Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

MỘT SỐ KINH NGHIỆM NHẰM GÓP PHẦN XÂY DỰNG LỚP HỌC HẠNH PHÚC TẠI TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.98 MB, 74 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Lĩnh vực: Cơng đồn
ĐỀ TÀI:

“ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NHẰM GÓP PHẦN XÂY DỰNG
LỚP HỌC HẠNH PHÚC TẠI TRƯỜNG THPT”

NĂM 2021

0


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT THÁI HỊA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Lĩnh vực: Cơng đồn
ĐỀ TÀI:

“ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NHẰM GÓP PHẦN XÂY DỰNG
LỚP HỌC HẠNH PHÚC TẠI TRƯỜNG THPT”

Tác giả:
Nguyễn Thị Hòa - Trường THPT Thái Hòa
Nguyễn Thị Dung- Trường THPT Tây Hiếu

NĂM 2021

1




MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................... 2
2. Điểm mới của đề tài ..................................................................................................................... 2
3. Kế hoạch nghiên cứu .................................................................................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................................... 3
5. Biện pháp nghiên cứu ................................................................................................................... 3
PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI .................................................................................................................. 3
1.1. Khái niệm về hạnh phúc .............................................................................................................. 4
1.2. Lớp học hạnh phúc ...................................................................................................................... 5
1.3. Kỹ năng mềm ............................................................................................................................... 6
2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................................................. 7
2.1 Thực trạng chung......................................................................................................................... 7
2.2 Thực trạng riêng .......................................................................................................................... 7
2.3 Nguyên nhân.................................................................................................................................. 7
3. Nội dung ....................................................................................................................................... 8
3.1. Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp.................................................................................................. 8
3.2. Đối với giáo viên bộ môn ........................................................................................................... 22
3.3. Đối với lãnh đạo quản lý nhà trường ....................................................................................... 32
3.4. Đối với cha mẹ học sinh ............................................................................................................. 38
(a) Kỹ năng hợp tác với giáo viên và nhà trường. ....................................................................... 38
(b) Kỹ năng tâm lý lứa tuổi và tư vấn nghề nghiệp. .................................................................... 39
(c) Sự quan tâm đúng mực của gia đình với học sinh ................................................................. 40
3.5. Đối với địa phương và môi trường xung quanh ...................................................................... 41
4. Hiệu quả thực hiện đề tài ........................................................................................................... 41
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................................. 44
1. Kết luận ...................................................................................................................................... 44
2. Khả năng phát triển và mở rộng đề tài .................................................................................... 44

3. Kiến nghị ..................................................................................................................................... 45
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................... 46
V. PHỤ LỤC .............................................................................................................................................. 47

1


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
“Hạnh phúc” là mục tiêu mà mỗi người đều muốn đạt được trong suốt quá
trình làm việc và trải nghiệm cuộc sống. Nơi nào có hạnh phúc thì nơi đó có sự tơn
trọng, có cả u thương và cảm giác được an tồn ở nơi đó.
Mơ hình “Trường học hạnh phúc” bắt đầu triển khai thí điểm ở nước ta vào
tháng 4/2018. Trường học Hạnh phúc là môi trường phát triển tồn diện, kích thích
sự hứng thú học tập, tạo dựng niềm tin từ đó cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh
phát triển tối đa về thể chất và năng lực của bản thân mình. Đồng thời trường học
hạnh phúc sẽ là nơi tạo dựng niềm tin, sự hài lòng của các bậc phụ huynh và toàn xã
hội. Trường học hạnh phúc cũng là môi trường tốt nhất để xây dựng được đội ngũ
giáo viên nhân viên nhiệt tình, nhiệt huyết, yêu nghề, chăm nghề cũng như việc tối
ưu hóa đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường.
Khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu xã hội ngày càng cao, thì việc xây
dựng trường học hạnh phúc ngày càng trở nên quan trọng và là vấn đề cần thiết của
mỗi địa phương. Để xây dựng được lớp học hạnh phúc thì việc xây dựng được lớp
học hạnh phúc được xem là vấn đề then chốt và cốt lõi. Mỗi lớp học hạnh phúc là
một tế bào, một mắt xích, không thể thiếu trong công cuộc xây dựng trường học
thân thiện. Ở đó mỗi học sinh, giáo viên đều cảm thấy thoải mái vui vẻ, hứng thú
làm việc và học tập, từ đó tạo đà cho giáo viên và học sinh phát huy hết phẩm chất
năng lực của bản thân. Lớp học hạnh phúc phải xây dựng dựa trên cơ sở “ tơn
trọng”, “u thương” và ”an tồn”. Mỗi giáo viên, học sinh cùng nhau chia sẻ những
yêu thương, tôn trọng lẫn nhau để từ đó có được mơi trường dạy và học thân thiện,

