Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý cơ sở vật CHẤT GIÁO dục các TRƯỜNG mầm NON ở QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.55 KB, 109 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CƠ SỞ VẬT CHẤT
GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường
1.3.
Chương 2.

mầm non
Nhân tố tác động đến quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở
các trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ CƠ SỞ VẬT
CHẤT GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Trang
3
13
13
25
29

34

2.1. Khái quát các trường mầm non quận Ba Đình, thành phố

Hà Nội
2.2. Thực trạng cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm
non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
2.3. Thực trạng quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường


mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Chương 3.

YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CƠ SỞ VẬT
CHẤT GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

34
40
42

61

3.1. Yêu cầu quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm

non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
3.1. Những biện pháp quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các
trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

61
64
84
91
94
97



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội, nền văn hóa của các thế hệ đi
trước. Nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn
hóa dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội
loài người không ngừng tiến lên. Lịch sử phát triển giáo dục, các quốc gia
muốn phát triển bền vững thì vấn đề quan trọng là phải tập trung đầu tư cho
phát triển giáo dục; trong đó có sự quan tâm rất lớn đến sự phát triển cơ sở vật
chất và quản lý cơ sở vật chất giáo dục phục vụ cho nhiệm vụ giáo dục nhà
trường. Vì vậy, các nhà khoa học đã đầu tư nghiên cứu trên nhiều phương diện
khác nhau và đã đưa ra những kết luận có giá trị về lý luận và thực tiễn của cơ sở
vật chất vai trò của nó và việc quản lý cơ sở vật chất trường học nâng cao hiệu
quả sử dụng.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và hội
nhập quốc tế đã đem đến cho Việt Nam những kinh nghiệm và cơ hội quý
trong đầu tư, phát triển giáo dục. Một trong các bài học lớn của các nước có
nền giáo dục tiên tiến là đầu tư có hiệu quả cơ sở vật chất giáo dục và phương tiện
kỹ thuật dạy học cho nhà trường. Bởi vì, muốn có chất lượng giáo dục tốt, thì con
người phải được đào tạo giỏi về kỹ năng nghề nghiệp, đi cùng với nó là phải tăng
cường đầu tư, phát triển cơ sở vật chất giáo dục và phương tiện kỹ thuật dạy học,
đây là một thành tố không thể thiếu của quá trình giáo dục hiện đại.
Cùng với quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo
trong điều kiện mới, việc nghiên cứu cải tiến, ứng dụng, phát triển cơ sở vật
chất giáo dục và phương tiện kỹ thuật dạy học trở thành chủ đề thu hút được
sự quan tâm của các nhà khoa học, nhà giáo nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo gắn liền lý thuyết với thực hành. Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng giáo dục, đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm đến. Tuy


3


nhiên vấn đề: "Quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non" không
thể giống nhau ở mỗi cơ sở giáo dục. Vấn đề “quản lý cơ sở vật chất giáo dục
trường mầm non” còn ít được nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc. Đặc
biệt ở các trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội thì chưa có đề tài,
công trình nào đi sâu nghiên cứu. Vì mỗi cơ sở giáo dục, mỗi cấp quản lý, mỗi
cấp học có điều kiện, đặc điểm riêng và mục tiêu giáo dục cũng khác nhau. Hơn
nữa việc nghiên cứu các biện pháp quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường
mầm non trên địa bàn Trung tâm thành phố Hà Nội có thể khác với trường tiểu
học, phổ thông hay trường dạy nghề, trường cao đẳng và đại học trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là bậc học đầu
tiên rất quan trọng bao gồm chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục nhằm hình
thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người. Theo các chuyên
gia trong ngành giáo dục thì trẻ được tiếp cận với bậc học mầm non càng sớm
thì càng thúc đẩy quá trình học tập và phát triển ở các giai đoạn tiếp theo.
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của bậc học này có nhiều nét đặc thù
nên việc phát triển giáo dục mầm non một cách vững chắc là yêu cầu bức
thiết, góp phần tạo nền tảng cho sự phát triển nguồn lực con người chất lượng
cao. Việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm chung của các
cấp chính quyền, của toàn dân và xã hội.
Bảo đảm cơ sở vật chất giáo dục mầm non là nhiệm vụ cơ bản, thường
xuyên của các trường mần non trong hệ thống giáo dục mầm non. Mục tiêu và
nhiệm vụ đặt ra phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015; đến năm 2020, có ít nhất 30% trẻ em
trong độ tuổi nhà trẻ và 80% trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc, giáo dục tại
các cơ sở giáo dục mầm non; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục
mầm non giảm xuống dưới 10%.


4


Xuất phát từ thực tiễn giáo dục mầm non ở quận Ba Đình, thành phố
Hà Nội hiện nay nhất là bảo đảm cơ sở vật chất giáo dục của các trường mầm
non trên địa bàn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội trong những năm qua được
sự quan tâm của các cấp lãnh đạo phòng giáo dục và đào tạo quận Ba Đình,
Hiệu trường, Ban giám hiệu ở các trường mầm non, sự ủng hộ của nhân dân,
phụ huynh, sự đóng góp của các tổ chức xã hội và những mạnh thường quân
ủng hộ về vật chất và tinh thần, các trường đã chủ động tu bổ, mua sắm cơ sở
vật chất giáo dục, trang thiết bị bảo đảm khang trang, các phương tiện, cơ sở
sở vật chất phục vụ cho dạy và học ngày càng hiện đại. Tuy nhiên, nhìn một
cách tổng thể thì chất lượng, hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất giáo dục ở các
trường mầm non ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội còn nhiều hạn chế chưa
bảo đảm giữ tốt, dùng bền, nhiều loại cơ sở vật chất giáo dục, phương tiện kỹ
thuật, trang thiết bị đã lỗi thời, lạc hậu cần được bổ sung mua sắm, công tác
quản lý và chỉ đạo của Hiệu trưởng các trường mầm non còn nhiều mặt hạn
chế. Là người đã có nhiều năm công tác ở lĩnh vực này, với tâm huyết góp
tiếng nói của mình vào quản lý chặt chẽ và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất
giáo dục ở các trường mầm non ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đã thôi
thúc tôi chọn vấn đề: “Quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ thời Phục Hưng, nhiều nhà giáo dục tiên phong đã đưa ra các quan
điểm về phương pháp dạy học tích cực. Theo họ để giúp học sinh nắm vững các
vấn đề học tập cần sử dụng phương tiện trực quan. J.A.Komenxki (1592-1670)
nhà giáo dục lỗi lạc người Séc đánh giá rất cao vai trò của phương tiện dạy học,
ông cho rằng “trực quan là nguyên tắc vàng ngọc”. Ông yêu cầu trong dạy học
giáo viên phải sử dụng các phương tiện trực quan để người học huy động tất cả

các giác quan vào việc tri giác tài liệu, nhờ đó mà nâng cao khả năng nhận thức.
Theo V.I.Lênin, quy luật nhận thức của con người là “từ trực quan sinh động

