao
nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu người đã hi sinh, bao nhiêu người bị tù đày... “là kết quả của bao
nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam” (Trần Dân
Tiên).
II. PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN
Đề số 1:
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai
có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc“.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu
ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi được.
(Tun ngơn Độc lập – Hồ Chí Minh,


Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr39-40)
Phân tích phần mở đầu bản "Tuyên ngôn Độc lập" để làm nổi bật giá trị nội dung tư
tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
I. MỞ BÀI
- Tham khảo mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích mở đầu của Bản tun ngơn: “Hỡi đồng bào… chối cãi
được” đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của chủ tích Hồ Chí Minh.
II. THÂN BÀI
1

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

1. Khái quát
Sau gần 100 năm bị áp bức nô lệ, nhân dân ta đứng lên đấu tranh và được độc lập tự do.
Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng, hân hoan chiến thắng. Cách mạng tháng Tám thành
công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những xiềng xích nơ lệ và áp bức, đưa dân tộc ta qua
ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9, một buổi sáng trời trong với
nắng vàng ấm áp, trước hàng triệu nhân dân trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc bản Tun ngơn độc lập, chính thức khai sinh một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự
do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Người viết ra bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng
những xúc cảm mãnh liệt. Người đã truyền đến hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu nước
những rung động sâu xa và thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế
giới về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước ta.
Tồn văn bản tun ngơn khơng dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ
nhưng vơ cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tun ngơn có bố cục 3 phần, cụ thể gồm: cơ sở pháp lý,
cơ sở thực tiễn và lời tuyên bố độc lập. Sức thuyết phục của “Tuyên ngôn độc lập” được tạo nên
chủ yếu từ hai yếu tố là lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và sức lay động

lịng người. Điều đó được thể hiện ngay từ đoạn mở đầu.
2. Giá trị nội dung của phần mở đầu bản tuyên ngôn:
2.1. Mở đầu bản Tun ngơn bằng trích dẫn Tun ngơn của Pháp và Mĩ
Phần mở đầu nêu nguyên lí chung làm cơ sở tư tưởng cho bản tun ngơn. Trong đó, Hồ
Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tun ngơn: Tun ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791. Cả hai bản tuyên ngôn đều thể hiện tư tưởng rất
tiến bộ, được nhân loại biết đến và thừa nhận. Trong đó, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776
nêu rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai
có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra
tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
2.2. Tác dụng của việc trích dẫn
Việc trích dẫn hai văn bản này có tác dụng rất lớn. Đầu tiên, nó thể hiện sự tơn trọng những
giá trị, tư tưởng tiến bộ của nhân loại, đó là khẳng định các quyền lợi cơ bản, chính đáng của con
người: Quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Mặt khác, “Tuyên ngôn độc lập” ra đời giữa lúc tình thế đất nước vẫn đang trong thời kì
nguy ngập. Chính quyền mới ra đời, đất nước vẫn đang nằm giữa bốn bề hùm sói, hai đầu đất
nước đều có kẻ thù ngoại bang đe dọa. Ở biên giới phía Bắc là 20 vạn quân Tưởng đang ngấp
nghé ở cửa biên giới, chuẩn bị kéo vào miền Bắc nước ta. Phía sau đội qn này là sự nhịm ngó
muốn can thiệp vào Đơng Dương của đế quốc Mỹ. Ở phía Nam, thực dân Anh được giao nhiệm
vụ của phe đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, đằng sau quân Anh là quân Pháp đang lăm le
muốn quay trở lại xâm lược đất nước ta. Nhà cầm quyền Pháp lúc này tuyên bố: Đông Dương là
thuộc địa của Pháp bị quân Nhật chiếm, đương nhiên Đông Dương phải thuộc quyền bảo hộ của
người Pháp. Sử dụng trích dẫn trong hai bản tun ngơn có giá trị, được thế giới cơng nhận làm
cơ sở pháp lý cũng là cách Hồ Chí Minh nhắc nhở dã tâm và hành động xâm lược của bọn đế
quốc, thực dân; phê phán, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ- những kẻ xâm lược đã chà đạp lên chân
lí, chà đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ơng chúng. Chính phủ và chính phủ Mĩ phụng sự
cho tinh thần của “Tuyên ngôn nhân quyền” đầy lẽ phải kia hóa ra lại đang thi hành những hành
động trái ngược hẳn. Dùng lí lẽ của chính Pháp và Mĩ để nhắc nhở, ngăn chặn, bác bỏ mọi luận
2


Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

điệu và hành động phi nghĩa của chúng, chiêu thức này trong dân gian được gọi là “gậy ông đập
lưng ông”. Với chiêu thức này, Hồ Chí Minh thực sự đã nắm được và phát huy sức mạnh của văn
học “Văn chương phải là thế trận đuổi nghìn qn giặc.” (Trần Thái Tơng).
Hồ Chí Minh dẫn hai câu danh ngôn, một câu trong bản Tuyên ngôn độc lập và một câu
trong Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền còn là để khẳng định cách mạng Việt Nam cùng một
lúc làm được hai nhiệm vụ: Nhiệm vụ thứ nhất là đánh đuổi thực dân, phát xít xâm lược giành độc
lập tự chủ và nhiệm vụ thứ hai là lật đổ chế độ phong kiến giành quyền sống cho con người. Cũng
như ở đoạn sau của bản Tuyên ngôn, Người viết “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt
Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ
cộng hòa.”
Đồng thời bằng cách này, Bác đã đặt tuyên ngôn của Việt Nam sánh vai với tun ngơn
Pháp và Mỹ, thể hiện lịng tự tôn dân tộc. Đặt ba bản tuyên ngôn ngàng hàng nhau, ba cuộc cách
mạng ngang bằng nhau, Người muốn khẳng định mục đích cao cả của cách mạng Việt Nam, của
cách mạng Mĩ và Pháp đều là vì hạnh phúc của con người. Chúng ta chiến đấu vì hạnh phúc của
con người. Niềm tự hào dân tộc ấy cùng một cảm hứng với “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi,
bởi ở thời phong kiến Nguyễn Trãi cũng đặt vị thế dân tộc ta ngang hàng với phong kiến phương
Bắc hùng mạnh:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Nhưng đóng góp lớn nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh ở đây là Người đã vận dụng sáng tạo
hai đoạn trích dẫn của hai bản tun ngơn. Từ quyền của con người được nhắc đến trong hai câu
danh ngôn ấy, Người nâng lên quyền của cả dân tộc. Tầm nhìn sâu rộng của Bác đã tạo nên một
lời khẳng định đanh thép: "Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều

sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Như vậy,
bằng lập luận chặt chẽ, sáng tạo Người khẳng định các dân tộc trên thế giới đều có quyền độc lập,
tự do. Đây chính là cơ sở cho hệ thống lập luận trong toàn tác phẩm. Phép suy rộng ra ấy khơng
chỉ có ý nghĩa khẳng định quyền độc lập tự do, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam mà cịn có
ý nghĩa khơi dậy, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên tồn thế giới.
Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch, đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lí lẽ
chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức
tường pháp lí sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản “Tuyên ngôn Độc lập” ở phần
tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngịi bút Hồ Chí Minh.
3. Nghệ thuật lập luận:
Cách mở đầu bản Tuyên ngôn cho thấy lập luận của Hồ Chí Minh vừa ngắn gọn, súc tích,
vừa khéo léo vừa kiên quyết, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo và đầy sức thuyết phục. Đầy
khéo léo bởi Hồ Chí Minh tỏ ra trân trọng những tư tưởng tiến bộ, những danh ngôn bất hủ của
người Mĩ, người Pháp... nhưng rất kiên quyết vì một mặt Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập
tự do của dân tộc Việt Nam dựa trên những chân lí mà người Mĩ và người Pháp đã đưa ra, đồng
thời cảnh báo nếu thực dân Pháp tiến quân xâm lược Việt Nam một lần nữa thì chính họ đã phản
bội lại tổ tiên của mình, làm nhơ bẩn lá cờ nhân đạo, thiêng liêng mà những cuộc cách mạng vĩ
đại của cha ông họ đã dành được. Đặc biệt, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo nhất là: lời suy
rộng ra của Người mang tư tưởng lớn của nhà cách mạng. Người đã phát triển quyền lợi của con
3

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

người lên (thành) quyền tự quyết, quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Phép suy rộng ra
ấy là sự sáng tạo đầy bản lĩnh, trí tuệ, thể hiện tư duy lí luận sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đây là một đóng góp riêng của Hồ Chí Minh và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào
lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong

thế kỉ XX.
4. Đánh giá
Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm còn thể hiện rõ tài năng của tác
giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tun ngơn đã tạo nên một dẫn chứng xác thực
góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.Tất cả đã tạo nên một lập luận chặt chẽ
và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết để tạo nên nền tảng pháp lí vững vàng để
tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân. Phần mở đầu "Tuyên ngôn Độc lập", không chỉ thể hiện nội
dung tư tưởng cao đẹp mà ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích,
thấm thìa, rung động lịng người, "Tun ngơn Độc lập" thực sự là một tuyệt đỉnh nghệ thuật văn
chương và lịch sử.
Đoạn số 2:
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải
thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành
chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân
chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tơi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn
dân Việt Nam, tuyên bố thốt ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà
Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân
Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã cơng nhận những ngun tắc dân tộc bình đẳng
ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của
dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! dân tộc
đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tơi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Phân tích lời tuyên bố độc lập trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về phong cách
văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
I. MỞ BÀI
- Tham khảo mở bài chung
4