tích cực phát huy tối đa các năng lực tiềm tàng trong mỗi cá nhân. Bên cạnh đó như
chúng ta thấy đâu đó vẫn cịn tồn tại một số vấn đề nhức nhối trong trường học như:
Bạo lực học đường, cư xử thiếu tôn trọng giáo viên của học sinh, cách quản lý lớp
học của giáo viên hời hợt, thiếu khoa học, thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn đến lớp
học rời rạc về kết cấu, chậm tiến bộ về mặt nhận thức và kiến thức. Với hai mươi
năm thực hiện nghề giáo bản thân chúng tôi được trải qua các thế hệ học trò, được
đảm nhận công tác giảng dạy và công tác chủ nhiệm lớp với đủ các thành phần đối
tượng khác nhau của học sinh, chúng tơi xin được trình bày một số kinh nghiệm của
cá nhân xây dựng nên lớp học mà ở đó giáo viên và học sinh vui vẻ, hịa đồng, thân
thiện nhưng không hề giảm sút sự tôn trọng của học sinh với giáo viên, và đặc biệt
người giáo viên ln được học sinh, gia đình và xã hội tin tưởng, là chỗ dựa về mặt
tâm lý cho các trò và các phụ huynh.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi xin chọn đề tài nghiên cứu SSKN cho
năm học 2021-2022 với tên đề tài "Một số kinh nghiệm nhằm góp phần xây dựng
lớp học hạnh phúc tại trường THPT".
2. Điểm mới của đề tài
- Là đề tài nghiên cứu đáp ứng được nhu cầu cần thiết của học sinh, giáo viên,
nhà trường và xã hội.
2


- Đề tài đưa ra một số kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn nên tính khả thi
của đề tài rất cao.
- Đề tài đưa ra được tính hệ thống các kỹ năng cần thiết để xây dụng nên lớp
học hạnh phúc.
3. Kế hoạch nghiên cứu
TT Các nội dung, cơng việc thực hiện

Thời gian dự kiến


1

Phần 1: Tìm hiểu thực trạng

Tháng 9/2019 - 6/ 2020

2

Phần 2: Nghiên cứu lý thuyết và giải pháp

Tháng 6 - 9 / 2021

3

Phần 3: Thiết kế giải pháp, đề xuất biện Tháng 10 / 2021 - tháng
pháp và thực nghiệm
2/2022

4

Phần 4: Hoàn thiện đề tài

Tháng 1 - 3 / 2022

4. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài được áp dụng trong hoạt động giáo dục học sinh trong các giờ dạy,
sinh hoạt lớp và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong và ngoài nhà trường cho
giáo viên và học sinh THPT.
5. Biện pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài chúng tôi đã thực hiện các biện pháp sau:

- Biện pháp quan sát, so sánh, đánh giá các lớp học được vận dụng đề tài với
các lớp không vận dụng đề tài.
- Biện pháp nghiên cứu lý luận qua các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề
tài.

PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
3


Lấy cảm hứng từ mơ hình “Happy School” của UNESCO, mơ hình “Trường học
hạnh phúc” bắt đầu triển khai thí điểm ở nước ta vào tháng 4/2018 và được nhanh
chóng được nhân rộng trong nhiều cơ sở giáo dục đào tạo các cấp khi Bộ giáo dục
và đào tạo phát động phong trào “Triển khai kế hoạch nâng cao năng lực ứng xử sư
phạm, đạo đức nhà giáo vì một môi trường hạnh phúc” vào tháng 4/2019 nhằm lan
tỏa những giá trị: u thương, an tồn, và tơn trọng trong các nhà trường.
1.1. Khái niệm về hạnh phúc
Khi chúng ta nói về hạnh phúc, chúng ta có thể nói về cảm nhận của bản thân
trong thời điểm hiện tại, hoặc sự đề cập chung hơn về cách chúng ta cảm nhận về
cuộc sống nói chung. Vì hạnh phúc thường là một thuật ngữ được định nghĩa rộng
rãi, các nhà tâm lý học và các nhà xã hội học khác họ thường sử dụng thuật ngữ
“hạnh phúc chủ quan” (subjective well-being) khi nói về cảm xúc này.Hai thành
phần chính của hạnh phúc chủ quan là: Cân bằng cảm xúc và sự hài lòng trong cuộc
sống.Vậy hạnh phúc là trạng thái cảm xúc dược biểu thị bởi cảm giác vui vẻ, hài
lòng và sự đủ đầy. Hạnh phúc mang lại nhiều ý nghĩa khác nhau, nó thường được
mơ tả với sự liên quan về cảm xúc tích cực và sự thỏa mãn trong cuộc sống nói
chung.
Cách thức để chúng ta nhận biết chúng ta đang hạnh phúc:
- Thứ nhất: Cảm giác chúng ta được sống một cuộc sống mà chúng ta mong
muốn.

