Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tiểu luận tâm lý học lãnh đạo PHÂN TÍCH các PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH của NGƯỜI LÃNH đạo NGÀNH GIÁO dục đào tạo HIỆN NAY và đặc điểm NHÂN CÁCH NGƯỜI LÃNH đạo CHÍNH TRỊ nói CHUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.68 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC ………………………
KHOA………….

TIỂU LUẬN

TÊN MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CÁC PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH
CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO NGÀNH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
HIỆN NAY VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH NGƯỜI LÃNH
ĐẠO CHÍNH TRỊ NĨI CHUNG

NĂM 2022


2

2

MỞ ĐẦU

Một nhà quân sự đã từng nói rằng: Lãnh đạo chính là sự kết hợp mạnh
mẽ giữa chiến lược và nhân cách. Nhưng nếu phải từ bỏ một trong hai, hãy từ
bỏ chiến lược. Câu nói đó một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của nhân
cách người lãnh đạo nói chung, nếu như buộc phải lựa chọn thì nhân cách của
người lãnh đạo phải được đặt lên hàng đầu.
Giáo dục luôn luôn là một nền tảng vô cùng quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội. Trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo, bên cạnh vấn đề
về chất lượng giáo dục, những bất cập trong phát triển giáo dục cần nhìn nhận
đến phẩm chất, nhân cách của những người lãnh đạo ngành giáo dục đào tạo
hiện nay. Đây một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công


của đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG

Nhân cách người lãnh đạo là tổng hòa những phẩm chất tâm lý của một
nhà chính trị, nhà tổ chức, am hiểu chun mơn đồng thời là nhà giáo dục
biểu hiện qua năng lực, phẩm chất và phong cách trong các hoạt động lãnh
đạo. Nghĩa là người làm lãnh đạo có nhân cách khơng thể là người thụ động
tiếp nhận, chuyển tải các công văn, chỉ thị, mệnh lệnh và tổ chức các công
việc của lãnh đạo theo "chiều kích bên ngồi". Nhân cách của người lãnh đạo
nó phản ánh tư chất bên trong, sở trường, kỹ năng của người cán bộ trong quá
trình giải quyết các công việc lãnh đạo. Nhân cách người lãnh đạo được thể
hiện trong các tư chất tam lý của nhân cách lãnh đạo có thể được khái quát
như sau:
Thứ nhất, người lãnh đạo cần có tư chất của người làm chính trị nghĩa
là thể hiện là người biết sử dựng quyền lực chính trị như "phương tiện", "cơng
cụ" để quá trình lãnh đạo đạt hiệu quả. Trong xã hội ta, chủ thể lãnh đạo là


3

3

người đại diện cho quyền lự chính trị - xã hội, quyền lực của tổ chức, của
nhân dân trong quá trình thực thi quyền lực lãnh đạo.
Thứ hai, người lãnh đạo cần có tư chất của một nhà tổ chức với nghĩa
là người định hướng, hợp tác và điều hành. Đặc tính tổ chức trong lãnh đạo
địi hỏi trước hết ở người lãnh đạo là phải có tư duy chiến lược, biết nhìn xa
trơng rộng; biết thiết kế cơng việc, đồng thời biết đưa con người vào các công
việc một cách tương thích. Có thể khái qt nhân cách lãnh đạo với tư chất
tâm lý về năng lực tổ chức thể hiện trên ba phương diện: Một là, sử dụng con

người – xây dựng đội ngũ và tổ chức cán bộ tốt. Hai là, xây dựng bộ máy, cơ
cấu và hình thành phương thức hoạt động khoa học. Ba là, tổ chức các hoạt
động cụ thể có tính thiết thực và hiệu quả.
Thứ ba, người lãnh đạo cần có tư chất của nhà hoạt động chun mơn
với tính cách là một nhà hoạt động chủ đạo. Người lãnh đạo về phương diện
này thể hiện là người có trình độ và am hiểu chun mơn của đơn vị thơng
qua q trình được đào tạo, không chỉ về nghiệp vụ chuyên môn mà còn về
nghiệp vụ của nhà quản lý, điều hành.
Thứ tư, người lãnh đạo cần có tư chất của một nhà giáo dục. Lãnh đạo
phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng, trong đó chủ thể có sự ảnh
hưởng tích cực đến đối tượng và ngược lại đối tượng ln có địi hỏi cao và
trơng đợi đặt niềm tin vào chủ thể. Mối quan hệ đó trước hết biểu thị ở chỗ
người lãnh đạo có khẳng định được vai diễn của một nhà giáo dục hay không?
Đặc tính gương mẫu, có chuẩn mực, có tính thuyết phục từ phong cách ngơn
ngữ đến tầm sâu trí tuệ của người lãnh đạo trong giao tiếp phải phản ánh
được tư chất tâm lý của một nhà giáo dục, qua đó mà tơn vinh vị thế của mình
trong hoạt động của người lãnh đạo.


