Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và ý nghĩa của nó đối với nhận thức bản chất của toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ THỊ THU HIỀN

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
BẢN CHẤT CỦA TỒN CẦU HỐ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2011

TIEU LUAN MOI download :


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

Chương 1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ ......... 14
1.1. Quá trình Mác và Ăngghen xây dựng và phát triển quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử.................................................................... 15
1.1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình hình
thành chủ nghĩa duy vật lịch sử ................................................................ 15
1.1.2. Nội dung và ý nghĩa của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử trong quá trình Mác và Ăngghen phát triển quan niệm duy vật về
lịch sử ........................................................................................................ 21
1.2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình Lênin
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử ......................................... 30
1.3. Nội dung phương pháp luận của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử .................................................................................................. 36


Chương 2. Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
LỊCH SỬ ĐỐI VỚI NHẬN THỨC BẢN CHẤT TỒN CẦU HỐ ................. 51
2.1. Bản chất của tồn cầu hóa dưới ánh sáng phương pháp luận của quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử ............................................... 51
2.1.1. Bản chất của tồn cầu hố là tồn cầu hố kinh tế.................................... 53
2.1.2. Tồn cầu hố kinh tế hiện nay về cơ bản là tồn cầu hố tư bản chủ
nghĩa, hay là tồn cầu hố mà “chủ nghĩa tư bản tạm thời thắng thế” ..... 60
2.1.3. Tồn cầu hố là quá trình đầy mâu thuẫn và chứa đựng những khuynh
hướng phát triển khác nhau....................................................................... 70
2.2. Sự phát triển của Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế: cơ hội
và thách thức ............................................................................................. 79
2.2.1. Những cơ hội đối với sự phát triển Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu
hố kinh tế ................................................................................................. 79
2.2.2. Những thách thức đối với sự phát triển Việt Nam trong bối cảnh tồn
cầu hố kinh tế .......................................................................................... 82
2.2.3. Những nhận thức mang tính định hướng cho việc tranh thủ cơ hội,
vượt qua thách thức để phát triển kinh tế của Việt Nam .......................... 87
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 95

TIEU LUAN MOI download :


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như đã biết, quan niệm duy vật về lịch sử là một trong hai phát minh
quan trọng của Mác. Chính sự hình thành quan niệm duy vật về lịch sử là nội
dung cơ bản của cuộc cách mạng do Mác và Ăngghen thực hiện trong lịch sử
triết học. Có thể chỉ ra nhiều nội dung với những ý nghĩa khác nhau của chủ
nghĩa duy vật lịch sử đối với nhận thức nói chung và nhận thức xã hội nói

riêng, nhưng cái có ý nghĩa lớn và căn bản nhất chính là quan điểm cơ bản
của nó. Khơng phải ngẫu nhiên mà học thuyết triết học của Mác về xã hội lại
mang tên là “quan niệm duy vật về lịch sử” hay “chủ nghĩa duy vật lịch sử”.
Những tên gọi ấy nhấn mạnh quan điểm có tính chất nền tảng của tồn bộ hệ
thống lý luận triết học Mác về lịch sử. Với việc xác lập quan điểm cơ bản này,
triết học Mác về lịch sử không những khác về nguyên tắc so với tất cả những
quan điểm trước ông về xã hội, lịch sử, mà còn trở thành một học thuyết triết
học khoa học và cách mạng. Khơng thể phủ nhận những đóng góp đáng kể,
không nhỏ của các nhà tư tưởng trước Mác trong nhận thức về xã hội, về lịch
sử, nhất là quan điểm biện chứng coi xã hội loài người là q trình khơng
ngừng phát triển. Những thành tựu mà những nhà tư tưởng trước Mác đạt
được trong nhận thức về sự phát triển của lịch sử nhân loại là tiền đề khơng
thể thiếu được đối với sự hình thành quan điểm duy vật về lịch sử. Nhưng do
hạn chế hay do quan điểm duy tâm chi phối nên hầu hết nhận thức triết học về
xã hội trước Mác đã giải thích sai lầm về cơ bản tiến trình lịch sử. Quan niệm
duy vật về lịch sử hình thành đã kết thúc việc nhận thức lịch sử theo quan
điểm duy tâm và mở đường cho nhận thức xã hội, lịch sử một cách khoa học.
Bằng quan điểm duy vật lịch sử, nhất là quan điểm cơ bản của nó Mác
và Ăngghen khơng chỉ chứng minh rằng tồn bộ sự hình thành, phát triển của
xã hội loài người là dựa trên sự phát triển của nền sản xuất vật chất, mà đặc

1

TIEU LUAN MOI download :


biệt cịn chứng minh rằng, chính sản xuất phát triển, cụ thể là đại cơng nghiệp
và kinh tế hàng hố đã đưa đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và đến lượt nó
chính sản xuất phát triển hơn sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản sẽ bị diệt vong và
nó sẽ bị thay thế bởi chế độ xã hội khác cao hơn. Tiếp tục sự nghiệp của Mác

và Ăngghen, Lênin cũng đã xuất phát từ nền kinh tế nước Nga để chứng minh
rằng nước Nga không tránh khỏi cuộc cách mạng vô sản và sự thật ấy đã được
chứng minh bằng sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười
Nga năm 1917 và sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Ngày
nay chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở những nước như Liên Xô cũ và ở những
nước Đông Âu, còn ở những nước vẫn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
cũng vẫn đang gặp khơng ít khó khăn và trở ngại cả về thực tiễn và nhận thức.
Tuy vậy, điều đó khơng có nghĩa là quan điểm duy vật lịch sử, cụ thể là quan
điểm cơ bản của nó đã mất đi giá trị cơ bản, mà trái lại, quan điểm đó vẫn cịn
ngun giá trị. Bằng chứng là ở những nước phát triển, nền kinh tế hùng
mạnh của chúng vẫn là cơ sở của mọi tiến bộ xã hội, lịch sử trong những nước
đó, cịn ở những nước khác cũng vậy, họ chỉ có thể tiến lên, phát triển được
khi có được một nền kinh tế tự chủ, độc lập. Vì thế, nếu thiếu quan điểm duy
vật về lịch sử thì nhận thức của con người về xã hội và lịch sử vẫn tiếp tục
chìm trong đám mây mù duy tâm, sai lầm và chứa đựng bao điều lầm lạc khác
nữa, nhất là trong việc nhận thức những hiện tượng xã hội hết sức phức tạp.
Thế giới ngày nay đang diễn ra những thay đổi rất đa dạng, nhanh
chóng và hết sức mạnh mẽ khiến cho nó mang nhiều tên gọi khác nhau, như
thời đại thơng tin, kinh tế tri thức, hội nhập, hậu công nghiệp hoặc hậu hiện
đại v.v,... Tuy nhiên, bao trùm tất cả những hiện tượng ấy là một quá trình
mang một tên gọi rất đặc trưng là “tồn cầu hố”. Thế giới ngày nay là thế
giới của tồn cầu hố. Hiện giờ ngay cả ở những nước nghèo nhất, người ta
vẫn có thể thấy hàng ngày, hàng giờ đời sống của nhân loại với rất nhiều vấn
đề, tình trạng khác nhau của nó như sự giàu có và nghèo đói, sức khoẻ và