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Sự thật là…độc lập ấy” nằm ở phần cuối của bản tun
ngơn và góp phần thể hiện rõ phong cách văn chính luận của Hồ Chí Minh.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
Sau gần 100 năm bị áp bức nô lệ, nhân dân ta đứng lên đấu tranh và được độc lập tự do.
Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng, hân hoan chiến thắng. Cách mạng tháng Tám thành
công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những xiềng xích nơ lệ và áp bức, đưa dân tộc ta qua
ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9, một buổi sáng trời trong với
nắng vàng ấm áp, trước hàng triệu nhân dân trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc bản Tun ngơn độc lập, chính thức khai sinh một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự
do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Người viết ra bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng
những xúc cảm mãnh liệt. Người đã truyền đến hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu nước
những rung động sâu xa và thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế
giới về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước ta.
Tồn văn bản tun ngơn khơng dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ

nhưng vơ cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tun ngơn có bố cục 3 phần, cụ thể gồm: cơ sở pháp lý,
cơ sở thực tiễn và lời tuyên bố độc lập. Sức thuyết phục của “Tuyên ngôn độc lập” được tạo nên
chủ yếu từ hai yếu tố là lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và sức lay động
lòng người.
2. Lời tuyên bố độc lập trong đoạn trích
2.1. Nêu rõ q trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:
“Tuyên ngôn độc lập” ra đời giữa lúc tình thế đất nước vẫn đang trong thời kì nguy ngập.
Tuy đã giành được độc lập nhưng chính quyền thì mới ra đời, đất nước vẫn đang nằm giữa bốn bề
hùm sói, hai đầu đất nước đều có kẻ thù ngoại bang đe dọa. Đặc biệt, để hợp thức hóa việc quay
trở lại xâm lược nước ta, nhà cầm quyền Pháp lúc này tuyên bố: Đông Dương là thuộc địa của
Pháp bị quân Nhật chiếm. Nay phát xít Nhật thua trận, đương nhiên Pháp có quyền quay trở lại
bảo hộ Đơng Dương.
Trong đoạn văn này Hồ Chí Minh đã nêu rõ quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân
ta, vạch trần và bác bỏ hoàn toàn luận điệu xảo trá của Pháp. Người nêu rõ sự thật là từ năm 1940
nước ta là thuộc địa của Nhật chứ khơng cịn là thuộc đọa của Pháp. Khi Nhật thua chạy thì nhân
dân ta đã nổi dậy cướp chính quyền từ tay Nhật. Nhân dân ta cùng lúc phá tan ba tầng xiềng xích
khiến Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị để lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Định ngữ “Sự thật là” được nhắc đi nhắc lại càng có ý nghĩa khẳng định một cách chắc chắn thực
tiễn lịch sử đó.
Chính phủ nước Việt Nam mới đã ra đời, thực sự là chính quyền của nhân dân Việt Nam
và dân tộc Việt Nam khơng cịn là thuộc địa của Pháp nên Người tun bố thốt li hồn tồn mối
quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước Pháp đã kí hết với Việt Nam, xóa hết mọi đặc
quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Tiếp đó, Người cịn khẳng định đanh thép “Tồn
dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”.
Đây chính là những bằng chứng thực tiễn xác thực, thể hiện một cuộc tranh luận ngầm
với những lời lẽ giả dối, sai sự thật của thực dân Pháp, khẳng định khơng có thế lực nào có quyền
xâm phạm nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam kể cả thực dân Pháp. “Cách lập luận của
Hồ Chí Minh về phía ta như một trái táo cịn về phía kẻ thù nó giống như một trái lựu đạn
nhét vào cổ họng chúng. Nuốt không vô mà khạc cũng không ra”. (Chế Lan Viên)
5


Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

2.2. Khẳng định cuộc đấu tranh của nhân dân ta là chính nghĩa
Trước khi tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định sâu sắc cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc của ta là chính nghĩa. Bởi vì dân tộc ta là một dân tộc gan góc, có truyền thống kiên cường
bất khuất bảo vệ đất nước. Bằng chứng là nhân dân ta gan góc chống ách nơ lệ của thực dân Pháp
hơn 80 năm, gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít suốt mấy năm để rồi lấy lại đất
nước từ tay Nhật. Trước đó, trong bản Tun ngơn Người cũng nêu rõ dân tộc ta là dân tộc luôn
nêu cao tinh thần nhân đạo: Khi Pháp thua chạy còn giết nốt số đơng tù chính trị ở n Bái, Cao
Bằng. Nhưng khi chúng thua chạy ta lại giữa thái độ khoan hồng, nhân đạo giúp người Pháp chạy
qua biên thùy, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Tinh thần nhân đạo ấy có lẽ được kế thừa từ
truyền thống dân tộc, từng được thể hiện trong “Bình Ngơ đại cáo”:
“Thần vũ chẳng giết hại, thể lịng trời ta mở đường hiếu sinh.
Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể mà hồn bay phách lạc;
Vương Thơng, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước vẫn tim đập, chân run”.
Lập trường chính nghĩa của dân tộc ta cịn được thể hiện rõ khi nó rất phù hợp với các điều
khoản quy định về nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn
“Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở
các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của
dân Việt Nam”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã rất khơn khéo khi viện dẫn các nguyên tắc dân tộc bình
đẳng. Bởi vì, nó khơng chỉ để khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc ta mà cịn có ý nghĩa
kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
2.3. Tuyên bố độc lập
Sau khi đã khẳng định một cách sâu sắc quyền độc lập dân tộc, Hồ Chủ tịch đã sử dụng
những lời lẽ hùng hồn, đanh thép, trịnh trọng, kết cấu trùng lặp, liên tục nhấn mạnh và xoáy sâu
vào hai vấn đề chính là “độc lập” và “tự do” để tuyên bố nền độc lập của dân tộc: “Nước Việt

Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Trong lời
tuyên bố ấy, Người khẳng định dân tộc Việt Nam về lí lẽ có quyền được hưởng tự do độc lập và
trong thực tiễn đã giành được tự do, độc lập, cũng hoàn toàn xứng đáng trở thành một nước tự do,
độc lập.
Lời tuyên bố độc lập của Hồ Chí Minh xuất phát từ trái tim của một con người có lịng u
nước, u dân, u chuộng hịa bình sâu sắc; là những khát khao cháy bỏng không chỉ của riêng
mình Bác mà cịn chính là thay lời muốn nói của tồn thể dân tộc Việt Nam, muốn tun bố với cả
thế giới rằng nước Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ.
2.4. Ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc
Tun ngơn độc lập của Hồ Chí Minh khơng chỉ để tun bố nền độc lập, tự do của dân tộc
mà cịn có ý nghĩa cảnh cáo âm mưu xâm lược của bọn thực dân, đế quốc. Người viết “Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy!”. Toàn dân Việt Nam nhận thức rõ âm mưu của kẻ thù xâm lược nên
nhắc nhở chúng rằng: Nếu chúng còn dã tâm xâm lược, nhân dân Việt Nam quyết hy sinh tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ nền độc lập thiêng liêng, cao quý ấy.
3. Đánh giá
3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn văn
Đoạn trích cũng như bản “Tuyên ngôn độc lập” mang giá trị văn chương to lớn bởi cho
thấy tài năng bậc thầy trong ngịi bút chính luận của Hồ Chí Minh. Đó là một áng văn chính luận
mẫu mực nhất, thuyết phục và có sức hấp dẫn nhất với lập luận, chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, đanh thép,
6