5


đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Lý thuyết về dạy học
trực quan đã phát triển cùng với các lĩnh vực khác, từ đó giúp chúng ta nhận
định được vai trò của phương tiện - thiết bị trực quan trong quá trình dạy học,
giúp người học lĩnh hội được cả bản chất sự vật hiện tượng dễ dàng hơn.
Các công trình nghiên cứu đó đã đưa ra một số kết quả thực tiễn ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay giúp các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục có
cách nhìn tổng thể toàn diện hơn về quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị
trường học.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ
thông tin và hội nhập quốc tế đã đem đến cho Việt Nam những kinh nghiệm
và cơ hội quý trong đầu tư, phát triển giáo dục. Một trong các bài học lớn của
các nước có nền giáo dục tiên tiến là đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ
thuật dạy học cho các nhà trường. Bởi vì, muốn có chất lượng dạy học tốt,
chất lượng con người được đào tạo giỏi về kỹ năng nghề nghiệp thì đi cùng
với nó là phải tăng cường đầu tư, phát triển cơ sở vật chất trong đó phương
tiện kỹ thuật dạy học, đây là một thành tố không thể thiếu của quá trình dạy
học hiện đại.
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, việc nghiên cứu cải tiến, ứng dụng,
phát triển phương tiện kỹ thuật dạy học trở thành chủ đề thu hút được sự quan tâm
của các nhà khoa học, nhà giáo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo gắn liền lý thuyết
với thực hành. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu, đề tài khoa học sau: “Phương
tiện kỹ thuật và đồ dùng dạy học” của Nguyên Lương (1995); “Vai trò của
phương tiện dạy học trong dạy học hiện nay” của Hứa Xuân Trường (1997);
“Hiện trạng và những giải pháp đầu tư phát triển khai thác phương tiện kỹ

thuật dạy học trong nhà trường quân đội” của Nguyễn Lương Sơn (1997);
“Công tác thiết bị trường học trong giai đoạn hiện nay” của Lê Hoàng Hảo
(1998) báo cáo tại Hội nghị toàn quốc về thiết bị giáo dục. Nhiều nhà giáo, nhà
nghiên cứu khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề chế tạo, quản lý, sử dụng và

6


bảo quản phương tiện dạy học trong nhà trường như: Tác giả Tô Xuân Giáp, Võ
Chấp, Vũ Trọng Rỹ…Những công trình nghiên cứu của các tác giả đã xây dựng
được một hệ thống lý luận về vị trí, vai trò, tác dụng và một số yêu cầu về
nguyên tắc chế tạo, sử dụng cũng như quản lý phương tiện dạy học trong nhà
trường hiện nay.
Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, đã
được nhiều nước trên thế giới quan tâm đến, trong thời gian qua có nhiều tác
giả trong nước đã nghiên cứu tiêu biểu như:
Đề tài “Một số biện pháp quản lý cơ sở vật chất và thiết bị trường học
của hiệu trưởng trường THPT Sóc Sơn Hà Nội” của tác giả Đỗ Hoàng Điệp.
Thông qua việc tìm hiểu thực trạng việc quản lý CSVC & TBTH của hiệu
trưởng trường THPT Sóc Sơn Hà Nội trong giai đoạn 1996 - 2004, đề tài đã
đề xuất một số biện pháp xây dựng và quản lý CSVC & TBTH của hiệu
trưởng trường THPT Sóc Sơn Hà Nội.
Đề tài: “Các biện pháp quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị trường
học ở trường THPT Hải Phòng” của tác giả Vũ Văn Trà.
Đề tài “Các biện pháp quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị trường
học ở một số trường THCS Thanh Hóa” của tác giả Lê Xuân Đào,
Đề tài: “Thực trạng và một số biện pháp quản lý thiết bị dạy học ở các
trường THCS huyện Phong Điền, Thành phố Cần Thơ” Tác giả Đặng Phúc
Tịnh, (2010).
Đề tài: “Các biện pháp quản lý thiết bị dạy học tại Trường Cao Đẳng

Kinh Tế - Kỹ Thuật Công Nghiệp I trong giai đoạn hiện nay” Tác giả Trần
Đức Hiển (2007).
Luận văn thạc sĩ của Mai Quốc Hưng (2013) “Quản lý phương tiện kỹ
thuật dạy học ở Trường Cao Đẳng Nghề Việt Nam – Singapore tỉnh Bình Dương”.
Học viện Chính trị.

7


Luận văn thạc sĩ của nguyễn Ngọc Hoàn ( 2015) “ Quản lý thiết bị dạy học
ở Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh”. Học viện Chính trị.
Các đề tài khoa học, luận văn và công trình nghiên cứu ở trên đã đi sâu
nghiên cứu đánh giá thực trạng về quản lý phương tiện kỹ thuật dạy học, thiết
bị dạy học. Trên cơ sở đó đã đưa ra các giải pháp, biện pháp nhằm quản lý
hiệu quả và chất lượng phương tiện kỹ thuật và thiết bị dạy học phục vụ cho
nhiệm vụ giáo dục đào tạo của nhà trường. Các công trình, đề tài trên đã nghiên
cứu về quản lý, phát triển cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật dạy học ở các khía
cạnh khác nhau; luận giải những cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất phương
hướng biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở vật chất
giáo dục và phương tiện kỹ thuật dạy học trong các nhà trường cụ thể.
Tuy nhiên vấn đề: "Quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm
non nói chung và ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội" có nhiều điểm khác với
cơ sở giáo dục. Quản lý cơ sở vật chất giáo dục là phạm trù rộng gồm nhiều mặt
và nội dung quản lý còn ít được nghiên cứu
Những kết quả nghiên cứu trên là cơ sở giúp cho việc kế thừa, hoàn
thiện căn cứ lý luận của vấn đề quản lý cơ sở vật chất giáo dục nhằm mục
đích nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường mầm non trên địa bàn quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý cơ sở vật chất
giáo dục ở các trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, đề xuất các
biện pháp quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non, quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội, đáp ứng đổi mới giáo dục mầm non trên địa bàn
Quận hiện nay.