4

4

Các tư chất tâm lý đặc trưng nếu trên được biểu đạt qua các tiêu chí cụ
thể của phẩm chất (đạo đức), của năng lực (tài năng) và phong cách cấu thành
nhân cách người lãnh đạo trong thực tiễn.
Có thể thấy trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần những lãnh đạo có nhân
cách, đặc biệt trong ngành giáo dục đào tạo – người lãnh đạo là những người
quyết định đến sự phát triển của ngành. Những đòi hỏi rất cao của xu thế xã
hội hiện nay cũng đặt ra cho đội ngũ lãnh đạo ngành giáo dục đào tạo những

yêu cầu mới, những yêu cầu về phẩm chất nhân cách người lãnh đạo ngành
giáo dục đào tạo hiện nay cần phải có là:
1. Nhân cách người lãnh đạo ngành giáo dục đào tạo hiện nay
Ngoài những phẩm chất chung của người lãnh đạo như đã đề cập ở trên
thì do đặc thù của ngành giáo dục đào tạo (đặc biệt là trong bối cảnh đổi mới
giáo dục của thời kỳ 4.0) thì địi hỏi mà người lãnh đạo cần có nhưng phẩm
chất nhân cách sau:
Thứ nhất, người lãnh đạo giáo dục đào tạo trước hết là người có tài,
nói cách khác phải là người có trí tuệ.
Đây là phẩm chất quan trọng hàng đầu của người lãnh
đạo nói chung và người lãnh đạo ngành giáo dục đào tạo. Bởi
lẽ, trí tuệ giúp người lãnh đạo có khả năng phân tích tình
huống một cách chính xác, khả năng giải quyết các tình
huống xuất hiện một cách kịp thời, cũng như khả năng thích
nghi với sự biến đổi của hồn cảnh xã hội.
Một người lãnh đạo có trí tuệ sẽ dễ dàng xác định được
phương hướng, mục tiêu, kế hoạch hoạt động của tổ chức và
các biện pháp để thực thi mục tiêu và kế hoạch đó. Có trí tuệ
cịn giúp người lãnh đạo nhanh chóng thích nghi với những
hồn cảnh mới, tình huống mới và những thách thức mới. Trí


5

5

tuệ năng động giúp người lãnh đạo nhanh chóng tìm được
những nguyên nhân của những trở ngại, những thất bại mà tổ
chức gặp phải, những biện pháp để khắc phục chúng. Một trí
tuệ tốt giúp người lãnh đạo dự kiến được những hậu quả có

thể xảy ra trong hoạt động thực tiễn của tổ chức và những
biện pháp để ứng phó với chúng. Một trí tuệ sáng suốt, năng
động cịn làm cho người lãnh đạo tự tin hơn, quyết đoán hơn
khi ra các quyết định quản lí, cũng như thực hiện chúng.
Sáng tạo là yêu cầu không thể thiếu được của người lãnh
đạo. Sáng tạo bao giờ cũng là tiêu chí của mọi sự phát triển.
Cái mới bao giờ cũng là nhân lõi của sự phát triển đi lên. Thói
quen cổ hủ, lối mịn mn thuở là kẻ thù truyền kiếp của sự
phát triển xã hội. Óc sáng kiến là một thuộc tính quan trọng
khơng thể thiếu trong năng lực tổ chức của người lãnh đạo.
Nghề giáo dục được coi là nghề cao quý nhất trong những
nghề cao quý, sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo. Bởi
vì sự sáng tạo của nghề giáo dục là sáng tạo ra cả một thế hệ
con người mới bao gồm cả tri thức và đạo đức. Cho nên càng
đòi hỏi ở người lãnh đạo thường xun tìm tịi cái mới, đổi mới
phương thức làm việc thì sẽ tổ chức cơng việc của tổ chức
một cách có hiệu quả.
Thứ hai, người lãnh đạo giáo dục đào tạo phải là người có đạo đức.
Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: đạo đức là cái gốc của mọi công việc.
Người lãnh đạo ngành giáo dục đào tạo lại hơn ai hết phải là con người có đạo
đức bởi họ là đại hiện, là chuẩn mực của sự "mô phạm" trong giáo dục.
Những con người mà họ lãnh đạo là những người làm công tác giáo
dục như các thầy, cô giáo – họ thuộc đội ngũ tri thức, họ là tinh hoa của mỗi