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

luận cứ được hun đúc từ thực tế khách quan; Kết cấu, bố cục khá chặt chẽ với mỗi phần một ý
nghĩa và liên hệ chặt chẽ với nhau; Ngơn ngữ ngắn gọn, chính xác, súc tích; lời văn vừa sống
động, gây xúc động lịng người tác động mạnh vào nhận thức và tình cảm và có sức lay động sâu

xa; Các biện pháp tu từ như điệp từ, điệp ngữ…được sử dụng được sử dụng linh hoạt hiệu quả
làm cho lý lẽ thêm sinh động rõ ràng. Bản “Tuyên ngôn độc lập” trở thành một áng văn nghị luận
mẫu mực không chỉ bởi lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực mà còn lay động
hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu nước bởi tình cảm thiết tha của tác giả. Những tình cảm
thiết tha đó được biểu lộ thông qua những giọng điệu khác nhau, khi nồng nàn tha thiết, khi xót xa
thương cảm, khi hừng hực căm thù, khi hào sảng khích lệ...
“Tun ngơn độc lập” là áng văn chương yêu nước của thời đại, kết tinh khát vọng cháy
bỏng của cả dân tộc về độc lập, tự do. Bản tuyên ngôn đã tố cáo rõ tội ác thực dân, khẳng định
quyền tự do độc lập và sự thật nước Việt Nam đã thành nước tự do, độc lập. Hơn nữa, đoạn trích
cũng như tác phẩm cịn nêu cao truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là truyền thống yêu nước, kiên
cường chống giặc ngoại xâm; thể hiện tâm huyết và hội tụ vẻ đẹp của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
3.2. Nhận xét về phong cách văn chính luận Hồ Chí Minh
- Ngắn gọn, giản dị, súc tích; cách dùng từ, đặt câu hết sức linh hoạt: Cả một nội dung lớn
diễn ra trong thời gian gắn một thế kỉ, nhưng tác giả đã cô đọng lại trong vài ba trang giấy. Từ ngữ
mà Người sử dụng đọc lên là hiểu ngay. Đối với những câu dài, có cấu trúc phức tạp, Người vẫn
tìm cách diễn đạt thật ngắn gọn. Có câu rất ngắn nhưng giàu ý tứ.
- Văn phong trong sáng: Trong sáng ở việc dùng từ đặt câu, tuân thủ các nguyên tắc và
chuẩn mực của tiếng Việt. Trong sáng về tư tưởng tình cảm, ở thái độ rõ ràng, yêu ghét phân minh
trên lập trường chính nghĩa.
- Tính chiến đấu và trí tuệ: Đanh thép, sắc sảo là biểu hiện tính chiến đấu khơng khoan
nhượng, thái độ dứt khốt thể hiện một bản lĩnh vững vàng, phi thường, sắc sảo ở trí tuệ, lối lập
luận chặt chẽ, sắc bén.
- Ngịi bút chính luận vừa chặt chẽ, thuyết phục vừa trữ tình, có sức lay động lịng người:
Bản tun ngơn được viết với cách lập luận chặt chẽ. Người đưa ra những lí lẽ đanh thép, những
bằng chứng hùng hồn không ai chối cãi được. Ngịi bút chính luận vừa hùng hồn vừa trữ tình; Văn
chính luận mà vẫn thấm đượm tình cảm, giàu hình ảnh, giọng điệu đa dạng.
III. KẾT LUẬN CHUNG
“Tun ngơn Độc lập” của Hồ Chí Minh đã đánh dấu mốc son trong lịch sử dân tộc, mãi
mãi là áng thiên cổ hùng văn ngang tầm với “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi, là niềm tự hào
của những người Việt Nam yêu nước. Với phong cách nghệ thuật độc đáo và riêng biệt, Hồ Chí

Minh đã để lại tên tuổi của mình và làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam. Tấm lòng yêu nước,
thương dân, tâm huyết và khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh về độc lập tự do của dân tộc
thực sự đã trở thành một ngọn lửa thần tạo nên tài năng văn chương của Người, đúng như nhận
định của Raxun Gazatôp: Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ trong cành khô, tài năng bắt
nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người.”
……………………………………………………
NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ
-Nguyễn Tn7

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

A. MỞ BÀI CHUNG
- MB1: Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người
dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tuân chính là nhà văn như thế. Ông là người
theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm cái đẹp và “Suốt đời
tơn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của
cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với q hương, đất nước. Nguyễn Tuân được người
đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy được gắn
với chữ “ngông” và sự tài hoa, uyên bác. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân
chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người "một thời vang bóng" như Huấn
Cao thì sau cách mạng, ơng khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên
những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị của thiên nhiên và đời sống con người. “Người lái
đị sơng Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng. Đoạn trích “…”
thể hiện rõ ….về…qua đó…. (Dẫn vào u cầu cụ thể của đề)
B. PHÂN TÍCH MỘT SỐ ĐOẠN VĂN TRONG TÁC PHẨM
Đoạn số 1:
Hùng vĩ của sông Đà khơng phải chỉ có thác đá. Mà nó cịn là những cảnh đá bờ sông,

dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lịng
Sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng
con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vửa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ st bất cứ người lái đị
Sơng Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền ra.
Lại như qng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sơng bỗng có những cái hút nước
giống như cái giếng bê tơng thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu
như cửa sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xốy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn.
Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt
quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài
bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước
ặc ặc lên như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy
nó lơi tụt xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược
rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh
sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ
cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy hút Sơng Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh
nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim
màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây
toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp
vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lịng giếng xốt
tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như
8

Giáo viên: Lưu Thị Tâm



Tài liệu ơn thi tốt nghiệp THPT

ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh
phèn.
(Người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tn)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sơng Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận
xét về cách nhìn mang tính phát hiện về dịng sơng Đà và cái Tơi của nhà văn Nguyễn Tuân.
I. MỞ BÀI
- Tham khảo mở bài chung
- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đị Sơng Đà” thể hiện rõ cách nhìn mang tính phát
hiện của nhà văn Nguyễn Tn về dịng sơng Đà: “Hùng vĩ… đánh phèn”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đị Sơng Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960),
gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều
vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng
cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lịng tự hào dân tộc. Tình u nước
ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sơng Đà – dịng
chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ơng trong tùy bút “Người lái đị
sơng Đà”. Chỉ có Nguyễn Tn mới khơng nhọc cơng dị đến ngọn nguồn lạch sơng, truy tìm đến
tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đơng và
thoạt kì thủy, dịng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang.
Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ
nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.
- Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc
biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dịng sơng. Sơng Đà khác hẳn các dịng sơng khác

bởi nếu tất cả các dịng sơng khác đều chảy về hướng đơng thì riêng Sơng Đà chạy về hướng bắc.
Có lẽ vì con sơng đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của
Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình. Ở lời đề từ “Đẹp
vậy thay tiếng hát trên dịng sơng” tác giả lại thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dịng
sơng và con người gắn bó với dịng sơng, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca
thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà
văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan.
Ơng khơng thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì
phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu
phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự
liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tn đã xây
dựng con sơng Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vơ tri vơ giác thành
một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và
viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi
bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại
9

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ơn thi tốt nghiệp THPT

trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng
cũng là một cơng trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất
men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách
hung bạo của Đà giang.
2. Hình tượng con Sơng Đà qua đoạn trích
Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dịng sơng Đà ở đây là “Hùng vĩ của sơng Đà khơng phải
chỉ có những thác đá”. Câu văn đã khẳng định sơng Đà là dịng sơng hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ

ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sơng Đà khơng chỉ có thế
mà cịn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước được miêu
tả trong đoạn trích.
2.1. Cảnh đá bờ sơng dựng vách thành
Sơng Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh “vách thành” đã phần
nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của những vách núi bên bờ
sông Đà. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi
tả gián tiếp độ hẹp của dịng sơng, độ cao của vách đá. Chẳng hạn, mặt sơng chỗ ấy chỉ lúc đúng
ngọ mới có mặt trời. Những vách đá dựng đứng khiến ánh sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa
trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dịng sơng. Hoặc
cách so sánh vách đá thành chẹt lịng sơng Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” cùng với việc
đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách hoặc Có quãng con nai con hỗ đã có lần
vọt từ bờ này sang bờ kia đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lịng sơng
với lưu tốc nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của
những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác
của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh. Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả
vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi
từ ngồi vào khúc sơng có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ
nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
2.2. Mặt ghềnh Hát Lng
Dịng sơng Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca dao:
Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh
Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái thác trên sông
Đà. Đáng chú ý, ở quãng Hát Lng có những ghềnh sơng mà cảnh tượng của nó rất dữ dội Lại
như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Thơng qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông
ấy khơng chỉ dữ dội mà cịn đầy nguy hiểm. Cách nhà văn sử dụng tồn câu ngắn, nhịp nhanh xơ
nhau, dồn dập, chồng chất lên nhau kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp

thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ
dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sơng Đà. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc
thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Lng lúc nào cũng địi nợ xt bất cứ người
lái đị sơng Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của
dịng sơng. Qua từ “nợ xt”, nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc
đáo vì nợ khơng có vẫn địi, khơng địi bằng tiền, bằng tình mà địi bằng mạng sống của con
người. Những người lái qua đó sơ xuất tay lái thì sẽ bị lật ngửa bụng thuyền ra.
10