- Thứ hai: Chúng ta cảm nhận được rằng hoàn cảnh sống của mình tốt đẹp.
- Thứ ba: Cảm giác mà chúng ta đã hoàn thành( hoặc sắp hoàn thành) những gì
mà chúng ta mong muốn trong cuộc sống.
- Thứ tư: Có nhiều cảm xúc tích cực hơn cảm xúc tiêu cực.
Những người cảm thấy hạnh phúc vẫn cảm nhận được toàn bộ các cung bậc
cảm xúc của con người, thỉnh thoảng sẽ tức giận, thất vọng, chán nản, cô đơn và
thậm chí là buồn bã. Nhưng kể cả khi đối mặt với sự khó chịu, họ vẫn có một niềm
lạc quan tiềm ẩn rằng mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp hơn, họ có thể đối diện với những
gì đang diễn ra, và họ sẽ cảm thấy vui vẻ hạnh phúc trở lại .Khi chúng ta được sống
trong hạnh phúc thì tác nhân hạnh phúc sẽ tác động tích cực lên tồn bộ cuộc sống
của bản thân mình:
- Những cảm xúc tích cực làm tăng sự hài lịng với cuộc sống.
- Hạnh phúc giúp mọi người tạo dựng kĩ năng đối phó tốt hơn và những nguồn
cảm xúc mạnh mẽ hơn.
- Cảm xúc tích cực có liên quan đến sức khỏe và tuổi thọ tốt hơn. Một nghiên
cứu cho thấy những người trải qua nhiều cảm xúc tích cực hơn tiêu cực có khả năng
sống lâu hơn trong khoảng thời gian 13 năm.
- Cảm xúc tích cực làm tăng khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi giúp mọi
người quản lý căng thẳng và hồi phục tốt hơn khi đối mặt với những thất bại. Ví dụ,
một nghiên cứu cho thấy những người hạnh phúc hơn thường có mức hormone căng
thẳng cortisol thấp hơn và những lợi ích này có xu hướng tồn tại theo thời gian.

4


- Những người có trạng thái hạnh phúc tích cực có nhiều khả năng tham gia
vào các hành vi lành mạnh như ăn trái cây, rau củ quả và tham gia vào các hoạt
động thể dục thường xuyên.
- Cảm giác vui vẻ có thể giúp bạn giảm khả năng bệnh tật. Trạng thái tinh thần
vui vẻ hơn có liên quan đến việc tăng khả năng miễn dịch.

1.2. Lớp học hạnh phúc
Lớp học hạnh phúc được xây dựng trên cơ sở: “tơn trọng”, “u thương” và “an
tồn”.

Tơn trọng (respect) có nghĩa là thể hiện thái độ hay sự đánh giá đúng mực của
người này với người khác. Đó cũng là sự coi trọng danh dự, nhân phẩm,lọi ích,
quyết định hay những nét riêng biệt của người kia. Đây là trạng thái thể hiện lối
sống văn hóa của mỗi người trong tập thể,xã hội. Đồng thời đây cũng là sợi dây kết
nối, tạo mối quan hệ gắn kết, chân thành và tốt đẹp giữa người với người. Với thông
điệp cho đi điều gì sẽ nhận lại điều ấy, tơn trọng cũng vậy.
u thương là một khái niệm chỉ một phẩm chất tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn của
con người. Đó là tình cảm yêu thương chia sẻ và đùm bọc một cách thắm thiết. Giá
trị của yêu thương không pahir là những gì q lớn lao, cũng khơng hẳn là phải cho
5


nhau vật chất. Mà yêu thương có khi chỉ đơn giản là cái gật đầu tán thưởng, là cái vỗ
tay động viên, là ánh mắt thân thiện, là lời cảm ơn chân thành,…
An toàn được hiểu là trạng thái mà con người, thiết bị, môi trường thiên nhiên được
bảo vệ, phịng chống lại những tác nhân nguy hại có thể phát sinh (hoặc tiềm ẩn) do
những nguyên nhân chủ quan, khách quan trong cuộc sống.
Lớp học hạnh phúc là môi trường để dạy và học mà cả người thầy lẫn học sinh cảm
thấy được tôn trọng, được yêu thương và cảm thấy được an toàn.Trong lớp học hạnh
phúc ấy, thầy giáo đóng vai trị là người hướng dẫn, người định hướng, người truyền
lửa của giờ học còn học trò thỏa sức bộc lộ năng lực, suy nghĩ, được chia sẻ, được
lĩnh hội các kiến thức để giải quyết các vấn đề xảy ra trong giờ học, trong cuộc
sống.

Hình ảnh kết quả điều tra mong muốn của các em HS về nhà trường, thầy cơ
giáo, gia đình , bạn bè, và bản thân trong công cuộc xây dựng môi trường học tập

“u thương, tơn trọng, an tồn”
1.3. Kỹ năng mềm
Để có được sự thành cơng thì chỉ có kiến thức, trình độ chun mơn thơi là
chưa đủ, bạn cần phải có cả kỹ năng mềm. Ngày nay kỹ năng mềm ngày càng chứng
tỏ được tầm quan trọng của mình đối với sự thành bại trong sự nghiệp cũng như xã
hội của một cá nhân.
Kỹ năng mềm (Soft Skills) hay còn gọi là Kỹ năng thực hành xã hội, là thuật
ngữ dùng để chỉ những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống của chúng ta. Kỹ năng
mềm còn được hiểu là sự kết hợp tính cách, hành vi và thái độ cho phép mọi người
giao tiếp hiệu quả, hợp tác và kiểm sốt thành cơng các xung đột. Những người có
kỹ năng mềm tốt thường có kỹ năng nhận thức tốt các tình huống và trí tuệ cảm xúc
mạnh mẽ giúp chúng ta thích nghi tốt trong mơi trường làm việc khó khăn mà vẫn
tạo ra được những kết quả tốt nhất. Ngày nay kỹ năng mềm có tầm ảnh hưởng rất
lớn đến sự thành bại trong sự nghiệp của mỗi người.