2

TIEU LUAN MOI download :



bệnh tật, sự hồ hợp, hồ bình và chiến tranh, xung đột, sự sống, hạnh phúc
và cái chết v.v.. ùa vào nhà họ qua màn hình nhỏ hoặc trên các trang báo và
những phương tiện thông tin khác. Quan tâm đến những vấn đề của tồn nhân
loại giờ đây khơng chỉ là công việc của mỗi cộng đồng, dân tộc quốc gia, mà
còn là của từng cá nhân và sự quan tâm ấy ngày càng trở nên thiết thân, gần
gũi và mang tính sống cịn. Chưa nói đến những gì xa xôi, mà ngay lúc này
đây, cả nhân loại, cả những nước giàu và những nước nghèo nhất đang chứng
kiến và chịu đựng những hậu quả, ảnh hưởng, thậm chí rất nặng nề của cơn
bão khủng hoảng tài chính thế giới. Những nước có nền kinh tế lớn đang căng
sức chống trả sự đổ vỡ, suy thoái của nền kinh tế và đang khẩn thiết kêu gọi
một sự hợp tác chung của cả cộng đồng nhân loại, hay ít ra là liên minh của
những phát triển, còn những nước nghèo thì dù khơng rơi vào khủng hoảng,
suy thối trầm trọng nhưng cũng khơng thốt khỏi ảnh hưởng ít nhiều của nó,
trong đó cả việc những nước này học được cách phịng xa cho sự phát triển
tương lai của mình từ bài học của cuộc khủng hoảng này, thì đó vẫn là ảnh
hưởng của tồn cầu hố và những nước ấy phải “cảm ơn” khủng hoảng hay
tồn cầu hố nói chung. Tồn cầu hố thực sự đã đặt các quốc gia dân tộc,
nhân loại, con người vào vịng xốy của sự phát triển mà trong đó sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa họ đã và ngày càng trở thành tất yếu hiển nhiên.
Việt Nam chưa phải là nước phát triển, nhưng có thể thấy tồn bộ
đường lối, chính sách phát triển của chúng ta từ chiến lược đến sách lược, từ
những chương trình vĩ mơ đến vi mơ, từ những quan điểm có tính tồn cục đến
những quan điểm có tính bộ phận, thậm chí cả những chủ trương, quyết sách
đúng đến những sai lầm, đều có mối liên hệ chặt chẽ hoặc tự giác hoặc tự phát
với sự phát triển của thế giới nói chung. Thực ra, chúng ta đang ở trong cái thế
giới mà chỉ có thể thực hiện được sự phát triển rút ngắn, đuổi kịp và vượt được
những mặt nhất định so với những nước phát triển, nếu chúng ta khơng tự cơ
lập mình, mà biết chủ động mở cửa ra đối với thế giới. Và để hành động, ứng

3


TIEU LUAN MOI download :


xử có hiệu quả trong tồn cầu hố, chúng ta nhất định phải hiểu đúng và hiểu
rõ, nhất là bản chất của q trình này.
Để hiểu bản chất của tồn cầu hóa từ đó có thể vận dụng vào phát triển
nền kinh tế nước ta, nhất định phải có phương pháp luận khoa học dẫn đường.
Chúng ta không thể phủ nhận những phương pháp, quan điểm khoa học khác,
nhất là những quan điểm, phương pháp mới, nhưng trong bối cảnh này rất cần
phải khẳng định, chứng minh nội dung và ý nghĩa của quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xuất phát từ những lý do thực tiễn và lý luận nói
trên, tơi chọn đề tài nghiên cứu để thực hiện luận văn thạc sỹ triết học của
mình là “Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và ý nghĩa của nó
đối với nhận thức bản chất tồn cầu hố”.
2. Tình hình nghiên cứu
1. Cho đến nay việc nghiên cứu riêng mặt phương pháp luận của quan
niệm duy vật về lịch sử, trong đó có quan điểm cơ bản của nó, vẫn chưa được
thể hiện một cách tồn diện và có hệ thống trong một cơng trình thật đáng kể
nào. Trong các tài liệu về lịch sử triết học, như “Sự hình thành và phát triển
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử” (Giai đoạn
Mác, Ăngghen và giai đoạn Lênin) của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô do
Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội xuất bản bằng tiếng Việt năm 1962 và “Lịch sử
phép biện chứng macxit” (Giai đoạn Mác Ăngghen và giai đoạn Lênin) của
Viện hàn lâm Khoa học Liên Xơ do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản
năm 1998, quan điểm duy vật biện chứng cũng như quan điểm duy vật lịch sử
chỉ chủ yếu được quan tâm về mặt lý luận, còn mặt phương pháp luận chưa
được quan tâm. Cuốn sách của nhà nghiên cứu người Nga A. Séptulin
“Phương pháp nhận thức biện chứng” do Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva và
Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội ấn hành năm 1989, mặc dù trình bày rất tồn

diện và có hệ thống nội dung phương pháp nhận thức biện chứng, nhưng chỉ
tập trung vào mặt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng hay

4

TIEU LUAN MOI download :


phép biện chứng duy vật, chứ chưa nói đến phương pháp luận duy vật lịch sử.
Trong các “Giáo trình triết học Mác-Lênin” được dùng trong các trường đại
học ở nước ta hiện nay mới chỉ chú ý đến mặt phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, còn phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch
sử hầu như chưa được quan tâm. Trong “Giáo trình Triết học (dùng cho học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học)” do nhà
xuất bản Lý luận chính trị Hà Nội xuất bản năm 2006, các chuyên đề về
phương pháp luận triết học macxit cũng chỉ chủ yếu nói đến phương pháp
luận của phép biện chứng duy vật, trong đó tập trung vào một số quan điểm,
nguyên tắc nghiên cứu cơ bản.
Qua một số cơng trình nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu về lịch sử
triết học Mác nói chung, lịch sử quan niệm duy vật lịch sử nói riêng, tác giả
Phạm Văn Chung đã cho thấy rõ sự quan tâm của mình đến nội dung phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với tác phẩm “Học thuyết Mác về
hình thái kinh tế-xã hội và lý luận về con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay”, tác giả đã vạch ra khá rõ nội dung phương pháp luận của
học thuyết hình thái kinh tế-xã hội. Mặc dù đây là cơng trình nghiên cứu tập
trung vào học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã hội, nhưng nội dung và ý
nghĩa của phương pháp luận duy vật lịch sử nói chung, quan điểm cơ bản của
nó nói riêng cũng được thể hiện khá rõ trong nội dung phương pháp luận hình
thái kinh tế-xã hội. Đặc biệt, trong cuốn “Triết học Mác về lịch sử” tác giả đã
cho thấy tồn bộ q trình hình thành, phát triển của quan niệm duy vật lịch