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

2.3. Hút nước trên sơng Đà
Trên Sơng Đà cịn có những hút nước rất nguy hiểm. Những cái hút nước xốy tít đáy ấy
được tác giả miêu tả qua một loạt những so sánh sống động, đặc sắc. Nó giống như những cái
giếng bê tông được người ta thả xuống sông để chuẩn bị xây móng cầu, với âm thanh thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc, trong âm thanh như nước bị rót dầu sơi. Các từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ
láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng biện pháp nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu, bị sặc…
Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ.
Sự nguy hiểm của những hút nước sông Đà được nhà văn miêu tả qua kiến thức về giao
thơng, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút
nước đáng sợ ấy. Thuyền bè đi ngang qua đó phải đi nhanh, y như là ô tô sang số ấn ga cho
nhanh để thoát khỏi quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nguy hiểm hơn nữa là thuyền bè đi
nghênh ngang là sẽ bị nó “lơi tuột xuống” đáy hút nước. Khi bị hút vào đó, lập tức thuyền trồng
cây chuối, bị dìm sống đi ngầm dưới lịng sơng, mươi phút sau lại thấy xuất hiện nhưng đã tan xác
ở khuỷnh sơng dưới.
Dường như miêu tả bằng hình ảnh, âm thanh chưa đủ, Nguyễn Tuân còn dùng những kiến
thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh để miêu tả những

nước trên Sơng Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có một anh quay phim táo bạo vì muốn truyền
cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào chiếc thuyền thúng trịn vành rồi cả thuyền, cả mình,
cả máy quay xuống xốy hút Sơng Đà để thu ảnh. Đây hẳn là một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc
vào trị chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xốy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay
phim táo tợn. Hút nước được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách
sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây tồn bằng nước cho đến màu sắc của
dịng sơng “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người
khi Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, khi phải đứng trong lòng một khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những thước phim ấy
truyền cảm lại cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân ngồi giữ chặt chiếc ghế
như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên
cái gậy đánh phèn.
3. Đánh giá
3.1. Về nghệ thuật
Bằng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, tác giả
đã khám phá vẻ đẹp của dịng sơng ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều
ngành nghệ thuật khác như giao thông, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng; Sự quan sát tỉ
mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, điêu luyện giàu chất thơ, chất nhạc,
chất tạo hình; Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng tự nhiên, những ví von, so sánh, liên
tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh
và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi
thì chậm rãi, trữ tình... tác giả đã biến con sơng đà từ vơ tri vơ giác thành con sơng có những nét
cá tính riêng biệt mà khơng con sơng nào có.
3.2. Nhận xét những phát hiện về dịng sơng Đà của nhà văn Nguyễn Tuân
Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả khơng chỉ dừng lại ở hình ảnh một dịng sơng ở miền
đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ
dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của Nguyễn Tn, Sơng
Đà khơng cịn là con sơng vơ tri, vơ giác mà là con sơng có linh hồn, có cá tính như con người:
11


Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sơng Đà hiện lên như một cơng trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa
dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó cịn như một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và
người nơi đây.
Qua hình tượng Sơng Đà, Nguyễn Tn thể hiện tình u mến tha thiết đối với thiên nhiên
đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận
và miêu tả Sơng Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sơng
Đà là trong tác phẩm có vai trị là phơng nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao
động trong chế độ mới.
3.3. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích:
- “Cái tơi” tài hoa, tinh tế thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp
hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
- “Cái tơi” un bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận
dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về
chữ nghĩa. Các thuật ngữ chun mơn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy
động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về
đối tượng.
- “Cái tôi” tài hoa, tinh tế và uyên bác chính là một cách thể hiện tình u q hương đất
nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính. Đồng thời cũng cho thấy quan niệm của
Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc đáo của chính người cầm bút.
--------------------------------------------Đoạn số 2:
... Cịn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to
mãi lên. Tiếng thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sơng lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả

một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhơ vào
đường ngoặt sơng là một số hịn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trơng cũng
ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sơng rung tít lên
như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sơng trắng xóa càng làm bật rõ lên những hịn
những tảng mới trơng tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá
bé. Nhưng hình như sơng Đà đã giao việc cho mỗi hịn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận
trên sơng. Đám tảng đám hịn chia làm ba hàng chặn ngang trên sơng địi ăn chết cái thuyền, một
cái thuyền đơn độc khơng cịn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn.
Hàng tiền vệ, có hai hịn canh một cửa đá trơng như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò
dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh
khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến
hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái
thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở chân thác.
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh
viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hịn ấy trơng nghiêng thì y như là đang
hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và
thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. ..
12

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ơn thi tốt nghiệp THPT

(Người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sơng Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận
xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
I. MỞ BÀI
- Tham khảo mở bài chung

- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đị Sơng Đà” thể hiện rõ phong cách tài hoa uyên bác
của nhà văn Nguyễn Tuân: “Còn xa lắm… tiến gần vào”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đị Sơng Đà được in trong tập tùy bút Sơng Đà (1960),
gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều
vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng
cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước
ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sơng Đà – dịng
chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ơng trong tùy bút “Người lái đị
sơng Đà”. Chỉ có Nguyễn Tn mới khơng nhọc cơng dị đến ngọn nguồn lạch sơng, truy tìm đến
tận nơi gốc tích khai sinh ra sơng Đà, để biết chỗ phát ngun của nó thuộc huyện Cảnh Đơng và
thoạt kì thủy, dịng sơng mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang.
Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ
nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.
- Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc
biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dịng sơng. Sơng Đà khác hẳn các dịng sơng khác
bởi nếu tất cả các dịng sơng khác đều chảy về hướng đơng thì riêng Sơng Đà chạy về hướng bắc.
Có lẽ vì con sơng đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của
Nguyễn Tn, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình. Ở lời đề từ “Đẹp
vậy thay tiếng hát trên dịng sơng” tác giả lại thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dịng
sơng và con người gắn bó với dịng sơng, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca
thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà
văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan.
Ơng khơng thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì
phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu

phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự
liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây
dựng con sơng Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vơ tri vơ giác thành
một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Con Sơng Đà hiện lên trong tác phẩm với hai
nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng
lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho
con người nhưng cũng là một cơng trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ
13

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần
miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.
2. Hình tượng sơng Đà trong đoạn trích
2.1. Khái quát
Từ trước đến nay, khi viết về các dòng sông các nhà văn nhà thơ thường ca ngợi vẻ đẹp trữ
tình, hiền hịa, thơ mộng. Cũng có một số nhà văn, nhà thơ miêu tả cảnh dữ dội, hiểm trở, trùng
trùng lớp lớp của những khúc đại giang, của những cảnh thác ghềnh dữ dội như “Bạch đằng giang
phú” của Trương Hán Siêu, “Bạch đằng Hải khẩu” của Nguyễn Trãi... Nhưng có lẽ chỉ đến
“Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tuân thì sự hiểm trở, hung bạo và dữ dội của con sông mới
trở nên sống động và thật khủng khiếp. Trong đoạn văn này, bậc kì tài về mặt ngôn ngữ Nguyễn
Tuân khi miêu tả những thác đá trên sơng Đà đã làm nổi bật lên hình ảnh con sông Đà không chỉ
gập ghềnh, lởm chởm mà còn đầy nguy hiểm, sống dậy gào thét làm náo động cả lên, khiến cho
người đọc phải “rùng mình, sởn gáy” (Nguyễn Đăng Mạnh).
2.2. Tiếng nước thác trên Sông Đà:
Sông Đà hung bạo không chỉ ở những cảnh đá bờ dựng vách thành, những ghềnh sông, hút
nước đầy nguy hiểm mà hùng vĩ và dữ dội nhất trên sông Đà là những thác đá. Những thác đá trên

sông Đà được nhà văn miêu tả chi tiết qua âm thanh, cảnh tượng và sự nguy hiểm đến kinh hồng
của nó. Trước tiên nhà văn cảm nhận nó qua âm thanh. Chủ thể miêu tả đang trong quá trình di
chuyển đến gần cái thác đá, và âm thanh tiếng nước thác được miêu tả phù hợp về khoảng cách và
cường độ. Ban đầu, có lẽ là nghe từ xa thì tiếng nước thác Như là ốn trách gì, rồi lại như là van
xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Rồi khi lại gần, tiếng thác rống như tiếng
một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nguyễn Tuân đã rất ngông khi dùng
lửa để miêu tả nước. Nước và lửa vốn xung khắc với nhau, hủy diệt lẫn nhau nhưng ở đây nhà văn
đã dùng hình ảnh và âm thanh của lửa để miêu tả nước khiến hiện ra trước mắt người đọc là cả
một rừng vầu, tre nứa đang bị đốt cháy, phát ra tiếng nổ. Nhưng âm thanh đó cịn chưa là gì khi
trong khu rừng đang cháy ấy cịn có hàng ngàn con trâu mộng to khỏe đang bị lửa hun nóng và
đốt cháy. Lửa đã bén vào da của đàn trâu khiến chúng rống lên đầy đau đớn và lồng lộn muốn phá
tan rừng lửa để tìm cách thốt thân. Miêu tả từ xa đến gần nên lúc đầu là tiếng “réo” còn về sau
trở thành tiếng “rống”. Đây là cách dùng từ rất chính xác và bất ngờ, khiến sông Đà từ một đối
tượng vô tri vô giác trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí, như một con người. Các sắc thái
khác nhau của âm thanh tiếng “réo” của nước thác: vừa mới “oán trách” và “van xin” như một kẻ
bại trận, biết mình yếu thế hơn đối thủ; ngay lập tức chuyển sang “khiêu khích” và “chế nhạo” rồi
“rống” lên như một kẻ trên cơ, ra sức giễu cợt, đe dọa đối phương. Bản hợp âm khủng khiếp và
địn tâm lí chiến trở mặt như trở bàn tay ấy cho thấy sự nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà khi sắp
xung trận. Những người lái đị yếu bóng vía và non kinh nghiệm sẽ cảm thấy mất tinh thần, hồn
xiêu phách lạc.
Quả thật, sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua tài đối sánh, nhân hóa và trí tưởng tượng
phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã cho người đọc một cảm giác mạnh đến tận độ. Như vậy,
chỉ riêng với âm thanh của thác đá sông Đà, Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng trong người đọc về sự
dữ dội đến khủng khiếp của những thác đá Sông Đà.
2.3. Những thạch trận đá trên sông Đà
14