6


2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Thực trạng chung
Có thể thấy, phần lớn thế hệ trẻ ngày nay có vốn kiến thức rộng, nhanh nhạy
nắm bắt thơng tin, có tinh thần học hỏi, khả năng áp dụng những kiến thức đã học
vào thực tiễn cao, kính thầy, mến bạn, sống nền nếp, có ý chí vươn lên và khơng
ngừng cố gắng trong học tập. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một bộ phận học sinh ứng xử
một cách thiếu văn hóa, kém hiểu biết, gây ảnh hưởng đến tinh thần và môi trường
văn hóa giáo dục tốt đẹp trong trường học. Nhiều nhà tư vấn tâm lý giáo dục cho
rằng, hiện nay, văn hóa ứng xử học đường đang trong tình trạng đáng báo động. Có
nhiều hành vi và lối ứng xử thiếu văn hóa của cả HS và giáo viên.
2.2 Thực trạng riêng
Bên cạnh những tồn tại chung của xã hội, thì mơi trường trường học tại địa phương

cũng đang có những biểu hiện xuống cấp về tư cách đạo đức của học sinh, đồng thời
sự thờ ơ của một số giáo viên trong công việc cũng đã dẫn tới lớp học rệu rã về kết
cấu, chất lượng kém, học sinh khơng thiết tha đến lớp, cịn nếu có học thì cũng chỉ
để tốt nghiệp rồi tìm việc phổ thơng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, chúng ta
đang sống chung với đại dịch Covid-19 thì việc đến trường cần đảm bảo an tồn,
cần quan tâm chia sẻ những khó khăn với HS, đồng nghiệp.
Kết quả của việc khảo sát cảm nhận của GV khi tới các lớp học.

TT

Mức độ

Năm 2019-2020
(%)

1

Chưa bao giờ hạnh phúc

4,1

2

Hiếm khi hạnh phúc

20,5

3

Thỉnh Thoảng hạnh phúc


54,8

4

Thường xuyên hạnh phúc

20,6

2.3 Nguyên nhân
+) Sự nhiệt tình của đội ngũ GVCN giảm sút.
+) Năng lực, nghiệp vụ sư phạm kém.
+) GV khơng có tâm trong nghề nghiệp.
+) GV ngại đổi mới, không tiếp cận với công nghệ thông tin, sự phát triển của
xã hội.
+) Sự phát triển của mạng xã hội làm cho sự việc phức tạp hơn
+) Sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, của chính quyền địa phương chưa kịp
thời đối với người lao động.
+) Sự quan tâm của phụ huynh đối với con trẻ, có gia đình thì q cưng chiều
con cái, có gia đình thì thờ ơ,bỏ mặc.
7


3. Nội dung

3.1 Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp
Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của một lớp học, khơng những địi hỏi về
chun mơn mà cịn có những yêu cầu về ứng xử, cách tổ chức và phân phối công
việc. Trong các trường phổ thông giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trị đặc biệt quan
trọng, là người quản lý, tổ chức, chỉ đạo và điều phối các hoạt động của một lớp

học. Công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp bao gồm rất nhiều hoạt động, cần khai
thác, phối hợp với các lực lượng để cùng giáo dục học sinh, thống nhất giữa các lực
lượng giáo dục đó là nguyên tắc, đồng thời là con đường xã hội hóa giáo dục, nâng
cao chất lượng giáo dục theo mục tiêu chung. Thực tế đã khẳng định năng lực công
tác, kinh nghiệm sư phạm và ý thức trách nhiệm của người giáo viên chủ nhiệm lớp
quyết định chất lượng học tập và tu dưỡng của học sinh trong một lớp học.Giáo viên
chủ nhiệm là người đóng vai trị quan trọng nhất trong việc giáo dục và hình thành
các kỹ năng sống cho học sinh, cũng là người điều hành lớp học của mình để học
sinh cảm thấy được yêu thương, được tôn trọng và cảm giác được an tồn khi học
tập và trải nghiệm trong mơi trường sống của mình. Để làm tốt những cơng việc đó
giáo viên chủ nhiệm cần có những kỹ năng:

8


(a) Kỹ năng giao tiếp, ứng xử sư phạm
Giao tiếp là khả năng sử dụng phương tiện ngơn ngữ nói hoặc ngơn ngữ hình
thể để diễn đạt suy nghĩ, ý kiến, cảm nhận một cách rõ ràng và thuyết phục nhất có
thể. Đồng thời thúc đẩy được sự giao tiếp hai chiều. Kỹ năng giao tiếp là một trong
những kỹ năng mềm quan trọng nhất trong sự phát triển của xã hội hơm nay, vì kỹ
năng này thúc đẩy kỹ năng làm việc theo nhóm. Giáo viên rất cần kỹ năng này vì
nếu một giáo viên có khả năng giao tiếp tốt sẽ chủ động trong công việc, việc trao
đổi với GVBM, Phụ huynh học sinh, học sinh, lãnh đạo nhà trường sẽ dễ dàng, dễ
thu được hiệu quả tốt hơn so với GVCN có kỹ năng giao tiếp kém hơn.
Chẳng hạn như: Trong năm học 2019-2020 nhà trường phân công cho cô giáo
T.T.H chủ nhiệm lớp 10I, sau kỳ I lớp học trong tình trạng rệu rã, học sinh trong lớp
chia bè kéo cánh, mất đoàn kết, tinh thần đến lớp của học sinh đi xuống, lớp học
thường xuyên có học sinh vắng học nhiều. Vào đầu kỳ II nhà trường điều chỉnh lại
nhân sự thay giáo viên N.T.H vào chủ nhiệm lớp. Sau một tháng các GVBM đều
nhận xét đã có sự thay đổi rõ nét. Học sinh khơng cịn ngang bướng, nề nếp của lớp