sử cả về mặt lý luận và phương pháp luận. Căn cứ vào những luận điểm của
Mác và Ăngghen, nhất là của Ăngghen, tác giả cho thấy rõ nội dung và ý
nghĩa của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chúng tôi coi đây
là một tài liệu quan trọng, cần thiết, giúp ích nhiều cho việc triển khai vấn đề
nghiên cứu của mình. Những nghiên cứu theo hướng này của tác giả Phạm
Văn Chung còn được tiếp tục thể hiện trong cuốn “Giáo trình lịch sử triết học.

5

TIEU LUAN MOI download :


Sự hình thành và phát triển triết học Mác” do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội ấn hành năm 2011.
Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy rằng những tài liệu trên dù chưa có hay
đã có những thành tựu không đáng kể hoặc đáng kể trong nghiên cứu mặt
phương pháp luận của quan niệm duy vật lịch sử, thì vẫn là những tài liệu tiếp
cận phương pháp luận ấy về cơ bản theo quan điểm nghiên cứu lịch sử triết
học là chính, chứ chưa phải nhằm tổng kết về mặt lý luận và phục vụ cho
những nghiên cứu cụ thể, trong đó có vấn đề tồn cầu hố. Đồng thời, trong
những nghiên cứu ấy, việc đào sâu có tính chất tập trung vào quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng chưa được quan tâm. Cho nên, vấn đề
đặt ra ở đây là cần phải tập trung nghiên cứu sâu hơn nội dung và ý nghĩa của
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và cần phải có sự tổng kết
tồn diện, có hệ thống nó về lý luận, để làm cơ sở cho nghiên cứu bản chất
của tồn cầu hố.
2. Những cơng trình nghiên cứu của các học giả trong và ngồi nước về
bản chất của tồn cầu hố có một dung lượng hết sức lớn và phong phú, trong
đó các tài liệu của các nhà nghiên cứu trong nước cũng có số lượng không
nhỏ. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều trực tiếp hoặc gián tiếp nêu lên quan

điểm, phương pháp luận trong nghiên cứu bản chất của tồn cầu hố. Trong
tay chúng tơi là những chun khảo, cơng trình, các bài báo quan trọng, rất
đáng quan tâm sẽ được xem xét, tìm hiểu dưới đây, trong đó tập hợp những
quan điểm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước.
1/ Cơng trình lớn “Tồn cầu hố - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
trình bày kết quả nghiên cứu đề tài KX. 0801, do GS.TS. Lê Hữu Nghĩa và
TS. Lê Ngọc Tòng đồng chủ biên. Đây là cơng trình rất quan trọng, bao gồm
rất nhiều bài viết của hầu hết các tác giả có tên tuổi trong nước. Những bài
viết đã được tổng hợp thành những cụm vấn đề, nội dung, đề cập một cách
toàn diện bản chất, nội dung, xu hướng của tồn cầu hố và những cách tiếp

6

TIEU LUAN MOI download :


cận khác nhau về tồn cầu hố. Đặc biệt, đây là tài liệu mang ý nghĩa thâu
tóm, tổng kết hầu như mọi quan điểm nghiên cứu tiêu biểu về toàn cầu hoá
hiện nay của các học giả nổi tiếng trên thế giới. Vì thế, cơng trình nghiên cứu
này rất có ý nghĩa đối với chúng tơi khi chưa có điều kiện tiếp cận được nhiều
tài liệu nghiên cứu nước ngoài, nhất là những tài liệu gốc. Mặc dù cơng trình
là sự tập hợp của nhiều bài viết theo những chủ đề nhất định, nhưng mỗi bài
viết lại có nội dung và ý nghĩa độc lập của nó, điều đó địi hỏi chúng tơi phải
có sự lựa chọn các bài viết sao cho phù hợp với nội dung vấn đề nghiên cứu
của mình. Đáng chú ý là trong cơng trình này đã có những bài viết bàn chính
diện về phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong nghiên
cứu bản chất tồn cầu hố. Chẳng hạn như bài “Mở đầu” của GS.TS. Lê Hữu
Nghĩa đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thấy tồn cầu hố là q trình đầy mâu
thuẫn; bài “Tồn cầu hố - Mấy vấn đề phương pháp luận và phương pháp
tiếp cận” của GS. Nguyễn Đức Bình đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cách

tiếp cận lịch sử, phương pháp luận duy vật biện chứng về sự vận động của
lịch sử, xem như là phương pháp luận xuất phát; bài của TS. Phạm Văn Chúc
“Tồn cầu hố hay là tư bản hố tồn cầu” đã khẳng định tầm quan trọng của
quan điểm tiếp cận hình thái kinh tế-xã hội, trong đó tác giả nhấn mạnh sự
cần thiết phải tiếp cận q trình tồn cầu hồ từ góc độ con người, tránh rơi
vào chủ nghĩa khách quan trong nghiên cứu, để từ đó đi đến khẳng định yếu
tố chủ thể của tồn cầu hố. Tuy vậy, chúng tơi thấy rằng trong các cơng trình
này vẫn thiếu vắng việc đề cập đến quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, mặc dù các tác giả trực tiếp hay gián tiếp khẳng định bản chất của
tồn cầu hố là tồn cầu hố kinh tế, tức là liên quan đến quan điểm cơ bản
của sự xem xét là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Như đã nói, trong cơng trình nghiên cứu trên nhiều quan điểm nghiên
cứu của các học giả nước ngoài và tổ chức quốc tế về bản chất của tồn cầu
hố cũng đã được tổng hợp, đề cập đến. Như quan điểm của G. Thompson