8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm
non trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các
trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Đề xuất các biện pháp quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường
mầm non trong quận Ba Đình, thành phố Hà Nội hiện nay.
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý cơ sở vật chất các trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non quận Ba Đình, thành
phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: đề tài nghiên cứu vấn đề quản lý cơ sở vật chất giáo dục
các trường mầm non dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục. Các vấn đề
nghiên cứu được luận giải dựa trên lập luận quản lý nhà trường và quản lý cơ
sở vật chất giáo dục của nhà trường.
Về đối tượng khảo sát, các số liệu khảo sát minh hoạ trong đề tài được
nghiên cứu từ các trường mầm non trong quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Trong đó tập trung vào các trường cơ bản sau: Mầm non A, mầm non Thành
Công, mẫu giáo số 2, mầm non Hoa Mai, mầm non Sao Mai ( là trường điểm
của quận Ba Đình và thuộc hệ thống trường công lập).
Về thời gian đề tài nghiên cứu các trường mầm non công lập trong
quận Ba Đình, các số liệu điều tra nghiên cứu từ năm 2013 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non quận
Ba đình, thành phố Hà Nội phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể quản lý nhà

9


trường. Nếu đề xuất được hệ thống biện pháp quản lý như: Tổ chức giáo dục
nâng cao nhận thức cho các chủ thể quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường
mầm non; Chỉ đạo xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc sử dụng cơ sở
vật chất giáo dục ở các trường mầm non; Tổ chức khai thác, sử dụng có hiệu
quả các nguồn tài chính trong xây dựng cơ sở vật giáo dục ở các trường mầm
non; Phát huy tính tích cực của các lực lượng trong và ngoài nhà trường trong
xây dựng, khai thác, sử dụng cơ sở vật chất giáo dục các trường mầm non;
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất
giáo dục ở các trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội thì sẽ nâng
cao được chất lượng giáo dục ở các trường mầm non quận Ba Đình, thành
phố Hà Nội hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài luận văn được giải quyết trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Đồng thời,
dựa trên phương pháp luận nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục, các
quan điểm hệ thống cấu trúc, quan điểm hoạt động; tiếp cận lịch sử, tiếp cận

quá trình, tiếp cận thực tiễn trong nghiên cứu khoa học.
* Phương pháp nghiên cứu
Phân tích và tổng hợp tài liệu có liên quan, nghiên cứu và hệ thống hoá
lý thuyết, xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
Nghiên cứu các Nghị quyết của Đảng, các văn bản của Nhà nước, các
văn bản chỉ đạo điều hành của Bộ GD-ĐT và các tài liệu khoa học có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu hỏi để tìm hiểu ý kiến của CBQL phòng
GD&ĐT quận Ba Đình, Hiệu trường và GV các trường mầm non ( 85 người)
trên địa bàn nhằm thu thập những thông tin cần thiết về thực trạng cơ sở vật chất và quản lý

10


cơ sở vật chất ở các trường mầm non quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Từ đó, phân tích tổng
hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.

Phương pháp phỏng vấn : Trực tiếp tiếp xúc với một số hiệu trưởng trường
mầm non và giáo viên mầm non để tìm hiểu về những vấn đề có liên quan đến quản lý cơ
sở vật chất ở các

trường mầm non trên địa bàn quận Ba Đình.

Phương pháp quan sát: Quan sát một số hoạt động cụ thể thuộc lĩnh vực giáo dục,
dạy học ở các trường mầm non của đội ngũ giáo viên mầm non.

Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Nghiên cứu sản phẩm cơ sở vật chất các
trường mầm non và việc sử dụng cơ sở vật chất vào giáo dục và dạy học hàng năm (kế hoạch,
các văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ).


Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến, trao đổi với các chuyên gia hoặc các nhà
nghiên cứu về quản lý cơ sở vật chất giáo dục để khảo nghiệm tính cần thiết và khả
thi của biện pháp đề xuất trong đề tài ( 64 khách thể).

Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm quản lý
cơ sở vật chất của Hiệu trưởng các trường mầm non trên địa bàn quận Ba
Đình. Bằng việc đưa ra kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn và lấy thực
tiễn để kiểm nghiệm lại kết quả nghiên cứu lý luận, phương pháp này được sử
dụng nhằm đánh giá tính hợp lý và khả thi của các biện pháp quản lý mà
chúng tôi đề xuất.
Phương pháp chuyên gia: Bằng việc đưa ra phiếu hỏi các cán bộ quản
lý (Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, cán bộ quản lý giáo dục) trực tiếp tham gia
quản lý cơ sở vật chất giáo dục có kiến thức và kinh nghiệm quản lý phương
tiện kỹ thuật dạy học của nhà trường.
Sử dụng toán thống kê xử lý số liệu: Dùng để xử lý số liệu thu thập được
qua phiếu hỏi, đem lại kết quả chính xác, khách quan, có độ tin cậy cao.
7. Ý nghĩa của đề tài