Giáo viên: Lưu Thị Tâm



Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

Tiếp theo là những ấn tượng từ sự quan sát trực quan của tác giả khi đã “Tới cái thác rồi”.
Cảnh tượng những thác đá trên Sông Đà cũng thật dữ dội. Ngoặt tới khúc sơng ấy là cảnh sóng
bọt đã trắng cả một chân trời đá. Sóng nước vấp phải đá tung bọt trắng xóa. Sơng Đà ở đây bao
nhiêu là đá với đủ những đá to đá bé, đá hòn đá tảng… mà thằng đá nào trông cũng ngỗ ngược,
xấc xược, hỗn hào, du cơn và mặt cũng nhăn nhúm, méo mó hơn mặt nước ở quãng ấy. Dưới ngòi
bút tài hoa của Nguyễn Tn, mỗi hịn đá khơng chỉ mang những nét chung ấy mà cịn có một
gương mặt riêng. Để khắc họa từng gương mặt riêng của những hòn đá trên thác đá Sông Đà,
Nguyễn Tuân đã phải lao động cật lực, khổ công quan sát và tung ra trường từ vựng hết sức giàu
có, phong phú. Phép liên tưởng và nhân hóa, kết hợp với những động từ, tính từ: chỉ hành động
(nhổm cả dậy, vồ lấy, chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), chỉ tính cách
(ngỗ ngược), hình sắc (nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm) khiến người đọc
cảm nhận Sông Đà mang gương mặt của dân anh chị, những kẻ cơn đồ chun đi địi nợ th bặm
trợn và sẵn máu giang hồ.
Sự nham hiểm quỷ quyệt của Sơng Đà đối với những người lái đị được thể hiện rõ nhất ở
những thế trận mà đá dàn bày. Đội quân đá ấy ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng. Đá
sơng Đà dường như khơng đứng, nằm, ngồi một cách tùy tiện mà Sông Đà đã giao việc cho mỗi
hòn. Mỗi hòn một dáng (đứng, nằm, ngồi), mỗi hòn một nhiệm vụ (đám tảng đám hòn chia làm ba
hàng chặn ngang trên sông: hàng tiền vệ là hai hịn canh một cửa đá trơng như là sơ hở giữ vai trò
dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; tuyến giữa sóng nước đánh khuýp quật vu hồi lại, tuyến
ba là những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi có nhiệm vụ phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá
tuyến trên).
Đá trên sông Đà đã giao việc cho nhau như vậy để dàn bày thành ba thạch trận đá đầy biến
hóa. Mỗi thạch trận đều có rất nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh lúc ở bên
tả, lúc ở bên hữu, lúc ở chính giữa. Thạch trận thứ nhất: Sơng Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa
tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sơng. Thạch trận thứ hai: “ Tăng thêm nhiều
cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dịng thác
hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Đến thạch trận thứ

ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay
giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân
thác phải đánh tan cái thuyền, tiêu diệt cả thủy thủ và thuyền trưởng trên chiếc thuyền ấy.
Có thể nói, bằng vốn kiến thức phong phú, sự tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân đã sử dụng
kiến thức ở nhiều lĩnh vực như giao thông, điện ảnh, quân sự, võ thuật (“mai phục”, “chặn
ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn
tỉa”, “đòn âm”)... làm hiện lên hình tượng con Sơng Đà dữ dội, hung bạo đến khủng khiếp. Con
Sơng Đà như một lồi thủy quái, hung hăng, bạo ngược, là một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện
mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình
làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đị Sơng Đà”. Chẳng
thế mà sơng Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh:
Núi cao sơng hãy cịn dài
Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hoá. Ơng dùng những câu góc cạnh,
giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập; sử dụng lối nói ví von,
15

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị; vận dụng hiểu biết của nhiều ngành
khác nhau: địalý,l ịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp
của sông Đà. Cùng với nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng phong phú, ngịi bút miêu tả độc đáo, con
sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào trang văn Nguyễn Tn đã trở thành một
sinh thể có tính cách và tâm lí rất ghê gớm, đáng sợ.
3.2. Nội dung

Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của sơng Đà, biểu tượng cho vẻ
đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con người
cần chinh phục và cũng là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp. Qua đó ta có thể
hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đị phải vượt qua, từ đó ta càng khâm phục
hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục con sơng, bắt nó phải quy phục và
cống hiến cho cuộc sống của con người.
3.3. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
- Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã được tái
hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng thú với những vẻ đẹp
vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tn: Ơng khơng chấp
nhận sự sáo mịn. Ơng ln tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà
văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm
giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Ơng có xu hướng muốn tơ đậm cái cá tính, phi
thường của dịng sơng Đà để gây cảm giác mãnh liệt, dữ dội. Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ
cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế. Một cái tôi uyên bác
khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà. Nét
độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác trong ngòi bút Nguyễn Tuân khiến cho hình tượng
sơng Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.
- Phong cách nghệ thuật đã thể hiện rõ Nguyễn Tuân là nhà văn có ý thức tự khẳng định
cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ơng là người có một lòng yêu quê hương đất nước tha thiết,
một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn,
trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.
-------------------------------------------------------------

Đoạn số 3:
…Sóng thác đã đánh đến miếng địn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vơ sở bất chí ấy bóp
chặt lấy hạ bộ người lái đị […]. Mặt sơng trong tích tắc lịa sáng lên như một cửa bể đom đóm
rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ơng đị vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn
kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh địn tỉa, đánh

địn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái
thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá
xong cái trùng vi thạch trận vịng thứ nhất. Khơng một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá ln
vịng vây thứ hai và đổi ln chiến thuật. Ơng lái đã nắm chắc binh pháp của thần sơng thần đá.
Ơng đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vịng đầu vừa rồi, nó mở ra
năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sơng. Vịng thứ hai
16

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang
hồng hộc tế mạnh trên sơng đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ơng đị ghì
cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một
đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xơ ra định
níu thuyền lơi vào tập đồn cửa tử. Ơng đị vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ơng tránh mà rảo bơi
chèo lên, đứa thì ơng đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại
sau thuyền. Chỉ cịn vẳng reo tiếng hị của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn khơng ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng
thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Cịn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa
hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá
cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….
(Trích Người lái đị sơng Đà - Nguyễn Tn, Ngữ văn 12, tập một)
Phân tích nhân vật ơng lái đị trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xét cái nhìn
mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

(Có thể hỏi theo cách khác: khám phá về người lao động mới hoặc tìm thấy chất vàng mười
đã qua thử lửa trong tâm hồn Tây Bắc)
I. MỞ BÀI
- Tham khảo mở bài chung
- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đị Sơng Đà” đã làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật ơng
lái đị, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tn: “…Sóng
thác đã đánh đến miếng địn… Thế là hết thác””.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát (Có thể lược ngắn gọn hơn)
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đị Sơng Đà được in trong tập tùy bút Sơng Đà (1960),
gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều
vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng
cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Giới thiệu về nhân vật trong tác phẩm: Nhân vật ơng lái đị khơng có tên tuổi, lai lịch cụ thể
mà chỉ được gọi bằng nghề nghiệp. Nhà văn đã làm mờ tên tuổi của nhân vật để khái quát vẻ đẹp
của con người Tây Bắc, vẻ đẹp của những người lao động bình dị mà phi thường. Nhà văn
Nguyễn Tuân giới thiệu “Ơng lái đị Lai Châu bạn tơi” khoảng 70 tuổi. Ơng đã làm nghề lái đị
trên Sơng Đà được hơn mười năm, đã xi ngược trên dịng sơng Đà hàng trăm chuyến để trở
thành da trâu, xương hổ, cánh kiến về xi và ơng cũng đã khơng lái đị được khoảng 10 năm. Ở
tuổi 70, ngoại hình của ơng lái đò được nhà văn miêu tả: cái đầu bạc quắc thước, đôi tay dài lêu
nghêu trông rất trẻ trung, đôi chân khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng.
Nhãn giới vòi vọi như lúc nào cũng chờ đợi một cái bến tưởng tượng trong sương mù, giọng nói
17