ổn định, các mâu thuẫn trong lớp đã đỡ hơn. Khơng khí lớp học được cải thiện sau
hai tháng cô giáo N.T.H đảm nhận. Có gì khác biệt giữa hai cơ giáo mà kết quả của
cùng một lớp học lại có hai chiều hướng đối lập nhau?
Đối với cô giáo T.T.T.H vào lớp mang nét mặt lạnh tanh, khơng cười.Nói với
học sinh bởi các câu mệnh lệnh, trước phụ huynh cịn ngại nói chuyện, ít trao đổi
với phụ huynh, nếu có trao đổi cũng thường là những câu vắn tắt, ít quan tâm đến
cảm nhận của học sinh phụ huynh.
9


Cịn với cơ giáo N.T.H thì cơng việc vào lớp đầu tiên của cô ấy là tươi cười, cô
quan sát lớp học thấy cịn lộn xộn thì làm vài động tác thật đáng yêu để thu hút sự
chú ý của các học sinh. Cơ ấy nói chuyện về cuộc sống, cơ ấy tạo ra các chủ đề về
gia đình, bạn bè, thầy cô để học sinh bày tỏ quan điểm, lập trường và cả những khúc
mắc trong lòng bấy lâu nay của học sinh. Từ đó cơ giáo tìm cách trao đổi với phụ
huynh để phối hợp giáo dục uốn nắn kịp thời những sai lầm mà các em dễ mắc
phải.Trong các cách nói chuyện của cơ giáo N.T.H ln chân thành, cởi mở, dễ gần.
khả năng quan sát lớp nhanh, phát hiện vấn đề rất tốt và các pha xử lý tình huống sư
phạm đi vào lịng người.
Chúng ta thường hỏi tại sao Cơ A có thể qt học sinh, thậm chí dùng thước để
răn đe mà mà khơng bị HS phản ứng lại ? Cịn cơ B cho dù nói gì cũng bị HS có thái
độ khơng tốt, thiếu tơn trọng. Tất cả đề có ngun nhân của sự việc, để là một GV
có được sự tơn trọng của HS thì mỗi GV nên thực hiện theo các bước sau:
Phong cách ăn mặc phải thực sự chuẩn mực. Không mặc váy xẻ quá cao,
không diện đồ quá mỏng, không mặc váy quá ngắn, không được mặc đồ âu q chật
trước lớp… Khơng trang điểm đậm q, tóc khơng được nhuộm q lố.
Thái độ bình tĩnh điềm đạm, ơn hịa. Cách nói từ tốn, chắc chắn, đặc biệt phải
hiểu vấn đề theo hướng tích cực, và xử lý các vấn đề theo hướng tích cực, lạc quan.
các tình huống xử lý phải có tính chất giáo dục.
Cách nói chuyện với Hs cần có sự hài hước, vui vẻ nhưng khơng qn mất tính

chất của sự việc. Khi giáo dục HS phạm lỗi, thì GV cần cho HS đó biết được mình
đang mắc lỗi gì? Sai hay đúng, nghiêm trọng tới mức nào, kém văn hóa chỗ nào….
Rồi cho HS chọn hình thức phạt.
Cách xử lý tình huống nên giải quyết nhanh gọn, không kéo dài thời gian,
không nhắc đi nhắc lại, khơng đay nghiến, chì chiết, khơng lơi chuyện cũ để xử lý
cùng chuyện mới.
Trong giao tiếp tất thảy GV cần phải tỏ rõ quan điểm tôn trọng HS,tôn trọng
phụ huynh. Làm cho HS, phụ huynh hiểu được tâm ý của mình khi xử lý các tình
huống xảy ra một cách tốt nhất, rõ ràng nhất.
Tất cả các thao tác của Gv trên lớp phải diễn ra thật tự nhiên, thoải mái không
gượng gạo, cứng nhắc, ngôn ngữ phù hợp.
Để kỹ năng giao tiếp ,ứng xử sư phạm có kết quả tốt nhất, thì trên hết người đó
phải có kỹ năng giải quyết các vấn đề thật tốt.
(b) Kỹ năng giải quyết vấn đề
Kỹ năng giải quyết vấn đề( Problem Solving skills) đây được hiểu là khả năng
xử lý và đưa ra quyết định khi gặp những tình huống bất ngờ ngoài ý muốn. Đây là
kỹ năng cực kỳ quan trọng có ứng dụng trực tiếp vào cuộc sống, cơng việc của bản
thân. Trong cuộc sống ln có các tình huống phát sinh theo nhiều chiều hướng
khác nhau và đầy bất ngờ đòi hỏi chúng ta phải xử lý linh hoạt, chuẩn xác. Những
cá nhân thực hiện tốt kỹ năng này sẽ giúp cho bản thân không lúng túng, tự tin đứng
trước đám đông,..Trong môi trường dạy học các tình huống xảy ra bất ngờ, trước
các trị nghịch ngợm của học sinh thì các tình huống ối oăm xảy ra liên tục đòi hỏi
10


giáo viên cần phải trau dồi kỹ năng giải quyết vấn đề thật tốt để tránh tình trạng làm
cho học sinh chán nản, khiếu nại liên tục… dẫn đến mất niềm tin vào thầy cơ giáo.
Để có kỹ năng giải quyết vấn đề thật tốt đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm cần có các
kỹ năng như: Kỹ năng phân tích vấn đề.Kỹ năng ra quyết định.Kỹ năng giao tiếp
Khả năng tư duy phản biện.