7

TIEU LUAN MOI download :


trong bài “Tồn cầu hố - Mấy vấn đề phương pháp luận và phương pháp tiếp
cận” của GS. Nguyễn Đức Bình; quan điểm về bản chất của tồn cầu hố
trong bài “Những ý kiến và quan điểm khác nhau về tồn cầu hố” của tác giả
Đường Vĩnh Sường đã được tổng hợp thành 5 nhóm quan điểm, đồng thời bổ
sung thêm cả quan điểm của Uỷ ban châu Âu, quan điểm của nghị sĩ Roland
Blum (Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội nước cộng hoá Pháp); quan điểm của
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), của Mc Gren, của Hội nghị
Liên hợp quốc về thương mại (UNCTAD) trong bài “Tồn cầu hố và vấn đề
“phản tồn cầu hoá” của GS.TS. Chu Văn Cấp. Mỗi tác giả, mỗi tổ chức được
nêu trên đây đã đưa ra những quan niệm, kết luận của mình về bản chất của

tồn cầu hố với những cách nhìn rất đa diện. Người hoặc tổ chức này thì
nhấn mạnh mặt này, đặc trưng này, người hay tổ chức kia thì nhấn mạnh nội
dung, mặt khác, nhưng nói chung tất cả đều khẳng định kinh tế là yếu tố nổi
bật, quy định tiến trình của tồn cầu hố cả về khơng gian và thời gian của xã
hội loài người hiện nay. Mặc dù hầu như các tổ chức và những cá nhân tác giả
ấy không hề khẳng định rằng họ đã xem xét bản chất của tồn cầu hố theo
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhưng có thể khẳng định
rằng, tất cả họ dù tự phát hay tự giác đã nhìn tồn cầu hố theo quan điểm đó.
Điều cần nói rõ ở đây là tất cả những quan điểm xem xét trên đã chưa cho
thấy nội dung lý luận của quan điểm cơ bản để từ đó có thể đi đến kết luận
đúng đắnvề bản chất của tồn cầu hố.
2/ Cuốn sách “Bình minh của một tồn cầu hố khác” cũng tập hợp
nhiều bài viết, quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước do Nguyễn Văn
Thanh chủ biên. Bên cạnh việc trình bày những ý kiến, quan điểm khác nhau
về bản chất của tồn cầu hố, tài liệu này tập trung nhấn mạnh một trong các
xu hướng của tồn cầu hố, đó là xu hướng dân chủ - xã hội đối lập với chủ
nghĩa tự do mới. Như vậy, có thể thấy đây là sự thể hiện quan điểm tiếp cận
về mặt xã hội đối với bản chất của tồn cầu hố và dĩ nhiên khơng xa rời cơ

8

TIEU LUAN MOI download :


sở kinh tế của nó. Điều đáng chú ý là sự xem xét các xu hướng dân chủ - xã
hội của tồn cầu hố đều gắn liền với phân tích những mâu thuẫn, nhất là mâu
thuẫn kinh tế của đời sống xã hội, nảy sinh trong điều kiện chủ nghĩa tự do
mới đang tạm thời chiếm ưu thế. Tuy nhiên, các tác giả của cơng trình này đã
khơng khẳng định rằng họ đã xem xét những xu hướng xã hội dựa trên quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử như thế nào, mặc dù tự phát hay tự

giác, trực tiếp hay gián tiếp họ đã thể hiện quan điểm xem xét đó, nhất là khi
khẳng định bản chất của tồn cầu hố là tồn cầu hố kinh tế.
3/ Bài viết “Đặc điểm và xu thế của toàn cầu hố ở khu vực Châu ÁThái Bình Dương - Những góc nhìn khác nhau” của GS. TS. Dương Phú Hiệp
và TS. Vũ Văn Hà nói cụ thể hơn về tồn cầu hố, tức là q trình, đặc điểm
của tồn cầu hố ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trên tất cả các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hố. Điều đó thể hiện rõ cách tiếp cận hình
thái kinh tế - xã hội. Với việc nhấn mạnh vai trò của yếu tố kinh tế trong q
trình khu vực hố, các tác giả cũng thể hiện quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử trong nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng cần phải tiếp
cận q trình khu vực hố theo quan điểm này với nội dung toàn diện hơn.
4/ Gần đây nhất, chúng tôi đã được tiếp cận nguồn tài liệu của Hội thảo
quốc tế “Tồn cầu hố: Những vấn đề triết học ở Châu Á- Thái Bình Dương”
do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức tháng 11 năm 2005 với trên 30
bài viết. Mặc dù Hội thảo tập trung hướng vào những vấn đề chuyên sâu là
những vấn đề triết học của tồn cầu hố, nhưng vẫn có thể thấy, thơng qua đó,
nhiều ý kiến, quan niệm về bản chất của tồn cầu hố và những quan điểm
tiếp cận tồn cầu hố cũng được thể hiện khá rõ. Tuy nhiên, trong các báo cáo
tham gia Hội thảo dù khẳng định bản chất của tồn cầu hố là tồn cầu hoá
kinh tế một cách gián tiếp hay trực tiếp, vẫn chưa khẳng định rõ nội dung và ý
nghĩa của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc tiếp cận
vấn đề này.

9

TIEU LUAN MOI download :


5/ Tác phẩm “Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản tồn cầu” của George
Soros đã từ chỗ phân tích khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu từ nội
dung kinh tế của nó, đi đến những khủng hoảng về xã hội của nó, để rút ra kết

luận về khả năng “tiến tới một chế độ xã hội mở”. Về điểm này, tác giả G.
Soros cũng như rất nhiều các tác giả nước ngoài và trong nước đều giống
nhau ở chỗ đã thấy bản chất của tồn cầu hố là tồn cầu hố kinh tế tư bản
chủ nghĩa, nhưng khác ở chỗ là tác giả chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản
đang trong quá trình khủng hoảng và chứa đựng những khả năng phát triển
mới. Một cách trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác, tác giả cũng
thể hiện quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
6/ Vấn đề nghiên cứu của đề tài này một phần đã được gợi ý trong bài
viết của TS. Phạm Văn Chung: “Tồn cầu hố, khu vực hố Châu Á - Thái
Bình Dương và sự khẳng định dân tộc quốc gia Việt Nam” (Hội thảo quốc tế
“Toàn cầu hoá: Những vấn đề triết học ở Châu Á- Thái Bình Dương” do Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức tháng 11 năm 2005). Trong bài viết tác
giả chủ yếu đề cập đến vấn đề tồn cầu hố, khu vực hoá và sự khẳng định
dân tộc quốc gia Việt Nam, nhưng đã thể hiện khá rõ nội dung và ý nghĩa của
quan điểm duy vật lịch sử, nhất là quan điểm cơ bản của nó trong nhận thức
về tồn cầu hố nói chung, bản chất của nó nói riêng. Tác giả đã chứng minh
rằng chính sự phát triển kinh tế mới là cơ sở thực sự của sự khẳng định dân
tộc quốc gia nói chung và dân tộc quốc gia Việt Nam nói riêng, cịn chiến
tranh nói chung chưa có ý nghĩa khẳng định dân tộc quốc gia thực sự.
Cịn có thể kể ra rất nhiều những cơng trình, bài viết khác về tồn cầu
hố của các tác giả trong và ngồi nước khác. Nhưng nhìn chung, các tác giả
đều thừa nhận bản chất của tồn cầu hố là tồn cầu hố kinh tế, cụ thể hơn,
hiện nay tồn cầu hố là tồn cầu hố kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên,
trong khi hướng vấn đề nghiên cứu tập trung vào phương pháp, cách xem xét,
chúng tôi nhận thấy rằng trong số rất nhiều những cách tiếp cận vấn đề bản