11


Đề tài hoàn thành sẽ cung cấp cơ sở khoa học để nâng cao hiệu quả quá
trình quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non.
Đề tài nghiên cứu thành công có ý nghĩa lý luận và thực tiễn tốt giúp
cho các nhà quản lý tiến hành có hiệu quả hoạt quản lý cơ sở vật chất giáo dục
ở các trường mầm non trong đổi mới giáo dục hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu gồm phần mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận, kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC Ở
CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Trường mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDMN
đặt nền móng ban đầu cho việc giáo dục lâu dài nhằm hình thành, phát triển
nhân cách cho trẻ em. Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục đã
ghi rõ: “Việc chăm sóc giáo dục các em từ tuổi sơ sinh cho đến 6 tuổi có tác
dụng cực kỳ quan trọng trong sự hình thành con người mới xã hội chủ
nghĩa”.“Ra sức nâng cao chất lượng nuôi dạy các cháu, làm cho các cháu phát
triển một cách thuận lợi về thể lực, tình cảm và trí thông minh, chuẩn bị tốt
cho các cháu vào học trường tiểu học....”
Tại Điều 21, 22, Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm vụ và mục
tiêu của GDMN: “GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”
- Nuôi dưỡng trẻ
- Chăm sóc trẻ
- Giáo dục trẻ
Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển và về thể chất, tình cảm,
trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị
cho trẻ vào lớp 1.
Trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận
trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
- Nhà trẻ, nhận trẻ em từ ba tháng tuổi đến ba tuổi.
- Lớp mẫu giáo, nhận trẻ em từ ba tuổi đến sáu tuổi.

Trong nhà trường mầm non có các nguồn lực cơ bản như sau:

13


- Nguồn nhân lực là yếu tố con người, là chủ thể giữ vai trò quyết định
trong quá trình giáo dục. Cơ sở vật chất và các yếu tố khác phát huy tác dụng
đến đâu phụ thuộc vào yếu tố con người.
- Nguồn tài lực là yếu tố tài chính đầu tư cho nhà trường. Một nhà
trường có nguồn tài chính đủ mạnh là cơ sở quan trọng để đưa ra những quyết
định đầu tư mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện các
kế hoạch chiến lược phát triển giáo dục.
- Nguồn tin lực là yếu tố thông tin đảm bảo cho các hoạt động quản lý
và hoạt động giáo dục của nhà trường cập nhật trình độ phát triển hiện đại của
khoa học giáo dục và khoa học quản lý giáo dục. Nguồn tin lực là cơ sở để
nhà trường có thông tin chính xác trong quyết định mua sắm trang thiết bị, đồ
dùng dạy học và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất có hiệu quả.
- Nguồn vật lực là yếu tố cơ sở vật chất giáo dục nhà trường ( phương
tiện kỹ thuật, mô hình, trang thiết bi...) đảm bảo cho mọi hoạt động của nhà
trường có thể thực hiện được. Cơ sở vật chất giáo dục của nhà trường sẽ tạo
thành môi trường cảnh quan cho phát triển giáo dục, đồng thời là phương tiện
hỗ trợ cho sự đổi mới phát triển giáo dục của nhà trường. Cở sở vật chất giáo dục
trường mầm non là một nguồn lực quan trọng của nhà trường có mối quan hệ với
các nguồn lực khác. Cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non luôn vận động
phát triển đồng bộ cùng với sự vận động phát triển của các nguồn lực khác.
* Vị trí, vai trò của giáo dục mầm non
Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDMN
đặt nền móng ban đầu cho việc giáo dục lâu dài nhằm hình thành, phát triển
nhân cách cho trẻ em. Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục đã
ghi rõ: “Việc chăm sóc giáo dục các em từ tuổi sơ sinh cho đến 6 tuổi có tác

dụng cực kỳ quan trọng trong sự hình thành con người mới xã hội chủ
nghĩa”.“Ra sức nâng cao chất lượng nuôi dạy các cháu, làm cho các cháu
phát triển một cách thuận lợi về thể lực, tình cảm và trí thông minh, chuẩn bị

14


tốt cho các cháu vào học trường phổ thông...” (Trích Nghị quyết 14 của Bộ
chính trị về Cải cách giáo dục, tr.14). Niềm tin và hy vọng của từng gia đình
và cả xã hội về tương lai của trẻ và của đất nước đề trông chờ ở sự phát triển
của lứa tuổi mầm non này. Đề án của Chính phủ về phổ cập GDMN cho trẻ 5
tuổi đã chỉ rõ quan điểm: Việc chăm lo để mọi trẻ em năm tuổi được đến
trường, lớp mầm non là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của mỗi gia đình
và toàn xã hội. Đẩy mạnh xã hội hóa với trách nhiệm lớn hơn của Nhà nước,
của xã hội và gia đình để phát triển GDMN.
Có thể thấy, tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm non là
nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác nâng cao chất lượng chăm sóc - giáo
dục, tạo tiền đề cho trẻ 5 tuổi bước vào lớp một, vào giai đoạn giáo dục phổ
thông nhằm góp phần đưa sự nghiệp giáo dục phát triển bền vững.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, ngoài việc thực hiện
mục tiêu phổ cập GDMN cho trẻ 5 tuổi, các độ tuổi còn lại cũng luôn được đề
cập, vì bất kỳ sự phát triển nào cũng phải tuân theo quy luật từ thấp đến cao,
từ nhỏ đến lớn. Vì vậy giai đoạn mầm non chính là giai đoạn quan trọng nhất
và không một giai đoạn nào của đời người có thể sánh nổi.
* Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục mầm non
Tại Điều 21, 22, Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm vụ và mục
tiêu của GDMN: “GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”, “Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển và
về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của
nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1”.

Quan điểm của Đảng về GDMN cũng đã nêu: “Nhiệm vụ cơ bản của
GDMN là hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người
mới, làm cho trẻ phát triển toàn diện, hài hòa và cân đối, tạo điều kiện tốt cho
bước phát triển sau này, xây dựng cho mỗi trẻ em một nền tảng nhân cách vừa
khỏe khoắn, vừa mềm mại, đầy sức sống cả về thể chất lẫn tinh thần. Có nghĩa