Đứng trước các tình huống xấu xảy ra, GVCN nên ln nhắc học sinh của
mình cần biết kiểm sốt cảm xúc của bản thân, ln nhắc học sinh rằng; trong mọi
tình huống cho dù xấu nhất chúng ta ln có hướng giải quyết ổn thỏa nhất. Cho nên
bản thân không được hồ đồ, hấp tấp xốc nổi trong việc giải quyết sự việc. GVCN
luôn đưa ra các tình huống có kết quả xấu và những pha xử lý tình huống có kết quả
tốt để học sinh thấy được sự được và mất trong vấn đề giải quyết tình huống.

Nhìn nhận vấn đề từ nhiều khía cạnh khác nhau để giải quyết vấn đề một cách toàn diện
Ảnh: Internet

Dưới đây là kinh nghiệm để mỗi người có thể tìm phương án giải quyết vấn đề
tốt nhất:
GV phải nắm rõ tính đúng sai, nghiêm trọng đến mức nào của sự việc để từ đó
tìm cách xử lý phù hợp. Tránh tình trạng việc nhẹ thì xử nặng, việc nặng lại cho qu
dẫn tới việc HS sẽ hiểu nhầm sang vấn đề GVCN bao che cho bạn này, trù dập bạn
kia.
Khi giải quyết vấn đề cần tìm hiểu rõ nguyên nhân, rồi phân tích, đánh giá.
Tiến trình giải quyết vấn đề cần nhanh nhạy, sắc sảo, chuẩn mực từ ngôn ngữ
tới hành động.
Ví dụ :Ở lớp 10A3 có một HS nữ tên là Đ.T.Q rất ham chơi, ở nhà mẹ thường
rất hay chiều theo các yêu cầu của em. Một hôm mẹ em HS gọi đến cho GVCN xin
phép cho em ấy nghỉ học vì em ấy đau đầu. nếu bạn là GVCN của em ấy thì bạn giải
quyết như thế nào?
GVCN của em ấy hơm đó đã giải quyết nhanh như sau:
11


GVCN nắm rõ đặc điểm của HS Q nên đã nói rõ với phụ huynh của em như sau:
+) Thứ nhất mong phụ huynh không chiều theo yêu cầu vô lý của em ấy.
+) Thứ hai, GVCN nói rõ lý do em Q sáng nay muốn nghỉ ở nhà: lúc tối đi chơi

khuya với các thanh niên khác.
+) Thứ 3 nếu phụ huynh mong muốn con thay đổi theo hướng tích cực thì hãy giúp
GVCN nói rõ với con là không nên nghỉ học tùy tiện.
Kết quả sau 5 phút em ấy đến trường, em ấy gặp GVCN và xin lỗi GV vì lỗi của
bản thân.
Để thu được kết quả như trên người GVCN của HS ấy đã nắm rõ sự việc, những
đặc điểm cốt lõi của em đó cũng như sự nuông chiều của phụ huynh với con cái.
Nên GVCN đã nhanh chóng đưa ra cách giải quyết vấn đề dứt khốt, rõ ràng cho gia
đình em HS ấy.
(c) Kỹ năng tư vấn tâm lý lứa tuổi.
Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc
dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến
25 tuổi, được chia làm 2 thời kì:
+ Thời kì từ 15-18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên
+ Thời kì từ 18-25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên sinh viên)
Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng,
nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp vì
khơng phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lý cũng
trùng hợp với các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành
về mặt thể chất, nhân cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ khơng trùng hợp với thời
gian phát triển của lứa tuổi. Việc phát triển tâm lý của tuổi thanh niên không chỉ phụ
thuộc vào giới hạn lứa tuổi, mà trước hết là do điều kiện xã hội (vị trí của thanh niên
trong xã hội; khối lượng tri thức, kỹ năng kỹ xảo mà họ nắm được và một loạt nhân
tố khác…) có ảnh hưởng đến sự phát triển lứa tuổi. Trong thời đại ngày nay, hoạt
động lao động và xã hội ngày càng phức tạp, thời gian học tập của các em kéo dài
làm cho sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội càng đến chậm.
Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự
phát triển thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hịa, cân đối. Cơ
thể của các em đã đạt tới mức phát triển của người trưởng thành, nhưng sự phát triển
của các em còn kém so với người lớn. Các em có thể làm những cơng việc nặng của

người lớn. Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát triển tới mức cao. Khả năng
hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt có thể hình thành mối liên hệ thần kinh
tạm thời phức tạp hơn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện
phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em dễ bị kích thích và sự biểu hiện của nó cũng
giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích này khơng phải chỉ do
nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó cịn do cách sống của cá nhân (như
hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao động, vui chơi…)
12