10

TIEU LUAN MOI download :



chất của tồn cầu hố một cách tự giác hoặc tự phát, có hệ thống hoặc chưa hệ
thống, thì việc vận dụng quan điểm duy vật lịch sử (triết học macxit về lịch
sử) nhất là quan điểm cơ bản của nó, trong xác định bản chất của tồn cầu
hố, là điều mà hầu như chưa có tác giả, cơng trình nào đề cập đến một cách
tồn diện và có hệ thống. Cho nên, vấn đề đặt ra đối với chúng tôi ở đây
không phải là khẳng định hay phủ nhận bản chất của tồn cầu hố, rằng nó là
thế này hay thế kia, là như thế hay không phải là như thế, mà quan trọng là
chứng minh điều đã được khẳng định đó dựa trên một quan điểm nghiên cứu
khoa học xác định, rõ ràng như thế nào. Vì thế, chúng tôi thấy rằng cần tập
trung nghiên cứu, tổng kết nội dung quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử để từ đó vận dụng nó vào nhận thức bản chất của tồn cầu hố, với hy
vọng góp phần đem lại một cái nhìn hệ thống, tồn diện và rõ ràng hơn về bản
chất của tồn cầu hố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: 1) Xác định rõ nội dung, ý nghĩa của
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử căn cứ vào lịch sử của nó; 2)
Làm rõ bản chất của tồn cầu hố theo quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, cho thấy ý nghĩa của quan điểm này đối với nhận thức sự phát
triển Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất, vạch ra nội dung và ý nghĩa của quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong q trình hình thành và phát
triển của nó, thơng qua khảo cứu những tác phẩm tiêu biểu của Mác, Ăngghen
và Lênin, đồng thời tìm hiểu một số những nghiên cứu khác, từ đó tổng kết
nội dung phương pháp luận của quan điểm này; Thứ hai, vận dụng quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử để chứng minh, xác định bản chất của
tồn cầu hố, vạch ra, chứng minh ý nghĩa của quan điểm xem xét này đối với
nhận thức quá trình phát triển Việt Nam hiện nay.

11


TIEU LUAN MOI download :


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
và ý nghĩa của nói đối với nhận thức bản chất của tồn cầu hố.
Phạm vi nghiên cứu: Việc nghiên cứu quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử sẽ được tập trung vào mặt phương pháp luận của nó và thơng
qua q trình các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác xây dựng và phát triển quan
điểm này gắn liền với việc xây dựng và phát triển quan niệm duy vật về lịch
sử nói chung. Về ý nghĩa của quan điểm lịch sử cơ bản đối với nhận thức bản
chất của tồn cầu hố, chúng tôi tập trung xem xét ý nghĩa phương pháp luận
của quan điểm đó đối với nhận thức bản chất của tồn cầu hố trong giai đoạn
hiện nay của xã hội loài người.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận: đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên những quan
điểm lý luận của chủ nghia Mác-Lênin và đường lối đổi mới, phát triển đất
nước của Đảng cộng sản Việt Nam.
Về phương pháp nghiên cứu: căn cứ vào đối tượng, phạm vi, mục đích
và các nhiệm vụ nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu chính được xác
định là: 1) Phương pháp kết hợp giữa lịch sử và logic. Phương pháp này chủ
yếu được áp dụng trong nghiên cứu quá trình các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
xây dựng và phát triển quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử; 2)
Các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, chủ yếu được áp dụng trong
xem xét bản chất của tồn cầu hố. Ngồi ra, đề tài còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khác, như trừu tượng hoá, khái quát hoá (chủ yếu trong việc
lựa chọn, phân tích các tài liệu, các quan điểm, số liệu thống kê…). Đồng
thời, trong khi sử dụng các phương pháp nghiên cứu, chúng tôi kế thừa những
phương pháp và các kết quả nghiên cứu đã có liên quan đến đề tài này.


12

TIEU LUAN MOI download :


6. Đóng góp và ý nghĩa của đề tài
Đề tài được thực hiện, sẽ giúp cho việc hiểu sâu hơn, cụ thể hơn nội
dung và ý nghĩa của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử cả về lý
luận và phương pháp luận, góp thêm một ý kiến, một cách hiểu cụ thể hơn về
bản chất của tồn cầu hố, thơng qua đó khẳng định nội dung và giá trị khoa
học bền vững của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử đối với
nhận thức xã hội, lịch sử nói chung. Kết quả của đề tài có thể được dùng làm
tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu về phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và về phương pháp luận nghiên cứu tồn cầu hố.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Chương 2: Ý nghĩa của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử đối với nhận thức bản chất tồn cầu hóa.

13

TIEU LUAN MOI download :


Chương 1
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Quan niệm duy vật lịch sử ra đời đã giúp cho nhận thức xã hội từ chỗ bị

chi phối bởi quan điểm duy tâm được đặt trên cơ sở khoa học. Ăngghen cho
rằng quan niệm duy vật về lịch sử là “một trong hai phát minh quan trọng của
Mác”, bên cạnh học thuyết về giá trị thặng dư. Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa
duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một
lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay thế cho sự lộn xộn và
sự tuỳ tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và
chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên,
thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát triển lên như
thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ
nghĩa tư bản đã nảy sinh ra như thế nào từ chế độ phong kiến” [29, tr.53].
Vậy điều gì đã làm cho quan niệm duy vật lịch sử mang nội dung và ý
nghĩa một cuộc cách mạng trong nhận thức xã hội, lịch sử? Như mọi người
đều biết, trước khi triết học Mác ra đời triết học cổ điển Đức đã đạt được
thành tựu lớn nhất là phép biện chứng. Nhưng vì dựa trên quan điểm duy tâm,
nên phép biện chứng ấy không giải thích đúng đắn, khoa học sự phát triển xã
hội lồi người. Mác và Ăngghen đã kế thừa phép biện chứng ấy và cải tạo nó
trên cơ sở chủ nghĩa duy vật khoa học do hai ơng sáng lập, vì thế quan niệm
duy vật về lịch sử đã được sáng tạo ra. Cho nên, nguyên nhân lý luận cơ bản
của cuộc cách mạng trong nhận thức xã hội chính là việc xác lập quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm cho rằng tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội, sinh hoạt kinh tế là nền tảng của mọi sinh hoạt xã hội
khác, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản sáng tạo ra lịch sử. Chính
quan điểm này làm thành bản chất của quan niệm duy vật lịch sử. Để hiểu rõ