15


là GDMN một mặt cần làm cho trẻ hồn nhiên, vui tươi, tích cực, chủ động,
nhạy cảm để trở thành người dễ tiếp thu giáo dục; mặt khác, GDMN lại phải
ngay từ đầu hướng sự phát triển của trẻ vào việc hình thành những tiền đề
nhân cách con người mới, chuẩn bị cho trẻ khả năng học tập tốt, sống và làm
việc phù hợp với xã hội mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
thế kỷ XXI” (60 năm giáo dục mầm non Việt Nam, Nxb giáo dục, tr.272).
1.1.2. Cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non
Cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non là những phương tiện
vật chất, kỹ thuật và những sản phẩm khoa học, công nghệ được huy động và
sử dụng trong giáo dục trẻ ở các trường mầm non nhằm đạt mục tiêu giáo
dục ở các nhà trường mầm non hiện nay.
Ở góc độ giáo dục học: cơ sở vật chất giáo dục là một thành tố của quá
trình dạy học, có quan hệ với các thành tố khác, cùng hướng tới thực hiện
mục tiêu giáo dục. Là điều kiện để các lực lượng giáo dục trong nhà trường
thực hiện chức năng và nhiệm vụ.
Ở góc độ quản lý: cơ sở vật chất giáo dục đóng vai là phương tiện thực
hiện mục đích quản lý. Là một trong những trụ cột cơ bản để chủ thể quản lý
thực hiện các chức năng của quản lý. Là phương tiện để kết nối các hoạt động
trong nhà trường với nhau và kết nối các hoạt động của trường với các cơ
quan hữu quan.
* Phân loại cơ sở vật chất giáo dục ở trường mầm non:

Cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non có nhiều cách phân loại
khác nhau. Phân loại theo các yếu tố cấu thành là cách phân loại hợp lý trong
nghiên cứu đề tài này. Theo đó, cơ sở vật chất giáo dục ở trường mầm non
bao gồm phần cứng, phần mềm và phần con người. Phần cứng là tất cả các
phương tiện vật chất của nhà trường, bao gồm nhà cửa, sân chơi, đồ dùng,
máy móc, gọi chung là các phương tiện ngoại thất và các phương tiện nội thất.
Phần này được thiết kế mang tính giáo dục, phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý
và quy luật phát triển các phẩm chất cá nhân của học sinh mầm non.

16


Phần mềm là phần thông tin về cơ sở vật chất và thông tin được sử
dụng trong quá trình giáo dục. Thông tin về cơ sở vật chất là hồ sơ về tính
năng tắc dụng của từng loại đồ dùng, vật chất cụ thể và những chỉ dẫn sử
dụng trong giáo dục. Thông tin giáo dục là những thông tin được thiết kế, xây
dựng chuyên dùng cho giáo dục trẻ. Những thông tin này khi sử dụng kết hợp
với phần cứng là các máy móc, thiết bị thì sẽ trở thành nội dung giáo dục trẻ.
Phần con người là chủ thể quản lý, tổ chức sử dụng phần cứng và phần
mềm. Chủ thể sử dụng cơ sở vật chất ở nhà trường mầm non là giáo viên, học
sinh mầm non. Các chủ thể này sử dụng đến đâu, hiệu quả cao hay thấp phụ
thuộc chủ yếu vào năng lực của mỗi giáo viên trong nhà trường. Chủ thể quản
lý cơ sở vật chất của nhà trường mầm non là Ban Giám hiệu nhà trường. Ban
Giám hiệu quản lý cơ sở vật chất của nhà trường bằng cơ chế, chính sách của
Nhà nước và bằng quy chế của nhà trường.
* Chức năng của cơ sở vật chất giáo dục:
Chức năng giáo dục: Cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non là
một bộ phận cấu thành của cơ sở giáo dục, là một thành tố của quá trình giáo dục,
tự thân mang theo chức năng giáo dục. Cơ sở vật chất giáo dục đạt chuẩn, hiện đại
có tác dụng giáo dục gián tiếp người học về thẩm mỹ, tình cảm…

Chức năng thông tin: Thu thập thông tin giáo dục nói chung và thông
tin dạy học nói riêng; Xử lý thông tin trong giáo dục - dạy học; Chuyển tải
thông tin trong giáo dục - dạy học; Lưu trữ thông tin giáo dục - dạy học
Chức năng phục vụ: Cơ sở vật chất giáo dục phục vụ việc thực hiện hoạt
động giáo dục; phục vụ các lực lượng giáo dục - dạy học thực hiện chức năng,
nhiệm vụ.
Cơ sở vật chất trường học nói chung và cơ sở vật chất giáo dục ở các
trường mầm non nói riêng là hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ thuật
cần thiết được giáo viên sử dụng vào các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.

17


Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, phát triền khoa học kỹ thuật,
yêu cầu của xã hội về việc đào tạo con người ngày càng cao, yêu cầu con
người phát triền toàn diện, hài hòa, đáp ứng yêu cầu phát triển của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cơ sở vật chất giáo dục trong các trường mầm
non ngày càng phong phú, đa dạng.
CSVC giáo dục ở các trường mầm non có vai trò rất quan trọng, là yếu tố
tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc giáo dục, góp phần quyết định vào
chất lượng của nhà trường, bởi trẻ mầm non chơi là hoạt động chủ đạo, trẻ
chơi để học.
CSVC giáo dục ở các trường mầm non gồm toàn bộ các phòng học,
phòng hiệu bộ, phòng chức năng và các phòng phụ trợ khác, bếp ăn, sân chơi
và các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
Việc đầu tư CSVC giáo dục ở các trường mầm non chính là tạo ra một
môi trường sư phạm có đầy đủ đồ dùng, đồ chơi cần thiết phục vụ cho hoạt
động chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường. Hơn thế nữa việc đầu tư CSVC giáo
dục ở các trường mầm non còn tạo ra một môi trường hoạt động hấp dẫn

mang tính giáo dục cao nhằm đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo
dục mầm non mới.
Điều quan trọng hơn là đầu tư CSVC ở các trường mầm non đầy đủ cũng
chính là tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên phát huy hết
năng lực của mình trong việc giảng dạy và chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
* Vai trò của cơ sở vật chất giáo dục
Cở sở vật chất như đã khái quát ở trên gồm nhiều nội dung, tác giả chỉ
đi vào nghiên cứu làm rõ vai trò của phương tiện, thiết bị giáo dục ở nhà
trường mầm non.
Nằm trong sự thống nhất của hệ thống các nhân tố của quá trình giáo
dục, phương tiện, cơ sở vật chất giáo dục mầm non có vai trò to lớn đối với
quá trình nhận thức của trẻ, nâng cao tính hiệu quả quá trình giáo dục.