6

6

thời đại. Nhà giáo dục học vĩ đại Cô-men-xki người Nga đã từng nói: “Dưới

ánh mặt trời, khơng có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học" vì thế ở đội ngũ
thầy cô giáo không thiếu những con người vừa tài hoa vừa có phẩm chất đạo
đức tốt do đó người lãnh đạo của ngành giáo dục muốn thuyết phục được cấp
dưới, thuyết phục đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục thực hiện những chủ
trương, chính sách của cấp trên thì bản thân mỗi người lãnh đạo phải được
mọi người nể phục về phẩm chất đạo đức.
Thứ ba là, người lãnh đạo giáo dục đào tạo phải là người thành
thạo về chuyên môn (cả chuyên môn khoa học và
chuyên môn nghiệp vụ quản lý)
Sự hiểu biết về chuyên mơn - Đây có thể nói là phẩm
chất mà người lãnh đạo nào cũng cần phải có. Ở đây khơng
chỉ nói tới sự am hiểu chun mơn bình thường mà sự am
hiểu sâu sắc về chun mơn. Đó là một yêu cầu đối với người
lãnh đạo của một tổ chức.
Ví dụ là lãnh đạo của một sở giáo dục thì phải là người
am hiểu ngành giáo dục và đồng thời là một nhà giáo dục,
nhà sư phạm thậm chí phải là một nhà giáo mẫu mực có uy
tín. Khơng nên đồng nhất trinh độ chuyên môn giỏi với lãnh
đạo quản lý giổi song với nhân cách lãnh đạo trình độ chuyên
môn không chỉ thể hiện ở chỗ làm tốt vông tác chun mơn
mà cịn là cơ sở để người cán bộ thực hiện lãnh đạo chun
mơn tốt. Do đó, với tính cách là hoạt động chủ đạo, tư chất
chun mơn của người lãnh đạo cần được thể hiện trên hai
phương diện: chun ngàn và trình độ quản lý chun ngành
đó.


7

7


Thứ tư là, người lãnh đạo giáo dục đào tạo phải là người biết
lắng nghe những người dưới quyền
Điều đó có nghĩa là khi người lãnh đạo truyền đạt các chỉ
thị, mệnh lệnh hay quyết định nào đó cho những người thừa
hành thì cần phải quan tâm đến thái độ, phản ứng và mức độ
thực thi các chỉ thị, mệnh lệnh đó của họ.
Trong giao tiếp, kênh thơng tin từ dưới lên trên, tức là từ
phía những người thừa hành lên đến người lãnh đạo cũng
quan trọng như kênh thông tin từ trên xuống dưới (từ phía
người lãnh đạo xuống những người thực hiện) vì qua đó người
lãnh đạo hiểu được tâm trạng, nguyện vọng, thái độ và những
phản ứng của những người dưới quyền. Mà như đã đề cập
trong mơi trường giáo dục đào tạo thì những người dưới quyền
cũng là những người có hiểu biết, tài năng và đức độ. Cho nên
biết lắng nghe cấp dưới với tinh thần cầu tiền nó khơng phải
là người lãnh đạo kém mà chính là người biết "đứng trên vai
của những người khổng lồ".
Thứ năm là, người lãnh đạo giáo dục đào tạo phải là người
kiên nhẫn và biết thuyết phục
Trong ứng xử với những người dưới quyền, kiên nhẫn là
một đức tính khơng thể thiếu được đối với người lãnh đạo. Nó
là cơ sở của thành cơng. Kiên nhẫn có ý nghĩa quan trọng và
cần thiết trong ứng xử giữa người lãnh đạo và cấp dưới, vì: Nó
giúp người lãnh đạo bình tĩnh, sáng suốt trong việc giải quyết
những tình huống nẩy sinh trong hoạt động quản lí, đặc biệt
là những tình huống có tính mâu thuẫn, xung đột trong tổ
chức vì người lãnh đạo có thời gian để tìm hiểu vấn đề một