14

TIEU LUAN MOI download :


nội dung và ý nghĩa của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử trước

hết, cần khảo cứu nó về mặt lịch sử.
1.1. Q trình Mác và Ăngghen xây dựng và phát triển quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa duy vật về lịch sử
1.1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá
trình hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử
Kết quả đầu tiên trong khi nghiên cứu đời sống xã hội mà Mác thu
được khi phê phán triết học pháp quyền của Hêghen là khẳng định: “Trên
thực tế, gia đình, xã hội cơng dân là những tiền đề của nhà nước, chính chúng
mới là những yếu tố thật sự tích cực”, “gia đình và xã hội cơng dân tự chúng
cấu thành nhà nước. Chúng chính là động lực” và “nhà nước chính trị khơng
thể tồn tại nếu khơng có cơ sở tự nhiên gia đình và cơ sở nhân tạo là xã hội
công dân” [33, tr.313-315]. Nhận thức ấy của Mác là kết quả của việc lật
ngược quan điểm của Hêghen khi ông ta cho rằng nhà nước và pháp quyền là
cơ sở của gia đình và xã hội cơng dân. Vì thuật ngữ “xã hội công dân” (là
thuật ngữ của triết học cũ) mặc dù chưa nói đầy đủ nội dung kinh tế nhưng nó
chỉ lĩnh vực sinh hoạt của tầng lớp thị dân, những lợi ích tư nhân, cho nên có
thể khẳng định đây là tư tưởng của Mác về vai trò quyết định của kinh tế đối
với kiến trúc thượng tầng xã hội, một khía cạnh nội dung của quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sau tác phẩm trên, Mác tiếp tục đề xuất tư
tưởng của ông về mối liên hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về vai trò
của quần chúng nhân dân trong tác phẩm “Lời nói đầu” của “Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen” khi bàn về bản chất con người, về
cách mạng xã hội, về nguồn gốc, bản chất của tôn giáo. Tư tưởng của Mác về
vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thể hiện rõ ở chỗ
ơng địi hỏi phải hiểu bản chất con người một cách hiện thực, thấy rõ tầm
quan trọng của bạo lực cách mạng và tìm nguồn gốc, bản chất tơn giáo trong
đời sống hiện thực.

15


TIEU LUAN MOI download :


Bước tiến quan trọng của Mác trong quá trình xây dựng quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử là khi ông viết “Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844”, quan điểm nổi bật trong toàn bộ nội dung tác phẩm này chính là
quan điểm của Mác về lao động khi ông nghiên cứu “lao động bị tha hố” của
người cơng nhân. Ở đây tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
được Mác vạch ra không chỉ ở quan niệm về nội dung, vai trị quyết định của
lao động đối với sự hình thành, phát triển của xã hội lồi người nói chung, mà
còn ở chỗ, quan niệm về lao động là cơ sở cho việc đề xuất những tư tưởng
khác như tư tưởng về con người, bản chất con người, tư tưởng về xã hội và về
sự phát triển con người, xã hội. Như vậy, ở đây lần đầu tư tưởng cơ bản của
quan niệm duy vật về lịch sử đã được trình bày trong mối liên hệ hữu cơ với
những tư tưởng khác trong hệ thống của chúng.
Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, Mác và Ăngghen đã trình bày
quan điểm của mình về lợi ích và về mối liên hệ giữa kinh tế và tư tưởng,
giữa kinh tế và kiến trúc thượng tầng xã hội. Hai ông cho rằng: “một khi “tư
tưởng” tách rời “lợi ích” thì nhất định nó sẽ tự làm nhục nó”, “tư tưởng căn
bản khơng thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có
những con người sử dụng những lực lượng thực tiễn”. Và “ngày nay, chỉ có
sự mê tín về chính trị mới cịn cho rằng nhà nước phải củng cố đời sống thị
dân, trong khi thực ra thì trái lại, chính là đời sống thị dân củng cố nhà nước”
[35, tr.122]. Việc bàn về lợi ích, tức là ích kinh tế, lợi ích vật chất đã làm nổi
bật khía cạnh nội dung của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ở
đây là về vai trò quyết định của kinh tế đối với tư tưởng, với nhà nước chính
trị. Đồng thời cũng trong tác phầm này, Mác và Ăngghen bổ sung thêm nội
dung của quan điểm về quần chúng nhân dân, đó là về vai trò ngày càng tăng
của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Việc xác định rõ hơn nội dung của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy

vật lịch sử còn được thể hiện trong “Luận cương về Phoiơbắc” của Mác. Ở

16

TIEU LUAN MOI download :


đây nội dung và ý nghĩa của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
được chỉ ra khi Mác nói về bản chất con người, về vị trí của thực tiễn trong
đời sống xã hội và khi ông vạch ra bản chất duy tâm của quan điểm Phoiơbắc
về xã hội. Trong luận cương 8 Mác viết: “Đời sống xã hội, về thực chất là có
tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa
thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và
trong sự hiểu biết thực tiễn ấy” [36, tr.12]. Luận điểm này của Mác đã chỉ rõ
thực tiễn mà trước hết là hoạt động sản xuất vật chất của con người, chính là
bản chất (thực chất) của đời sống xã hội, cái bản chất ấy quy định những sinh
hoạt khác của xã hội như những sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng, chủ nghĩa
thần bí; do đó, về mặt phương pháp luận, chỉ có thể giải thích được một cách
hợp lý, chính xác những “sự thần bí”, “chủ nghĩa thần bí” khi xuất phát từ
thực tiễn, từ việc hiểu thực tiễn.
Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm cơ bản của nó
đã được thể hiện một cách chính diện và rõ ràng trong tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức”. Trước hết, đó là việc xác lập quan điểm về mối liên hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội. Trong “Hệ tư tưởng Đức” quan niệm của Mác và
Ăngghen về tồn tại xã hội, về quá trình đời sống hiện thực của con người
trước hết được hiểu là sự sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp, tức là quá
trình sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho sự tồn tại thể xác của
con người, cịn quan niệm của hai ơng về ý thức được hiểu là về ý thức xã hội
nói chung. Đây là hai luận điểm tiêu biểu của Mác và Ăngghen về mối liên hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Hai ông viết: “Ý thức khơng bao giờ có

thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức, và tồn tại của con người là quá
trình đời sống hiện thực của con người” [37, tr.37]. Và “không phải ý thức
quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức” [37, tr.38]. Quan
điểm chung thể hiện trong các luận điểm trên chính là về sự quyết định của
tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.