18


Phương tiện, thiết bị giáo dục được thể hiện: Đối với quá trình nhận
thức thông tin học tập: nhờ có phương tiện giáo dục mang tính trực quan giúp
trẻ em tri giác trực tiếp đẩy mạnh các giai đoạn của các quá trình nhận thức sự
vật hiện tượng. Các giác quan được huy động ở mức độ tối đa để tiếp thu kiến
thức, hứng thú học tập tăng lên, sự tập trung chú ý được tăng cường, trẻ em dễ
hiểu, dễ nhớ, nắm vững các đối tượng nhận thức trong cả trạng thái “tĩnh” và
“động”, cả quá trình hình thành, phát triển của sự vật, hiện tượng; buổi học
thêm sinh động hấp dẫn, gây ấn tượng sâu sắc, kích thích nhận thức và tích
cực hóa hoạt động trí tuệ của các em và làm cho họ dễ dàng tiến hành các quá
trình phân tích, tổng hợp các hiện tượng để rút ra các kết luận đúng đắn. Với
các cơ quan cảm giác thông thường không thể quan sát được các hiện tượng
thực tiễn, nên họ phải dùng những công cụ “làm dài thêm” các cơ quan cảm
giác đó, cho phép mình đi sâu vào thế giới vật chất nằm sau giới hạn tri giác
của các giác quan thông thường. Do đó, nhờ các phương tiện, thiết bị giáo dục

hiện đại mà người học có khả năng phát hiện ra một số tính chất của vật chất lớn
hơn nhiều khi không sử dụng nó. Vì thế có thể nói: trong qúa trình giáo dục,
việc nhận thức, nghiên cứu khám phá kiến thức, luôn luôn gắn liền với các
phương tiện, thiết bị giáo dục.
Đối với việc rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp: Nhà trường không
những đào tạo những con người nắm vững lý thuyết khoa học, mà còn phải
giỏi thực hành “gắn lý thuyết với thực hành” nếu không những hiểu biết của
họ chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức lý thuyết, chưa thể tác động vào thực tiễn
để tái tạo và cải tạo nó. Nhận thức lý luận và vận dụng nó vào thực tiễn là hai
mặt của quá trình nhận thức, giữa chúng có khoảng cách nhất định, khoảng
cách đó nếu không thông qua những hoạt động thực hành thì người học không
thể vượt qua được...Bởi lẽ, “cơ sở bên trong của hoạt động trí tuệ phải được
xây dựng trên những hoạt động thực tiễn bên ngoài. Qua hoạt động thực
tiễn, cấu trúc của đối tượng nhận thức và phương pháp hoạt động đối với

19


chúng dần dần chuyển vào vỏ não biến thành nhận thức cấu trúc của đối
tượng và phương pháp hoạt động trí tuệ đối với chúng, lôgíc hoạt động thực
tiễn chuyển vào vỏ não biến thành tư duy”...Do đó, qua quá trình thực hành,
thí nghiệm năng lực nhận thức của người học phải được chú trọng phát triển
trong quá trình giáo dục.
Qua thực hành các phương tiện CSVS giáo dục sẽ làm cho hứng thú
nhận thức của trẻ mầm non được kích thích; khi tiếp xúc với thực tiễn (vật
thật - tình huống có thật...), tư duy của trẻ luôn được đặt trước các tình huống
mới, buộc trẻ phải suy nghĩ tìm tòi, phát triển trí sáng tạo. Mặt khác, qua thực
hành, đức tính kiên trì cẩn thận, chính xác, ý thức, tính kỷ luật của trẻ được rèn
luyện, được nảy nở, góp phần chuẩn bị tốt tâm lý cho trẻ, giúp các trẻ tự tin khi
bước vào các bậc học tiếp theo.

Đối với lao động sư phạm của giáo viên mầm non: Sử dụng các CSVS
giáo dục sẽ góp phần làm tăng năng suất lao động sư phạm. Người dạy sẽ có
điều kiện trình bày nội dung sâu sắc, sinh động hấp dẫn hơn, giảm nhẹ các
thao tác sư phạm, rút ngắn được thời gian, hiệu quả buổi học tăng lên. Đó
cũng là một trong những đặc điểm của giáo dục hiện đại.
Mặt khác, khi CSVC giáo dục mầm non được đưa vào nhà trường, sẽ
làm thay đổi phong cách tư duy của người dạy. Phương pháp làm việc của
người dạy sẽ thay đổi khi nhà trường được trang bị CSVC giáo dục hiện đại,
do đó phong cách tư duy và hành động của họ cũng được hiện đại hóa, đáp
ứng với những đòi hỏi mà sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ
đặt ra.
Đối với tính hiệu quả của quá trình giáo dục: Học tập là một quá
trình hoạt động của tư duy. Muốn đạt tới mục đích dạy và học người dạy
và người học đều phải thao tác các trí tuệ, từ nhận biết, so sánh, phân tích,
tống hợp, cụ thể hóa, trừu tượng hóa sự vật, hiện tượng và quá trình. Như
vậy, việc sử dụng thường xuyên phương tiện, thiết bị giáo dục sẽ làm tăng

20


hiệu quả quá trình giáo dục, phù hợp với xu thế đào tạo hiện nay là tích cực đưa
công nghệ, phương tiện, thiết bị giáo dục hiện đại vào nhà trường.
Hiện nay, khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão, đã trở thành
động lực thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo
thông qua việc ứng dụng, sử dụng CSVC giáo dục hiện đại sẽ hỗ trợ cho bài
giảng nhằm giúp cho trẻ dễ nhớ, dễ hiểu, nhớ lâu; khơi dậy tính tích cực, sáng
tạo của trẻ; khắc phục được sự tụt hậu trong quá trình dạy học. Để thực hiện
được điều đó đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có kiến thức nhất định về tin
học, sử dụng thành thạo các phần mềm Powerpoint, word, các phần mềm mô
phỏng như: Autocad, 3Dxmax, solid...và làm chủ được các phương tiện, thiết bị