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT


ào ào như nước mặt gềnh… Có thể nói ngoại hình của ơng lái đị là ngoại hình của một người lao
động trên sơng nước. Trên ngực cịn ơng nổi một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân rất
ngưỡng mộ gọi là “thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Giống như hầu hết các nhân vật của Nguyễn Tuân như Huấn Cao với nét chữ rồng bay phượng
múa, nói lên cái hồi bão tung hoành của cả cuộc đời con người, giống như một cụ ấm thức dậy từ
tờ mờ sáng đã pha trà để nhận ra trong chén trà “có mùi thơ và một triết lý”… Hình tượng ơng lái
đị Tây Bắc cũng là một người nghệ sĩ trong công việc, nghề nghiệp của mình. Ơng là tay lái ra
hoa, là một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh, Để làm nổi bật tài hoa, trí dũng
của ơng lái đị, nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra tình huống nghệ thuật ơng lái đị vượt thác
Sơng Đà là một một cuộc thủy chiến có một khơng hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy
quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ơng lái đị tuy dẻo dai, cường
tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt.
2. Vẻ đẹp của ơng đị trong đoạn trích
2.1. Tái hiện hình ảnh ơng lái đị trong cuộc giao tranh với dịng Sơng Đà
Đoạn văn đã tái hiện cuộc giao chiến của ơng lái đị với dịng sơng Đà một cách sinh động,
đầy gay cấn. Sơng Đà trong đoạn trích hiện nguyên hình là một kẻ thù số một của con người, như
một bầy thủy quái rất nham hiểm, chúng bày sẵn những thạch trận đá đầy biến hóa với mục đích
ăn chết cái thuyền, tiêu diệt thủy thủ và thuyền trưởng ở ngay chân thác.
- Thạch trận thứ nhất: Ở thạch trận thứ nhất, Sông Đà hiện lên là một đối thủ kiên cường,
lắm mưu nhiều kế: nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía
tả ngạn sơng. Cảnh hỗn chiến ác liệt bởi Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất rồi lại
đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Thác nước reo hò làm thanh viện Tăng
thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác, chúng tạo ra cảnh tượng đầy đe dọa Mặt sơng
trong tích tắc lịa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng.
Một bên giao chiến nữa là ông lái đò. Trước sự tấn công đầy dữ dội của dịng sơng, ơng lái đị đã
bị thương, mặt méo bệch đi nhưng ông cố nén vết thương, hai tay giữ chặt mái chèo, chân kẹp
chặt lấy cuống lái. Bằng thể chất dẻo dai, cường tráng, sức chịu đựng phi thường và bằng sự bình
tĩnh, tự tin trên chiếc thuyền sáu bơi chèo vẫn vang lên tiếng chỉ huy ngắn gọn, dứt khốt của
người cầm lái ơng lái đị đã vượt qua thạch trận thứ nhất một cách bình tĩnh, chủ động.

- Thạch trận thứ hai: Không được nghỉ tay nghỉ mắt, ơng lái đị bước vào ngay thế trận
thứ hai. Thế trận này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn, vẫn chỉ có một cửa sinh còn lại đều là luồng chết. Thác nước Sông Đà
được so sánh với sức mạnh của hổ báo và chúng tấn cơng những người lái đị một cách quyết liệt
với dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sơng đá. Nhưng bằng nghệ thuật lái đị điêu luyện,
ơng lái đị chủ động thế tấn cơng, ơng cưỡi lên sóng thác sơng Đà như là cưỡi hổ, “Nắm chặt lấy
bờm sóng”, “ghì cuống lái”, “lái biết một đường chéo để phóng nhanh vào cửa sinh”. Hàng loạt
động từ được nhà văn huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu để miêu tả khí thế xung
trận của ơng đị: Nắm, ghì, phỏng, lái, tránh, ráo, đè, chặt… Dù ơng đị đã bẻ gãy những đợt tấn
cơng của chúng, nhưng bọn đá sông Đà vẫn chưa chấp nhận chịu thua nên bốn năm thủy quân cửa
ải xô ra để hịng lơi thuyền vào tập đồn cửa tử nhưng ông đò sớm đã nhận ra dã tâm của chúng,
đứa thì ơng tránh mà rảo bơi chèo, lúc thì ơng chặt đôi ra để mở đường tiến, khiến thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa đá này mặt xanh lè, tiu nghỉu vì thất trận.
- Thạch trận thứ ba: Thạch trận thứ ba ít cửa hơn. Nhưng bên phải bên trái, bên tả bên
hữu đều là cửa chết. Những thế trận mà sơng Đà dàn bày quả thực đầy biến hóa, vừa khiêu khích,
18

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

dụ dỗ vừa đầy mưu cao kế hiểm. Ở trùng vi thạch trận này, tác giả miêu tả không nhiều song vẫn
làm nổi bật lên được sự nham hiểm của đá thác Sông Đà và tài nghệ của ơng lái đị. Một loạt các
động từ lại được nhà văn sử dụng để miêu tả cách đánh của ơng đị: Phóng, chọc thủng, xun
qua, xun nhanh, lái lượn được.. phối hợp phép điệp "cánh mở, cánh khép", "cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng", âm thanh "vút vút" tạo nên sự thần tốc trong cách đánh. Quả đúng như
Phan Huy Đông đã từng nhận định, "Đọc Người lái đị Sơng Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do
của một tài năng, một đấng hóa cơng thực sự trong nghệ thuật ngơn từ". Cách đánh nhanh thắng
nhanh đã giúp người lái đò vượt qua các trùng vi một cách phi thường. Đến đây, người lái đò đã

khiến nhà văn, khiến người đọc và có lẽ là cả đội qn đá trên sơng Đà phải hồn tồn tâm phục
khẩu phục. Ơng đã bộc lộ hết tài năng của mình, thể hiện một trình độ chèo lái điêu luyện, dạn
dày, siêu phàm như đua tài cùng tạo hóa. Tài nghệ đến mức điêu luyện của ông đã khiến việc lái
đò như biến thành một môn nghệ thuật: Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….
=> Có thể nói quy luật trên Sơng Đà là một quy luật khắc nghiệt chỉ cần thiếu bình tĩnh,
một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng cả mạng sống. Tuy nhiên, trong cuộc chiến
không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo
là vũ khí duy nhất, chiến thắng đã thuộc về con người.
2.2. Đánh giá về đẹp của ơng lái đị
"Nếu Xn Diệu xem tình u là tơn giáo thì Nguyễn Tn xem cái đẹp như là tơn giáo của
mình" (Gs Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái
đẹp, là người nghệ sĩ ý thức đầy đủ về thiên chức sáng tạo. Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật,
ơng ln tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái đẹp, cái thật, cái mới lạ, độc đáo “xưa nay
chưa từng có”. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông và cuộc giao chiến
giữa những người lái đò với dòng sơng hung bạo, Nguyễn Tn nhằm đến một mục đích lớn là ca
ngợi vẻ đẹp của ơng lái đị, ca ngợi sự dũng cảm, tài trí và chiến thắng vĩ đại của ông.
- Tài hoa: Nguyễn Tuân quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, con người
trong tác phẩm của ơng dù làm bất cứ cơng việc gì, ở tầng lớp nào đều là bậc nghệ sĩ trong cơng
việc, nghề nghiệp của mình. Qua sự miêu tả của Nguyễn Tn, cơng việc lái đị đã trở thành một
nghệ thuật và trình độ lái đị của ơng lái đị đã đạt đến sự siêu phàm. Tài hoa của ông lái đị được
thể hiện rõ:
+ Ơng lái đị rất am hiểu về dịng sơng Đà Ơng lái đã nắm chắc binh pháp của thần sơng
thần đá. Ơng đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, ông cũng nhớ mặt
của từng thằng đá với những âm mưu của chúng Ơng đị vẫn nhớ mặt bọn này nên rất ung dung
chủ động. Hình ảnh ơng lái đị vì thế được đánh giá “trên thác hiên ngang người lái đị sơng Đà có
tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dịng nước Sơng Đà”.
+ Ơng lái đị đã trở thành một nghệ sĩ điêu luyện trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh,
một tay lái ra hoa. Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy của thạch

trận sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện.
Nhà văn đã sử dụng ngơn từ có tính nghệ thuật cao để miêu tả tài năng của ơng lái đị như “Ơng
lái đị ghì cương lái”, lái miết một đường chéo”, “đè sấn lên”, “chặt đôi ra để mở đường tiến”,
“thuyền như một mũi tên xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xun vừa tự động lái lượn được”...
+ Hình tượng ơng lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân bởi ơng chính là kiểu
người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên thành một mơn nghệ thuật. Và điều
19