17

TIEU LUAN MOI download :


Khi đi sâu phân tích cấu trúc xã hội, Mác và Ăngghen đã vạch rõ hơn
nội dung của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể là, hai
ơng đã chỉ ra vai trị quyết định của “quan hệ giao tiếp”, của phương thức sản
xuất, của “xã hội cơng dân”, rộng ra là của tồn bộ nền sản xuất vật chất xã
hội đối với các lĩnh vực sinh hoạt xã hội khác nhau, như đối với sản xuất tinh
thần, đối với cơ cấu xã hội, nhất là cơ cấu giai cấp, đối với nhà nước và kiến
trúc thượng tầng xã hội. Với việc hiểu “xã hội cơng dân” là lĩnh vực “bao
trùm tồn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn nhất
định của lực lượng sản xuất. Nó bao trùm tồn bộ đời sống thương nghiệp và
cơng nghiệp trong giai đoạn đó…” [37, tr.52], Mác và Ăngghen coi “xã hội
cơng dân là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của lịch sử” [37, tr.51].
Mác và Ăngghen tiếp tục thể hiện khía cạnh này của quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử khi trình bày lý luận về phát triển lịch sử. Hai
ông đặc biệt coi trọng mối liên hệ giữa lực lượng sản xuất và “hình thức giao
tiếp”, mà đặc trưng cơ bản của nó là sự phù hợp của “hình thức giao tiếp” với
một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Hai ơng chỉ ra rằng
chính sự phát triển của lực lượng lượng sản xuất trong phạm vi những “hình
thức giao” tiếp nhất định là nguyên nhân, động lực cơ bản nhất quyết định
toàn bộ sự vận động lịch sử. Cụ thể, Mác và Ănghen viết: “Như vậy là theo

quan điểm của chúng tôi, tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ
mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp” và “mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp đã xảy ra nhiều lần trong
lịch sử từ trước cho đến nay, song vẫn không làm hại đến cơ sở của nó, thì lần
nào cũng phải nổ ra thành một cuộc cách mạng, đồng thời lại mang những
hình thức phụ khác nhau như: tổng thể những xung đột, những xung đột giữa
các giai cấp khác nhau, những mâu thuẫn về ý thức, đấu tranh tư tưởng, đấu
tranh chính trị, v.v…” [37. tr.107-108]. Quan điểm nói trên của Mác và
Ăngghen chính là quan điểm về quy luật cơ bản của sự phát triển lịch sử.

18

TIEU LUAN MOI download :


Bên cạnh đó, Mác và Ăngghen đã trình bày mặt phương pháp luận của
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chỉ ra sai lầm, hạn chế của
chủ nghĩa duy tâm Đức, cụ thể là của hai phái “Hêghen trẻ” và “Hêghen già”,
hai ông cho rằng bản chất của chủ nghĩa duy tâm Đức chính là ở chỗ các nhà
tư tưởng đã không xuất phát từ hiện thực xã hội Đức, từ hoàn cảnh vật chất
quy định nội dung những quan điểm triết học của họ, để giải thích các học
thuyết triết học Đức đương thời. Đồng thời, từ sự phê phán ấy Mác và
Ăngghen khẳng định quan điểm xuất phát trong nghiên cứu lịch sử của các
ông: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi là không phải là những tiền đề
tuỳ tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta
chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng mà thơi. Đó là những cá nhân hiện
thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những
điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của
chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng
con đường kinh nghiệm thuần tuý” [37, tr.28-29].

Mặt phương pháp luận của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử còn được Mác và Ăngghen trình bày rõ ràng hơn như sau: “Như vậy,
quan điểm đó về lịch sử là: phải xuất phát từ chính ngay sự sản xuất vật chất
ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và hiểu hình
thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy và do phương thức sản
xuất ấy sản sinh ra - tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của
nó - là cơ sở của tồn bộ lịch sử; rồi sau đó phải miêu tả hoạt động của xã hội
công dân trong lĩnh vực sinh hoạt nhà nước, cũng như xuất phát từ xã hội
cơng dân mà giải thích tồn bộ những sản phẩm lý luận khác nhau và mọi
hình thái ý thức, tôn giáo, triết học, đạo đức,… và theo dõi quá trình phát sinh
của chúng trên cơ sở đó; nhờ vậy mà tất nhiên có thể miêu tả được tồn bộ
q trình (và do đó cũng có thể miêu tả được cả sự tác động qua lại giữa
những mặt khác nhau của q trình đó). Khác với quan niệm duy tâm về lịch

19

TIEU LUAN MOI download :


sử, quan niệm đó về lịch sử khơng đi tìm một phạm trù nào đó trong mỗi thời
đại, mà nó luôn luôn đứng trên miếng đất hiện thực của lịch sử; nó khơng căn
cứ vào tư tưởng để giải thích thực tiễn, nó giải thích sự hình thành của tư
tưởng căn cứ vào thực tiễn vật chất, và do đó, nó đi tới kết luận rằng khơng
thể đập tan được mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự phê phán tinh
thần, bằng việc quy chúng thành “Tự ý thức”, hay biến chúng thành những “u
hồn”, “bóng ma”, “tính kỳ quặc”, v.v…, mà chỉ bằng việc lật đổ một cách
thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực đã sản sinh ra tất cả những điều
nhảm nhí duy tâm đó; rằng khơng phải sự phê phán mà cách mạng mới là
động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác” [37,
tr.54].

Như vậy, khía cạnh phương pháp luận của quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa duy vật lịch sử đòi hỏi phải xuất phát từ tồn tại để giải thích ý thức xã
hội, từ sự sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp xem như cơ sở sâu xa nhất để
giải thích tồn bộ sự vận động lịch sử. Tuy nhiên, ở khía cạnh thứ hai này
quan điểm cơ bản cịn đòi hỏi phải vạch ra sự tác động của sản xuất vật chất
trực tiếp trong mối liên hệ với toàn bộ sản xuất xã hội, với hình thức giao tiếp
và xã hội cơng dân, để từ đó xem xét tác dụng của chúng đến mọi yếu tố xã
hội khác nhau và tồn bộ đời sống xã hội nói chung.
Sau tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Mác tiếp tục bổ sung cho quan điểm
lịch sử cơ bản những khía cạnh nội dung mới, rõ nhất là trong tác phẩm “Sự
khốn cùng của triết học”. Trong tác phẩm này, bên cạnh việc vạch ra rõ hơn
nội dung của quy luật lịch sử cơ bản - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khái niệm phương thức
sản xuất, Mác còn chỉ ra vai trò quyết định của chúng đối sự phát triển xã hội
lồi người nói chung. Điều đáng chú ở đây là, trong khi bàn về nội dung của
phương thức sản xuất và vai trị của nó Mác đã chỉ ra yếu tố đặc trưng cho
một phương thức sản xuất cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Về