giáo dục hiện đại; có kỹ năng chuyển hoá những nội dung khoa học cần thuyết
trình, trao đổi… thành các sản phẩm được kỹ thuật hoá bởi phần mềm Power
point và các phương tiện hiện đại khác một cách tốt nhất. Muốn vậy, không còn
cách nào khác, phải tích cực, chủ động trong quá trình tự học tập, tự nghiên cứu
thông qua hệ thống sách tự học tin học, thông qua đồng nghiệp, bạn bè xung
quanh hoặc thông qua các buổi tập huấn do phòng, GD&ĐT, Nhà trường tổ
chức… để nâng cao về trình độ công nghệ thông tin, nâng cao được các kỹ năng
sử dụng các phương tiện, thiết bị giáo dục hiện đại. Có nắm và sử dụng thành
thạo các phương tiện, thiết bị giáo dục mới giúp người dạy có thể thiết kế được
bài giảng Power point vừa đảm bảo được nội dung, kỹ thuật, tính thẩm mỹ, vừa
đảm bảo tính khoa học, tính sinh động hấp dẫn.
Thực tế cho thấy, có nhiều giáo viên mầm non nắm chắc nội dung
nhưng khi thực hành giảng bằng trình chiếu vẫn có sự va vấp nhất định, việc
kết hợp giữa thuyết trình, phân tích và sử dụng các slide chưa được ăn khớp
do chưa thành thạo các kỹ năng trình chiếu, máy móc. Ngược lại có những
giáo viên có kỹ thuật, kỹ năng sử dụng vi tính, máy móc tốt nhưng do tập
luyện nội dung chưa thành thạo cũng không phát huy hết hiệu quả của các
phương tiện kỹ thuật giáo dục hiện đại.

21


Sử dụng cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non phải kết hợp
với nhiều phương pháp dạy học phát huy tính tích cực cảu trẻ đây là xu hướng
tất yếu của dạy học hiện đại. Nhưng dù các phương tiện dạy học có hiện đại
đến đâu đi chăng nữa vẫn chỉ là công cụ, phương tiện để hỗ trợ cho quá trình
giảng dạy chứ không thể thay thế hoàn toàn vai trò của giáo viên, không thể
thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học, giáo dục khác. Để phân tích,
làm rõ một khái niệm, một nội dung nào đó, ngoài việc trình chiếu ra còn phải
có sự kết hợp với giọng nói, cử chỉ, điệu bộ của giáo viên để tác động vào

cảm xúc, tình cảm, ý chí của trẻ; còn phải kết hợp với các phương pháp khác:
thuyết trình, đàm thoại, gợi mở, nêu vấn đề, tạo tình huống, hợp tác, kích
thích tính tích cực tư duy của trẻ, vì sự tiến bộ của trẻ...
1.1.3. Quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non
Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát
huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài
lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục
đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất. Biện pháp là cách làm, cách giải quyết
một công việc cụ thể của một cá nhân hay một tập thể để đạt được hiệu quả hoạt
động. Trong một tổ chức để đạt được mục tiêu quản lý, các chủ thể quản lý sử
dụng các biện pháp để tác động vào khách thể quản lý để đạt được mục tiêu đã
xác định, đó là chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức mà mình quản lý.
Tuỳ theo các cách tiếp cận mà ta có các quan điểm khác nhau về “Quản
lý”. Thông thường khi đưa ra các khái niệm quản lý các tác giả thường gắn
với một loại hình quản lý cụ thể:
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, 1998, thuật ngữ
quản lý được định nghĩa là: “tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ
quan”. Thuật ngữ này thường được sử dụng để chỉ quản lí ở phạm vi các đơn
vị kinh tế cơ sở như công ti, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.

22


Theo quan điểm của triết học Mac-Lênin: “Quản lý là sự tác động có ý
thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người phù hợp với quy luật khách quan nhằm đạt tới mục đích
của người quản lý ”
Henry Fayol (1841 – 1925) nhà tư tưởng Pháp đã nói về khái niệm
quản lý như sau: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và
kiểm tra”. Ông còn chứng minh rằng khoa học quản lý – “quản lý hành chính”

không những cần thiết cho các tổ chức công nghiệp và hãng kinh doanh mà có
thể áp dụng với mọi loại hình tổ chức, kể cả cơ quan Chính phủ vì quản lý ở
một tổ chức đều có chung những chức năng trên.
Các tác giả Nguyễn Quốc trí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [33, Tr.1].
Qua các định nghĩa và quan niệm về “Quản lý” như đã trình bày ở trên,
ta thấy rằng quản lý là một trong những hoạt động vừa khó khăn vừa phức tạp
lại có ý nghĩa trong sự phát triển hay trì trệ của mọi tổ chức, trong hoạt động
quản lý luôn tồn tại hai thành tố đó là chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay một nhóm người có chức năng
quản lý, điều khiển tổ chức để tổ chức vận hành và đạt được mục tiêu. Khách
thể quản lý là những người chịu sự tác động, chỉ đạo của chủ thể quản lý
nhằm đạt mục tiêu chung. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều
có sự tham gia của hoạt động quản lí. Mặc dù quản lý là đa dạng nhưng có thể
khái quát theo một số loại quản lý cơ bản như sau: Quản lý giới vô sinh, quản lí
giới sinh vật, quản lý xã hội [27, tr.7]. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường,
quản lý cơ sở vật chất giáo dục là những dạng cụ thể của quản lý xã hội. Từ
quan niệm trên chúng tôi cho rằng:
Quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non là những tác động
có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhà trường mầm non đến các yếu tố