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

đáng chú ý ở đây là những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con
người vĩ đại, phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vơ danh.
- Trí dũng: Để làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng của ơng lái đị, nhà văn đã sáng tạo một đoạn
văn tràn đầy khơng khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đị với
“bầy thủy qi” Sơng Đà. Sơng Đà dữ dội, hiểm độc với trùng trùng, lớp lớp dàn trận bủa vây, có
sự hợp sức của nhiều thế lực: sóng, nước, đá…cịn ơng đị là một viên tướng dũng cảm tả xung
hữu đột, tỉnh táo nhanh nhẹn, quyết đoán chỉ huy và điều khiển con thuyền qua nhiều vòng, nhiều
cửa và cuối cùng ơng lái đị đã chiến thắng. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng tung ra những kiến thức
về quân sự, võ thuật, thể hiện một vốn kiến thức rất phong phú uyên bác để làm nổi bật vẻ đẹp
như một anh hùng trên sơng nước của ơng lái đị.
3. Đánh giá về đoạn trích
3.1. Về nghệ thuật:
Với tình huống đầy thử thách giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất, lối dựng cảnh đặc sắc, giàu
giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tích, các phép liên tưởng tưởng tượng độc đáo, đầy bất ngờ
và thú vị, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng tri thức ở nhiều lĩnh vực như
điện ảnh, võ thuật, thể thao; nghệ thuật xây dựng nhân vật chú trọng tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ;
ngôn ngữ sống động, biến hóa phong phú, những câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu hình ảnh và

sắc thái, mà nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu nói "tỉa tót mà vẫn mạch lạc góp phần
miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tài hoa, trí dũng của nhân vật.
3.2. Cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Qua nhân vật ơng lái đị, Nguyễn Tn có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao
động mới: Ơng đị chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền Tây Bắc âm
thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm nên những kì tích lớn lao trong cơng cuộc chiến
đấu với thiên nhiên hung dữ. Hình tượng ơng lái đị nơi thác sơng Đà hoang vu, khuất nẻo là bản
anh hùng ca ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững về con người trong cơng việc lao động
chính phục tự nhiên để giành lấy miếng cơm manh áo. Thơng qua hình tượng ơng lái đò, nhà văn
Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng, cảm phục, ca ngợi con người Tây Bắc với chất vàng mười đã
qua thử lửa trong tâm hồn, đồng thời thể hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng
đất nước.
- Qua nhân vật ơng đị cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân
sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những “con người
đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tn có thể
tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
- Nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, tài hoa nghệ sĩ và anh hùng
+ Với Nguyễn Tuân con người dù làm bất cứ nghề nghiệp, công việc nào nếu đạt đến trình
độ thành thạo và điêu luyện thì đều rất đáng quý đáng trọng vì khi đó ở họ bộc lộ sự tài hoa nghệ
sĩ.
+ Những người tài hoa nghệ sĩ khơng chỉ có ở những lĩnh vực có tính nghệ thuật mà cịn có
ở trong những lĩnh vực tưởng không liên quan đến nghệ thuật. Người nghệ sỹ không chỉ là người
sáng tạo ra cái đẹp mà cịn là người biến cơng việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật…
Như ơng lái đị trong tác phẩm đã trở thành người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh và
biến công việc lái đị thành một nghệ thuật.
+ Những người anh hùng khơng chỉ có ở nơi chiến trường mà cịn có ngày ở trong cuộc
sống hằng ngày trong cuộc vật lộn với tự nhiên để giành lấy cuộc sống.
20

Giáo viên: Lưu Thị Tâm



Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

3.3. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
- Đoạn văn góp phần thể hiện phong cách Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa
giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tơi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ơng khơng chấp nhận sự
sáo mịn. Ơng ln tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn
tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả bộc lộ sự tinh tế trong mĩ cảm với
trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa điêu luyện. Một cái tôi uyên bác khi
huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng. “Người lái đị
sơng Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau cách mạng.
--------------------------------------------------------------Đoạn số 4
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xn.
Tơi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà
nhìn xuống dịng nước Sơng Đà. Mùa xn dịng xanh ngọc bích, chứ nước Sơng Đà không
xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lơ. Mùa thu nước Sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da
mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi
độ thu về. Chưa hề bao giờ tơi thấy dịng Sơng Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta
ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Đã có lần tơi nhìn Sơng Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã
thấy thèm chỗ thống. Mải bám gót anh liên lạc, qn đi mất là mình sắp đổ ra Sơng Đà. Xuống
một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ
chạy. Tơi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông
con sông, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi
rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sơng Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu
người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính

và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.191-192)
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sơng Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó nhận xét
về chất thơ trong đoạn trích.
I. MỞ BÀI
- Tham khảo mở bài chung
- Đoạn trích sau đây ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sơng Đà thể hiện chất thơ trong
sáng tác của Nguyễn Tuân “Con sông Đà tuôn dài…ngay đấy”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đị Sơng Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960),
gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều
vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng
cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
21

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

- Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà
văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan.
Ơng khơng thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì
phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu
phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự
liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tn đã xây
dựng con sơng Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vơ tri vơ giác thành

một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và
viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi
bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại
trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng
cũng là một cơng trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất
men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách trữ
tình, thơ mộng của Đà giang.
2. Hình tượng con Sơng Đà qua đoạn trích: Sơng Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng
- Điểm nhìn nghệ thuật: Văn chương ln địi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tịi những điều mới
lạ. Bởi chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng tác của người
nghệ sĩ. Vẫn quan sát con sông Đà ở chiều không gian, nhưng trong tùy bút “Người lái đị Sơng
Đà”, Nguyễn Tn đã tạo ra sự mới lạ khi ông quan sát và miêu tả Sơng Đà với một điểm nhìn
khác biệt là nhìn từ trên cao nhìn xuống. Nếu trước đó nhà văn viết rằng mình ngồi trên máy bay
mà quan sát sơng Đà Tơi có bay tạt ngang qua sơng Đà mấy lần, và cũng là thêm cho mình một
góc độ nhìn một cách nhìn về con sơng Tây Bắc thì trong đoạn văn này tác giả vẫn thể hiện điểm
nhìn ấy: Tơi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa
thu mà nhìn xuống dịng nước Sơng Đà.
- Con sơng Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân: Từ điểm nhìn đặc biệt đó, tác giả đã cho người
đọc thấy Sơng Đà thật mềm mại, thướt tha chảy dọc trên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn. Tác giả cịn
nhìn thật sâu vào dịng Sơng Đà để thấy “con Sơng Đà tn dài, tn dài như một áng tóc trữ
tình. Hai từ “tn dài” được lặp lại hai lần cho ta thấy được dịng chảy của Sơng Đà dường như nó
vơ cùng, vơ tận như khơng có điểm dừng cùng với nhịp câu toàn là thanh bằng đã phần nào diễn
tả sự chảy trơi của con sơng sao nó chậm rãi êm đềm đến như thế! Nó thật khác so với sự cuồn
cuộn của “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió” của mặt ghềnh Hát Lng phần thượng nguồn.
Khơng chỉ thế ta còn bắt gặp được sự tài hoa, cái chất “ngông” của Nguyễn Tuân trong cách bỏ
dấu câu khiến cho dịng sơng nó cứ chảy trơi, chảy trơi êm ả giữa miền đất rộng lớn Tây Bắc. Nhà
văn còn so sánh Sơng Đà như “một áng tóc trữ tình” làm cho dịng Sơng Đà giống như một làn tóc
mây thướt tha, bồng bềnh và mang vẻ đẹp của người thiếu nữ kiều diễm. Từ “áng” vừa có sự quen
thuộc bởi ta thường bắt gặp từ “áng” ở áng văn, áng thơ vừa có sự mới lạ vì ở đây nó được
Nguyễn Tn gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”. Cả cụm từ ấy đã bộc lộ vẻ đẹp đầy chất thơ, sự

trẻ trung và mềm mại đầy nữ tính của con sông Tây Bắc.
- Sông Đà ẩn hiện giữa thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Sông Đà như mái tóc của người
thiếu nữ kiều diễm mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xn. Vẻ đẹp của dịng sơng được tác giả
điểm tơ như mái tóc được cài lên những những bông hoa đầy sắc màu như màu trắng tinh khôi
của hoa ban, màu đỏ thắm của hoa gạo trong tiết tháng Ba. Ngồi ra, dịng sơng cịn mang vẻ đẹp
ấm áp, mơ màng khi nó ẩn hiện giữa mù khói Mèo đốt nương xuân. Vẻ đẹp của dịng sơng hài hịa
22

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc thêm mĩ miều. Có thể nói những
câu văn đầu tiên trong đoạn văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn
đẹp được coi là “tờ hoa”, “trang hoa” trong văn học Việt Nam.
- Vẻ đẹp trữ tình của sơng Đà được thể hiện qua màu sắc nước: Nhà văn cịn có sự quan
sát theo chiều thời gian để thấy rõ sự biến đổi khôn lường của màu nước Sông Đà theo mùa. Khi
miêu tả sắc nước Sông Đà Nguyễn Tuân đã bộc lộ sự mê hoặc trước khi miêu tả sắc nước Sông
Đà trong hai mùa: xn và thu: “Tơi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã
xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống nước Sơng Đà”. Về mùa xn sơng Đà hiện lên với
màu “xanh ngọc bích” – đó là một màu xanh vừa trong vừa sáng, đầy hấp dẫn. Ta như bắt gặp
màu xanh này trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mạc Tử khi miêu tả khu vườn
thôn Vĩ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Điểm độc đáo ở đây của cả hai tác giả đều lựa chọn
sắc xanh ngọc bích để tăng thêm vẻ đẹp của đối tượng miêu tả. Nhưng có lẽ việc sử dụng màu
xanh ngọc bích để miêu tả sắc Sông Đà của Nguyễn Tuân vào mùa xuân như đang là tăng thêm sự
quý giá của Sơng Đà như “chất vàng” mà Nguyễn Tn ln tìm kiếm. Khơng chỉ thế Nguyễn
Tn cịn khẳng định sự khác biệt về màu sắc của Sông Đà không “xanh như màu xanh canh hến
của sông Gâm sông Lô”. Đến đây ta nghĩ đến lời nhận xét của TS. Trịnh Thu Tuyết: “Việc so sánh