8

8

cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn những nguyên nhân nẩy sinh
và các biện pháp giải quyết nó.
Trong ứng xử với những người dưới quyền thì khả năng
thuyết phục cũng là một phẩm chất tâm lí khơng thể thiếu
được. Có thể nói lãnh đạo là một nghệ thuật - nghệ thuật
thuyết phục, lôi cuốn và tập hợp mọi người thực hiện những
mục đích chung của tổ chức. Nói cách khác, một nhiệm vụ
quan trọng của người lãnh đạo là tập hợp và tổ chức mọi
người, phát huy tính tích cực và khả năng của họ trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ của tổ chức. Để làm được điều này,
người lãnh đạo cần có khả năng thuyết phục và lơi cuốn mọi
người.trong ngành giáo dục điều này càng quan trọng, thực tế
cho thấy trong ngành giáo dục không thiếu những con người
tài năng, đức độ nhưng cũng hết sức cá tính. Họ có thể hy
sinh bản thân vì nghề song họ cũng là những con người ít bị
khuất phục trước quyền lực, họ không sợ mệnh lệnh nhưng họ
sẽ bị thuyết phục bởi tài năng và đức độ của người lãnh đạo,
thậm chí là cả sự kiên nhẫn và cách thuyết phục của người
lãnh đạo.
Thứ sáu là, người lãnh đạo giáo dục đào tạo phải là người
đánh giá khách quan và công bằng những người dưới
quyền
Đánh giá là một công việc cần thiết của hoạt động lãnh
đạo, quản lý. Trên cơ sở đánh giá của người lãnh đạo sẽ hình
thành nên các phương thức để xác định lương, tiền thưởng, đề
bạt, cất nhắc vào các vị trí quản lí, cử đi học…



9

9

Về mặt lí thuyết, sự đánh giá cấp dưới của người lãnh
đạo là tương đối đơn giản. Vì người lãnh đạo chỉ cần đánh giá
một cách khách quan, công bằng, dựa trên thực tế hiệu quả
công việc mà cấp dưới đã hoàn thành. Nhưng trong thực tiễn,
sự đánh giá của người lãnh đạo đối với những người dưới
quyền là một cơng việc phức tạp và rất khó khăn. Bởi vì, trong
khi người lãnh đạo đánh giá về người khác thì thường bị các
yếu tố tâm lí như yếu tố tri giác (nhìn nhận về người khác),
cảm xúc, tình cảm cá nhân, định kiến cá nhân... chen lấn vào
làm cho sự đánh giá của người lãnh đạo trở nên thiếu khách
quan, méo mó và thiên vị. Những yếu tố tâm lí cá nhân này
thường xuất phát từ những quan hệ mang tính chất cá nhân
giữa người lãnh đạo và những người dưới quyền.
Có thể nói đánh giá của người lãnh đạo đối với những
người dưới quyền là một nghệ thuật – Một nghệ thuật vì nó
phải đảm bảo được sự khách quan, cơng bằng, vừa giữ được
những tình cảm tự nhiên trong quan hệ người - người. Sự đánh
giá của người lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành tâm trạng, thái độ, hành vi của những người dưới quyền
và qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc, đến bầu khơng
khí tâm lí của tập thể.
Khi người lãnh đạo đánh giá cơng minh thì những người
được đánh giá phấn khởi, tập thể đoàn kết thống nhất. Khi tập
thể đồn kết, thống nhất thì những khó khăn dễ dàng được

khắc phục, mọi người sẽ làm việc với nhiều sáng kiến hơn.
Ngược lại, khi người lãnh đạo đánh giá thiên vị, thiếu khách
quan thì những cá nhân được đánh giá sẽ có tâm trạng buồn