Giáo dục học sinh không phải chỉ là dạy cho các em về kiến thức, mà còn phải
giúp các em hình thành nhân cách; khơng chỉ là dạy chữ mà cịn phải dạy người. Vì
lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục được mệnh danh là "trồng người". Việc trồng người
này địi hỏi phải có sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội, mà quan trọng
nhất là sự phối hợp ăn ý, chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
Người giáo viên chủ nhiệm phải đối diện rất nhiều các tình huống khi quản lý
một lớp học: các em có mâu thuẫn với giáo viên bộ mơn và yêu cầu được đổi giáo
viên, bị thầy cô ép đi học thêm, thầy cô đối xử bất công hay hiều lầm, bị thất tình,
mâu thuẫn với bạn bè dẫn đến xơ xát, muốn nghỉ học vì chán nản chuyện gia đình,
vì hồn cảnh khó khăn,… Ở tuổi mới lớn, vì luôn muốn được quan tâm, đôi khi các
em thổi phồng vấn đề của mình lên quá mức, khiến cho việc nhỏ trở nên trầm trọng.
Nếu không được kịp thời giúp đỡ, khi cảm thấy khơng ai quan tâm đến mình, các
em sẽ tự giải quyết vấn đề và thông thường đó là những cách xử lý tiêu cực, đơi khi
gây ra hậu quả vơ cùng trầm trọng. Trước những tình huống nảy sinh, trong quá
trình quản lý lớp học, với tư cách là giáo viên chủ nhiệm (GVCN), người thầy cần
phải có đủ thời gian, đủ kiên nhẫn, đủ bản lĩnh và quan trọng nhất là phải có đủ tình
thương để có thể lắng nghe, thơng cảm, thấu hiểu, chia sẻ và định hướng cho các em
cách giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, ta khơng nên
chờ đến khi thật sự có vấn đề rồi mới đi tìm cách giải quyết, mà phải phát hiện được
vấn đề khi nó cịn tiềm ẩn, ngăn chặn những tình huống xấu phát sinh.

Qua quá trình thực hiện đề tai, chúng tơi trình bày cách thức thực hiện cho quá
trình tham vấn, tư vấn tâm lý cho HS.

13


Thứ nhất là, xác định độ tuổi của HS, hoàn cảnh gia đình, mơi trường sống
của HS.
GVCN phải tìm hiểu thật cặn kẽ tình hình học sinh thơng qua các nguồn khác
nhau. Từ bản thân các em thông qua Phiếu thơng tin cá nhân, có thể nắm được hồn
cảnh kinh tế gia đình, tình hình nhà ở, mối quan hệ gia đình, xã hội, những ước
muốn, sở trường, những khó khăn nếu có,… Với những thơng tin đầu tiên này,
GVCN có thể sàng lọc chọn ra những học sinh có hồn cảnh đặc biệt để nếu cần, thu
thập thêm thơng tin về các em thông qua bạn bè, cha mẹ, GVCN hay thầy cô cũ của
các em. Tuy nhiên, trong cuộc sống, khơng có gì là khơng thể xảy ra. Vì vậy, đối
với những học sinh được đánh giá thật bình thường về hồn cảnh, về tâm lý, cũng
khơng nên chủ quan cho rằng không cần phải quan tâm đến các em. GVCN phải thể
hiện sự quan tâm của mình đến với từng học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm,
trọng điểm ở một số học sinh cá biệt. Song song đó, GVCN cũng cần tự hình thành
cho mình một mạng lưới thu thập thông tin riêng từ các nguồn: giáo viên bộ mơn,
các tổ chức đồn thể trong trường học như: Đoàn thanh niên, các câu lạc bộ thanh
nhiên,, cha mẹ, bạn bè của học sinh.
Thứ hai là, quan sát các đối tượng HS từ thể trạng, tinh thần tới sinh hoạt
hàng ngày của HS
Sau khi nắm chắc được tình hình học sinh, GVCN tiến hành bước thứ hai: quan
sát. Quan sát để phát hiện những thay đổi trong hành vi, những hiện tượng bất
thường trong đời sống học đường, quan sát những biểu hiện của học sinh có nguy cơ
rối nhiễu tâm lý. Đó có thể là những biểu hiện nhỏ: đi trễ, không mang giày, cáu gắt
với bạn, lo ra, … hay lớn hơn: nghỉ học không xin phép, cúp tiết. Và nghiêm trọng
hơn, như vi phạm kiểm tra, vô lễ với giáo viên,… Với những học sinh cá biệt, việc