màu ngọc bích của Sơng Đà với màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô không phải chỉ là
biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài, khoe un bác mà cịn là một sự thiên
vị của một niềm yêu”. Có lẽ Nguyễn Tuân yêu Sông Đà quá nhiều nên bất cứ con sông nào với
ông cũng không đẹp như sông Đà.
Mùa xuân qua đi mùa thu lại đến sắc nước Sông Đà có sự biển đổi đầy rõ nét khơng chỉ
cịn là sắc xanh ngọc bích đầy hấp dẫn đấy nữa mà thay vào đó là màu “lừ lừ chín đỏ”. Phải chăng
là màu đỏ của “Những dịng sơng đỏ nặng phù sa” mà Nguyễn Đình Thi miêu tả? Và như để giải
thích rõ hơn về màu đỏ của nước sơng Đà nên sau đó tác giả đã miêu tả và so sánh sắc đỏ ấy với
hai đối tượng khác nhau là khiến người đọc dễ hình dung hơn là “lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bỗi gì mỗi độ thu về” hay “như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Nhà
văn đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh màu sắc của con sông với sắc thái, tâm trạng
của con người lúc “bất mãn”, “bực bội” khi mỗi đợt thu về đã làm cho con sông Đà hiện lên
không cịn vơ tri, vơ giác nữa mà khiến nó trở nên có hồn và có cảm xúc. Ngồi ra ta còn thấy
được cái tài của Nguyễn Tuân khi đặt hai màu của hai mùa khác nhau trong năm, xanh và đỏ ở
cạnh nhau cũng vô cùng tinh tế. Hai màu đó tuy đối chọi nhau giờ lại hài hịa, êm dịu một cách lạ
thường… Như vậy bên cạnh vẻ đẹp dun dáng thì Sơng Đà cịn có vẻ đẹp đầy biến ảo linh hoạt,
hấp dẫn khơng lặp lại mình. Nếu như vào mùa xuân sắc nước gợi lên sự êm dịu trong trẻo thì sang
mùa thu sắc nước chuyển mình đỏng đảnh ẩn chứa nhiều sức mạnh tiềm tàng của nó.
Với cái nhìn của tình u và tinh thần dân tộc nên trong đoạn văn, Nguyễn Tuân còn thể hiện
sự am hiểu tường tận về dịng sơng hơn nữa. Ơng khẳng định chưa bao giờ, sơng Đà có màu đen
như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu, rồi
cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ”.
- Cách nhìn nhận của tác giả về dịng sơng Đà: Nguyễn Tn đã nhìn dịng sơng Đà
khơng đơn thuần với quan hệ giữa nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những
người bạn tri âm tri kỉ. Bởi vậy, tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dịng
sơng mà còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của
dịng sông với con người. Tác giả dùng từ “cố nhân” rất gần gũi, thiêng liêng để gọi sông Đà.
Trong văn hóa của người Việt Nam thì “cố nhân” dùng để chỉ những tình bạn thân thiết, gắn bó,
23


Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ơn thi tốt nghiệp THPT

những tình bạn đã được tạo nên từ sự đồng điệu tri âm, đã được thử thách bởi những thăng trầm
của thời gian. Hơn nữa, từ “cố nhân” còn gợi lên cảm xúc bâng khuâng, da diết của một nỗi nhớ
đậm sâu về người cũ, xa cách lâu ngày. Và như vậy, khác hẳn với con thủy qi hung dữ ln tìm
cách đe dọa, tiêu diệt con người ở thượng nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng
và đằm thắm, trở thành đối tượng chia sẻ mọi buồn vui với con người. Bởi vậy khi phải xa cách
dịng sơng, Nguyễn Tn nhớ dịng sơng như nhớ một người bạn thân thiết .
Vì tác giả dành cho dịng sơng nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại con sơng u
thương, nhà văn có cảm giác “đằm đằm, ấm ấm” và niềm vui vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ.
Niềm vui được tác giả diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên tiếp đặt cạnh
nhau:“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nổi lại
chiêm bao đứt qng”. Có thể nói đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ. Cách so sánh giúp tác giả
diễn tả chính xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của mình. Trong đó, Vui như thấy nắng giịn tan
sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự mong đợi đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng
lạc quan, tươi sáng. Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng
vơ cùng mãnh liệt, vì mãnh liệt nên nó có thể nối lại được những giấc mơ đã đứt.
Khi gặp lại Sơng Đà, với một cái nhìn rất gần nhà văn nhận ra vẻ đẹp mang đầy chất thơ
của nó. Vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng của nước Sơng Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ
“trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Vẻ đẹp
của nắng sơng Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu
nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về Dương Châu
giữa tháng ba, mùa hoa khói). Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên, kì ảo
trong khu vườn cổ tích: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Ở
đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên
nhịp điệu nhanh, dồn dập, cụm từ “sơng Đà” được điệp lại liên tiếp thể hiện tình cảm ấm nóng
như đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi lại tất cả những gì là đẹp đẽ, thơ mộng

dị nhất của sơng Đà.
3. Đánh giá về đoạn văn
3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Bằng những cảm nhận tinh tế tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã phác thảo hình sắc của
nước Sông Đà bằng những đường nét uyển chuyển, bằng những màu sắc biến ảo lung linh. Nếu ví
sơng Đà là một sản phẩm nghệ thuật thì đây là một tác phẩm hội họa tuyệt mỹ. Và để làm rõ vẻ vẻ
đẹp trữ tình của dịng sơng Đà, Nguyễn Tn đã miêu tả từ nhiều thời điểm: mùa xuân, mùa thu,
từ nhiều góc độ: khi thì ngồi trên trực thăng để bao qt tồn cảnh, khi thì xi thuyền dọc theo
sơng Đà thậm chí có khi cịn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng.
Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sơng Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa chiều,
phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa
cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó địi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách
mới lạ, thu hút người đọc. Thì đối với Nguyễn Tuân ở đây cũng vậy. Ông đã sử dụng kiến thức hội
hoạ, thơ ca để miêu tả; Vận dụng nhiều những biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, những
ví von, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu
hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà, sâu lắng; Lời
văn bay bổng, phóng túng – viết khơng theo ngun tắc các dấu chấm, dấu phẩy, bỏ đi để tạo nên
sự dịu dàng uyển chuyển liền mạch của dòng chảy Sông Đà. Cùng với việc sử dụng nhiều thanh
24

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT

bằng tạo một con sông êm ả giống như một thiếu nữ Tây Bắc rất mực nữ tính mà vẫn hùng vĩ lớn
lao.
3.2. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích
- Chất thơ là sự pha trộn những đặc điểm của thơ ca vào tác phẩm văn học thuộc thể loại

khác. Chất thơ trong văn xi nói chung được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện
một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước
thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp
với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
- Biểu hiện của chất thơ trong đoạn trích:
+ Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dịng sơng: Sơng Đà như một người gái đẹp
của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa
ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù
sương khói…Vẻ trữ tình của dịng sơng mang vẻ đẹp của Đường thi khi nó gợi nhớ câu thơ của Lí
Bạch.
+ Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dịng sơng thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm đằm ấm
ấm và niềm vui như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt. Đặc biệt, thán từ chỉ cảm xúc “Chao
ôi” được nhà văn sử dụng để bày tỏ tình cảm với con sơng thương nhớ.
+ Ở phương diện nghệ thuật: điểm nhìn nghệ thuật khác biệt, những biện so sánh, liên
tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp, như một cố nhân,
nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm, cách sử dụng ngôn từ giàu xúc cảm…Để
tơn thêm tính trữ tình của dịng sơng, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy
chất thơ. Nhịp điệu câu văn khi thì chậm rãi, lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt
theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm
sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng
bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ.
Từ ngữ chọn lọc, độc đáo, sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả… Tất cả đã giúp Nguyễn
Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sơng Đà thơ mộng và trữ tình.
3.3. Nhận xét về cái tơi trữ tình của Nguyễn Tn
- Trong đoạn trích, người đọc cảm nhận được cái tơi un bác, tài hoa nghệ sĩ của một
người suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tn ln nhìn nhận mọi sự vật,sự việc dưới
phương diện thẩm mỹ, ln đi tìm cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, tô đậm những cái phi
thường để tạo cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng.
- Một cái tôi am tường và đầy suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước là cái tơi u
nước mà sau cách mạng đã tìm thấy sự hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.

Đoạn số 5
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần
đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên
mấy lá ngơ non đầu mùa. Mà tịnh khơng một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sơng hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ơi, thấy thèm được giật mình
vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu.
Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tơi lừ lừ trơi trên một
mũi đị. Hươu vểnh tai, nhìn tơi khơng chớp mắt mà như hỏi tơi bằng cái tiếng nói riêng của con
25

Giáo viên: Lưu Thị Tâm


×