10

10

chán, bi quan và tập thể có thể xuất hiện các mâu thuẫn,
xung đột. Khi tập thể mâu thuẫn, xung đột thì thì việc thực
hiện các mục tiêu đề ra rất khó khăn và sự phát triển của tổ
chức gặp nhiều trở ngại
Bên cạnh đó có thể thấy nghề giáo dục trong mọi thời
đại thường là nghề ít mưu cầu về vật chất, song họ là đối
tượng hơn ai hết muốn được đánh giá một cách công bằng về
tài năng, năng lực. Cho nên là người lãnh đạo giáo dụ cần
phải đánh giá khách quan và cơng bằng và chính xác những
người dưới quyền như thế mới có thể khích lệ, sử dụng được
đội ngũ tinh hoa trong xã hội.
Ngoài ra thì người lãnh đạo giáo dục đào tạo phải là người có
lịng nhiệt tình, sự trung thực, lịng nhân ái đối với mọi người;
cần có năng lực quan sát, tính quyết đốn...
Bên cạnh đó, là người lãnh đạo ngành giáo dục đào tạo cũng địi hỏi
phải có tầm nhìn xa trông rộng trong thời đại 4.0, thời đại ngày nay phải có
ngoại ngữ, phải am hiểu CNTT biết ứng dụng kết nối và lan tỏa, phải đi nhiều
để tổng kết thực tiễn, phải là nnhững con người tiên phong đi đầu trong việc
tạo ra cái mới và đón nhận cái mới trong tương lai mà hiện tại khơng có.
2. Đặc điểm nhân cách người lãnh đạo chính trị
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ nói chung, cán bộ

lãnh đạo chính trị nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa quyết
định, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cán bộ là những người
đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu
cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được" [1, tr.54]. Trong
công cuộc đổi mới, nhận thức rõ vai trò của cán bộ, khi xác định đổi mới kinh


11

11

tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi
cán bộ là then chốt của vấn đề then chốt.
Về mặt khái niệm: Cán bộ lãnh đạo chính trị là những người giữ vị trí
quan trọng nhất,đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền, các đồn thể nhân
dân trong hệ thống chính trị, có vai trị tham gia định hướng chính trị,chịu
trách nhiệm chính khi quyết định những vấn đề quan trọng có ảnh hưởng về
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… phù hợp với pháp luật hiện
hành”. Như vậy, ở đây cần phân biệt, trong đội ngũ rất đông cán bộ lãnh đạo
trong cả nước ở mọi cấp, mọi ngành nhưng khơng đều được gọi là cán bộ lãnh
đạo chính trị. Cũng có cả một đội ngũ các bộ chính trị nhưng chỉ những ai
trong số đó giữ chức vụ mới gọi là cán bộ lãnh đạo chính trị. Để thực hiện tốt
vai trò, chức năng trên và để khẳng định tốt vị trí của mình, người lãnh đạo
cần phải có những phẩm chất và năng lực cần thiết - Đó là những nét đặc
trưng về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo chính trị.
Nhân cách nhà lãnh đạo chính trị chứa đựng những phẩm chất tốt đẹp
của giai cấp cơng nhân và dân tộc Việt Nam, có những trình độ và năng lực
cần thiết thực hiện các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Đó là:
Những phẩm chất chính trị - tư tưởng nói lên khuynh hướng hoạt động
xã hội và lập trường chính trị của người lãnh đạo, bao gồm: lòng trung thành

với lý tưởng XHCN, với đường lối, quan điểm của Đảng ta, niềm tin và
thắng lợi cuối cùng của cách mạng, có lập trường kiên định của giai cấp công
nhân.
Những phẩm chất - tâm lý - đạo đức nói lên trình độ trưởng thành về ý
thức đạo đức, hành vi đạo đức, lập trường đạo đức của người lao động. Nhờ
có trình độ cao mà người lãnh đạo có được các hành vi đạo đức đúng đắn