20

TIEU LUAN MOI download :


lực lượng sản xuất, đó là yếu tố cơng cụ; về quan hệ sản xuất đó là chủ thể lợi
ích của phương thức sản xuất. Mác đòi hỏi việc giải thích xã hội và sự phát
triển của nó phải căn cứ vào quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vào phương thức sản xuất, nhất là
vào yếu tố đặc trưng của nó là cơng cụ lao động và chủ thể lợi ích gắn liền với
phương thức sản xuất ấy.
Với tác phẩm nổi tiếng “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” Mác và

Ăngghen đã thể hiện rõ ràng và tài tình việc vận dụng quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc làm sáng tỏ cơ sở khách quan của toàn bộ
lịch sử của đấu tranh giai cấp nói chung và cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản,
cách mạng vơ sản nói riêng. Hai ông chứng minh rằng chính sự phát triển của
sản xuất vật chất trong các giai đoạn khác nhau đã không những sản sinh ra
các giai cấp, mà còn quy định cuộc đấu tranh giữa chúng “lúc công khai lúc
ngầm ngầm”. Đặc biệt hai ông cũng chứng minh hết sức rõ ràng rằng, cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản một mặt là sự tiếp tục của
các cuộc đấu tranh giai cấp đã có trong lịch sử, mặt khác, do những điều kiện
phát triển mới của sản xuất, đó là sự ra đời của đại cơng nghiệp, cho nên cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản mà cách cách mạng vơ sản là đỉnh cao của nó,
sẽ hướng đến xoá bỏ mọi giai cấp. Tất nhiên, trong “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” quan điểm ấy được vận dụng gắn liền với học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội và cấu thành nội dung của học thuyết này.
1.1.2. Nội dung và ý nghĩa của quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử trong quá trình Mác và Ăngghen phát triển quan niệm duy vật
về lịch sử
Sau khi sáng lập quan niệm duy vật về lịch sử với tư cách hệ thống lý
luận, Mác và Ăngghen đã vận dụng lý luận này vào nhận thức thực tiễn đời
sống xã hội và trong việc xây dựng các khoa học lý luận khác là kinh tế chính
trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây được xem là quá trình phát triển

21

TIEU LUAN MOI download :


quan niệm duy vật lịch sử của hai ông. Trong quá trình ấy, quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử được phát triển hơn về nội dung cùng với sự
phát triển của toàn bộ hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử.

Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật về lịch sử được phát triển đặc
biệt sâu sắc, rõ ràng trong nghiên cứu kinh tế chính trị học. Trước hết phải nói
đến tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” của Mác, nhất là
“Lời tựa” của nó. Tác phẩm khơng chỉ thể hiện rõ việc Mác coi trọng quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử khi tập trung vào nghiên cứu kinh
tế chính trị học, mà cịn ở chỗ đã vạch ra những nội dung cụ thể của quan
điểm này khi vận dụng vào nghiên cứu nền kinh tế của xã hội tư bản chủ
nghĩa. Mác hiểu rằng, muốn hiểu được chế độ tư bản chủ nghĩa thì trước hết
phải hiểu được chế độ kinh tế của nó và để hiểu chế độ kinh tế ấy phải nghiên
cứu trước hết sự phát triển của lực lượng sản xuất gắn liền với quan hệ sản
xuất, không thể nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất ở bên ngoài
những quan hệ sản xuất nhất định và ngược lại, không thể nghiên cứu quan hệ
sản xuất tách khỏi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời, phải từ sự
nghiên cứu ấy mà đi đến nghiên cứu toàn bộ cơ sở hạ tầng, tức là toàn bộ nền
kinh tế của xã hội. Khi nghiên cứu cơ sở kinh tế của xã hội Mác đặc biệt coi
trọng việc nắm vững các quy luật phát triển của nó, trong đó nổi bật là quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Ơng khẳng định: “Khơng một hình thái xã hội nào diệt vong trước
khi tất cả những lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho
nó phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn,
cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của
những quan hệ đó chưa chín muồi trong lịng bản thân xã hội cũ”. Không
những thế, quan điểm cơ bản của Mác còn được thể hiện trong việc giải thích
sự tồn tại và phát triển xã hội. Ơng thấy nguyên nhân cơ bản, sâu xa của cách
mạng xã hội là do sự xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và

22

TIEU LUAN MOI download :



sự tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra trên cơ sở các phương
thức sản xuất xã hội nhất định. Đồng thời ơng địi hỏi rằng phải giải thích ý
thức xã hội, những mâu thuẫn của nó, từ tồn tại xã hội, từ mâu thuẫn của đời
sống vật chất, từ sự xung đột hiện có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất [40, tr.14-16]. “Lời tựa” này của Mác đã thể hiện sự phát triển sâu sắc,
toàn diện nội dung quan điểm về mối liên hệ giữa cơ sở hạ tầng, đời sống
kinh tế của xã hội với kiến trúc thượng tầng, với tồn bộ đời sống xã hội nói
chung.
Sau khi tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” của Mác
ra đời, Ăngghen đã viết bài “Các Mác - Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị” để bình luận về tác phẩm này của Mác. Chính Ăngghen đã chia nội
dung của quan niệm duy vật về lịch sử thành hai thành phần lý luận chính: thứ
nhất là “quan điểm cơ bản” hay “quan điểm duy vật cơ bản”; thứ hai là “quan
điểm lịch sử” hay “phương pháp biện chứng” [1, tr.608]. Sự phân chia này
của Ăngghen khẳng định rõ ràng sự tồn tại của quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Tuy nhiên, Ăngghen không dừng lại ở sự phân chia ấy
mà đã đi sâu phân tích, chứng minh nội dung và ý nghĩa cách mạng của quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ông viết: “Cái luận điểm của Mác.
Thứ nhất là “luận điểm cho rằng “phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết định q trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; rằng
chỉ khi nào hiểu được những điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi thời đại
tương ứng, khi nào tất cả những cái khác đều được rút ra từ những điều kiện
vật chất ấy, thì mới có thể hiểu được tất cả các quan hệ xã hội và quốc gia, tất
cả các hệ thống tôn giáo và pháp luật, tất cả các quan điểm lý luận đã xuất
hiện trong lịch sử, - luận điểm đó là một phát minh có tác dụng cách mạng
hố khơng chỉ dối với mơn kinh tế chính trị, mà cịn đối với tất cả các mơn
khoa học lịch sử nữa”... “Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn
tại của họ, trái lại sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Luận


23

TIEU LUAN MOI download :


×