23


cấu thành cơ sở vật chất giáo dục của nhà trường, nhằm tổ chức, điều khiển và
khai thác sử dụng các yếu tố đó như một nguồn lực quan trọng trong quá trình
giáo dục trẻ ở các trường mầm non.
Quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non được quy định

bởi đặc điểm của bậc học mầm non. Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân, là một bậc học có tầm quan trọng đặc biệt
trong chiến lược phát triển nguồn lực con người. Đội ngũ cán bộ giáo viên có
vai trò quyết định trong việc chăm sóc giáo dục trẻ ở các trường mầm non. Cơ
sở vật chất là điều kiện, phương tiện thực hiện việc giáo dục của giáo viên và
hoạt động học tập của người học ở nhà trường.
Thực tiễn giáo dục ở các nước cũng như ở Việt Nam đã khẳng định
rằng: chất lượng giáo dục là chất lượng của nhiều nhân tố trong đó cơ sở vật
chất, phương tiện kỹ thuật giáo dục là nhân tố không thể thiếu trong nhà
trường, góp phần quan trong thực hiện các mục tiêu giáo dục và đổi mới giáo
dục thành hiện thực.
Mục tiêu, nhiệm vụ quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm
non là xây dựng kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra quản lý quá trình khai
thác và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất giáo dục của nhà trường để đạt
mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục bậc học mầm non.
Chủ thể quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non là Ban
Giám hiệu Nhà trường, giáo viên, nhân viên… Chủ thể quản lý, thực hiện các
chủ trương, biện pháp nhằm quản lý có hiệu quả cơ sở vật chất giáo dục trường
học. Giáo viên, nhân viên quản lý cơ sở vật chất giáo dục là chủ thể trong việc
quản lý, khai thác sử dụng cơ sở vật chất giáo dục trường học. Đặc điểm trường
mầm non là không có các phòng, ban chuyên trách về cơ sở vật chất mà do
Hiệu trưởng nhà trường phụ trách chung. Hiệu trưởng phân công cho phó hiệu
trưởng hoặc cho giáo viên quản lý cơ sở vật chất giáo dục về từng lĩnh vực.
Để đạt được các mục tiêu giáo dục mầm non đề ra, các chủ thể tiến hành
đồng bộ các cách thức, biện pháp quản lý cơ sở vật chất giáo dục và sử dụng có

24


hiệu quả trong quá trình giáo dục nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng đổi mới

giáo dục mầm non. Biện pháp quản lý cơ sở vật chất giáo dục các trường mầm
non được thể hiện ở các nghị quyết lãnh đạo của chi bộ, Bam giám hiệu nhà
trường; thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch quản lý và sử
dụng cơ sở vật chất giáo dục. Hiệu trưởng, hiệu phó, giáo viên là chủ thể trực
tiếp thực hiện các biện pháp quản lý và sử dụng cơ sở vật chất giáo dục vào quá
trình giáo dục, đào tạo trẻ mầm non.
Đối tượng quản lý là quá trình xây dựng, khai thác sử dụng cơ sở vật
chất giáo dục ở các trường mầm non. Chủ thể khai thác, sử dụng cơ sở vật
chất giáo dục ở các trường mầm non là đội ngũ giáo viên của nhà trường.
Giáo viên của nhà trường phải nắm được thông tin về cơ sở vật chất giáo dục
của nhà trường, tính năng, tác dụng của từng loại đồ dùng dạy học. Giáo viên
của nhà trường phải có trình độ, năng lực làm chủ các phương thức khai thác
sử dụng cơ sở vật chất giáo dục của nhà trường nhằm mục tiêu giáo dục toàn
diện cho trẻ.
Giáo viên trường mầm non phụ trách từng lớp, đồng thời phụ trách cơ
sở vật chất giáo dục của lớp, có trách nhiệm khai thác sử dụng cơ sở vật chất
của lớp, đồng thời khai thác sử dụng cơ sở vật chất chung của nhà trường
trong quá trình thực hiện các nội dung, nhiệm vụ giáo dục.
1.2. Nội dung quản lý cơ sở vật chất giáo dục ở các trường trường
mầm non
1.2.1. Quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm non
Đó là quá trình quy hoạch, thiết lập kế hoạch đầu tư mua sắm về cơ sở
vật chất trường học mầm non và điều kiện đảm bảo thực hiện các mục tiêu đó.
Nội dung quy hoạch, lập kế hoạch đầu tư mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất
giáo dục ở các trường mầm non bao gồm:
Đầu tư theo nhu cầu, tức là xác định các nhu cầu đầu tư về cơ sở vật
chất giáo dục của nhà trường nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu đã đặt ra.

25



Khảo sát hiện trạng cơ sở vật chất giáo dục bào gồm những thông số cơ bản
về số lượng, chất lượng, tình hình sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất giáo dục.
Đánh giá mức độ trang bị cơ sở vật chất giáo dục trường mầm non so
với yêu cầu dạy và học của nhà trường đồng thời xác định hiệu quả khai thác
cơ sở vật chất giáo dục hiện có của trường mầm non.
Xây dựng các quy định, quy trình quản lý và sử dụng cơ sở vật chất
giáo dục ở các trường mầm non nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu đã đặt
ra là nâng cao chất lượng giáo dục và giảm chi phí.
Xây dựng kế hoạch tăng cường trang bị và nâng cao hiệu quả sử dụng,
bảo quản, mua sắm, sửa chữa, tự làm, sưu tầm cơ sở vật chất giáo dục ở các
trường mầm non. Vấn đề quan trọng nhất trong xây dựng kế hoạch mua sắm,
phát triển cơ sở vật chất giáo dục nhà trường là khai thác, phân bổ, sử dụng
các nguồn tài chính hợp lý, có hiệu quả. Nội dung quy hoạch, phát triển cơ sơ
vật chất giáo dục của nhà trường phải căn cứ vào nguồn tài chính hiện có và
các nguồn có thể khai thác được.
1.2.2. Quản lý sử dụng cơ sở vật chất giáo dục ở các trường mầm
non
Nội dung này nhằm thực hiện chức năng tổ chức của quản lý giáo dục
nhà trường. Về thực chất là quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực của nhà trường trong xây dựng và sử dụng cơ sở vật chất vào quá
trình giáo dục. Đây là nội dung quan trọng nhất của quản lý cơ sở vật chất
giáo dục. Bởi vì dù cho máy móc, thiết bị, nhà của có hiện đại đến mấy nhưng
con người không biết quản lý, sử dụng thì cũng không có tác dụng gì.
Vấn đề quan trọng nhất trong quản lý nhân lực là tổ chức lực lượng, bồi
dưỡng lực lượng về kiến thức, năng lực khai thác sử dụng cơ sở vật chất giáo
dục của nhà trường. Đó là quá trình sắp xếp, phân bổ công việc, trách nhiệm
quyền hạn và các nguồn lực cho các tổ chức, các thành viên của nhà trường,
hướng dẫn để họ có thể đạt được mục tiêu là quản lý sử dụng cơ sở vật chất


26


×