12

12

trong mọi tình huống. Sự trong sáng về đạo đức, sự tận tâm với cơng việc, sự
quan tâm chăm sóc mọi người lao động, tinh thần phê và tự phê nghiêm túc,
tinh thần tập thể, tính trung thực, cơng bằng, giản dị, khiêm tốn...
Những năng lực tổ chức - chuyên mơn nói lên khả năng về văn hố,
chun mơn nghiệp vụ của người lãnh đạo có thể thực hiện tốt cơng việc của
mình như năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn ...
Theo quan điểm của người Việt Nam, đạo đức là cái gốc của nhân cách.
Trong đó người lãnh đạo chính trị nếu "khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân" [2, tr.252,253]. Vậy những nét đặc trưng
trong đạo đức người lãnh đạo chính trị được thể hiện như thế nào?
Chuẩn mực đạo đức của người lãnh đạo được Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều
chủ yếu nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỉ luật của Đảng, thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân
lao động lên trên, lên trước lơi ích riêng của cá nhân mình. Một lịng phục vụ
nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh qn mình, gương mẫu trong
mọi cơng việc. Lãnh đạo là đầy tớ trung thành của nhân dân. Đạo đức trong
cơng tác cịn địi hỏi người lãnh đạo làm việc tận tâm, có sáng kiến, cơng tác

đạt hiệu quả cao, phải thực hiện "lời nói đi đơi với việc làm"... Đặc biệt với
tinh thần “6 dám” của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng người cán bộ lãnh
đạo phải: “Dám nghĩ, dám làm, dám nói, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá,
sáng tạo và dám đương đầu” trước những cơng việc của mình.
Tuy nhiên, người lãnh đạo chỉ có đạo đức vẫn chưa đủ. Chủ tịch Hồ
chí Minh dạy rằng: "Có đức khơng có tài, như ơng Bụt ngồi trong chùa,
khơng giúp ích gì được ai" [2, tr.346]. Do vậy, người lãnh đạo phải có năng


13

13

lực tổ chức và điều hành. Để làm tốt được vai trị này, người lãnh đạo cần có
một số tư chất chung như: Có khả năng vận dụng mau lẹ kiến thức, kinh
nghiệm vào cơng tác thực tế của mình. Có sự suy xét sâu sắc, suy nghĩ phân
tích tìm ra bản chất của vấn đề, thấy được mối quan hệ nguyên nhân - kết quả.
Biết tác động tới từng người một cách kiên quyết, khiến họ phải làm theo
mình. Tìm ra những sáng kiến để thực hiện cơng việc một cách tốt nhất. Độc
lập trong cách suy nghĩ, phán quyết trong cơng việc, biết tự tìm ra các giải
pháp hợp lý, nhưng cũng biết tiếp thu cái hay của người khác. Làm việc gì
cũng phải theo đuổi từ đầu đến cuối để đạt được mục đích đã đề ra. Có sự
nhạy cảm về tổ chức: trước hết, đó là sự tinh nhạy về tâm lý - là khả năng
mau chóng đi vào thế giới tâm hồn của mọi người, biểu hiện qua hành vi, hình
dáng, giao tiếp. Bên cạnh đó, người lãnh đạo cần phải nhạy cảm với tình hình
để ln đi đầu, đón trước sự phát triển của sự việc. Chẳng hạn, người lãnh đạo
ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, đồn thể trong tình hình hiện nay cần nhanh
chóng nắm bắt tình hình chính trị, xã hội để kịp thời động viên giáo dục tư
tưởng chính trị cho nhân viên luôn đề cao cảnh giác trước những âm mưu của
các thế lực thù địch. Cũng như đề ra những biện pháp chủ động, kịp thời trong

việc bảo vệ an ninh, bí mật, tài sản của nhà nước.
KẾT LUẬN
Tìm hiểu phẩm chất, nhân cách người lãnh đạo ln là vấn đề mới, hấp
dẫn cần được bổ sung, nghiên cứu và hoàn thiện cũng với sự phát triển cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Để thực hiện tốt vai trị lãnh đạo, quản lý – hình
thành và hồn thiện nhân cách lãnh đạo ln là một q trình, một nhu cầu tất
yếu đồi hỏi người lãnh đạo không ngừng phấn đấu, tu dưỡng.


14

14

Trong thời đại ngày nay, dù ở trong cương vị nào, tài năng và đức độ vẫn
là những phẩm chất cần thiết cho kết quả của công tác lãnh đạo. Vì vậy mỗi
cán bộ lãnh đạo cần ln ln tự hoàn thiện bản thân, tự học tập, trau dồi kiến
thức thông qua sách vở và thực tiễn để tự nâng cao trình độ, năng lực quản lý
của bản thân, đáp ứng nhu cầu công tác lãnh đạo và quản lý.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000.
2. Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
3. Vũ Dũng, Giáo trình tâm lý học quản lý, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội 2007.




×