nghỉ học, cúp tiết là chuyện thường ngày, nhưng với những học sinh vốn ngoan
ngoãn, chăm chỉ thì một biểu hiện nhỏ nhất cũng là điều cần lưu ý. Một học sinh
học khá, chưa một lần đi trễ hay nghỉ học lại đi học muộn giờ. Khi được hỏi trước
lớp về lý do đi muộn, đã rơi nước mắt và im lặng. GVCN gọi riêng hỏi han, em tâm
sự: thời gian gần đây cha mẹ hay cãi vã nhau. Tối hơm đó, cha về nhà khi đã say
rượu, đánh mẹ con em và đuổi ra khỏi nhà, rồi lấy dao đâm nát bánh xe của chiếc xe
đạp em vẫn đi học. Sáng ra, em phải đi bộ hơn ba cây số để đến trường, vì ở quê
sáng sớm chưa có nơi sửa xe nào mở cửa. Với trường hợp này, nếu GVCN cứ cứng
nhắc áp dụng kỷ luật mà khơng cần hỏi han, có thể sẽ gây một chấn động tâm lý cho
học sinh.
Thứ ba là, tạo môi trường hoạt động tập thể như: Thể thao, văn nghệ, hùng
biện về chủ điểm trong tháng, trong tuần, hoặc chủ chề nóng xã hội ở thời điểm đó.
Ngồi ra, nhằm xây dựng môi trường tâm lý thuận lợi cho học sinh, GVCN cần
tổ chức các hoạt động tập thể, vui chơi, hoạt động giáo dục trong phạm vi lớp chủ
nhiệm. Đó có thể là một chuyến dã ngoại nho nhỏ, một hoạt động ngồi giờ lên lớp
do chính các em thiết kế và thực hiện chương trình. Những hoạt động ngoài nhà
14


trường thơng thường sẽ giúp cho thầy và trị gần gũi, gắn bó với nhau, dễ cảm thơng
cho nhau. Việc để học sinh tự thực hiện hoạt động ngoài giờ lên lớp vừa phát huy
được năng lực sáng tạo của các em, vừa tạo điều kiện cho các em thể hiện các kỹ
năng sống cần có: kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thể hiện sự tự
tin, kỹ năng giao tiếp….Trong quá trình làm việc, các em sẽ thắt chặt thêm tình
đồn kết, sẽ có được những kỷ niệm khó quên cho thời áo trắng của mình.
Tuy nhiên, khơng phải lúc nào GVCN cũng có thể ngăn chặn được những trở
ngại về tâm lý của học sinh. Việc trực tiếp tư vấn tâm lý cho các em là một trong
những hoạt động mà có lẽ tất cả GVCN đều trải qua. Tùy vào từng đối tượng học
sinh, tùy vào mức độ của vấn đề, tùy vào nội dung vấn đề mà có cách giải quyết
khác nhau, nhưng nhìn chung, GVCN thường tiếp xúc với 2 đối tượng: học sinh cần

tư vấn và các đối tượng có liên quan.
Thứ tư là, thái độ làm việc.
Với học sinh cần tư vấn, GVCN cần thật nhẹ nhàng, kiên nhẫn, tỏ ra biết lắng
nghe và biết thấu hiểu. Khi thầy cô lắng nghe và thể hiện sự thấu hiểu, các em sẽ dễ
dàng bày tỏ những điều đang chất chứa trong lịng. Tuy nhiên, việc cần làm của
GVCN trong cơng tác tư vấn không phải là chỉ ra cho các em vấn đề nằm ở đâu và
giải quyết vấn đề thay cho các em, mà là tạo điều kiện để học sinh tự nói ra vấn đề,
tự nhìn nhận, đánh giá vấn đề, tự giải quyết vấn đề, nếu như vấn đề nằm trong khả
năng của các em. Nói cách khác, GVCN với tư cách là người tư vấn, phải khơi dậy
được ở học sinh niềm tin vào bản thân, gạt bỏ những rào cản tâm lý để các em có
thể đối mặt với những vấn đề của mình. Tuy nhiên, khi vấn đề không chỉ thuộc về
cá nhân học sinh, thì GVCN lại phải trợ giúp cho các em bằng nhiều cách, trong đó
có việc tiếp xúc với các đối tượng có liên quan.
Các đối tượng này có thể bao gồm cha mẹ học sinh, thầy cô bộ môn, bạn bè,
Ban Giám hiệu trường,… Tư vấn cho học sinh không dễ, tiếp xúc với cha mẹ, thầy
cô bộ môn của các em lại càng khó hơn. Xử lý khơng khéo, sẽ dễ dẫn đến việc bị
hiểu lầm. Vì thế, GVCN cần khéo léo, bình tĩnh và ơn hịa giúp cho các bậc cha mẹ
hiểu được rằng, mục đích của cuộc gặp gỡ là vì con cái của họ, vì để tạo điều kiện
tốt nhất cho các em học tập. Với giáo viên bộ môn, cũng cần phải rất tế nhị, vì
những trao đổi có liên quan đến học sinh cũng có thể chạm đến lịng tự trọng của
đồng nghiệp, dễ gây sự hiểu lầm khơng nên có. Lúc đó, khơng giúp được gì cho
học sinh của mình mà ngược lại, còn khiến mối quan hệ thầy trò của các em thêm
căng thẳng. Ngồi ra, trong q trình tư vấn, GVCN cần phải tranh thủ sự hỗ trợ từ
nhiều phía: giáo viên bộ mơn, Đồn thanh niên, Ban Giám hiệu trường,… nếu thấy
cần thiết.
Thứ năm là, ví dụ minh họa
Trong q trình làm cơng tác chủ nhiệm, bản thân tơi đã thực hiện rất nhiều
cuộc tư vấn tâm lý cho các em học sinh trong đó có tình u học trị, giới tính, kiểm
sốt cảm xúc đã thành cơng rất nhiều. Chẳng hạn: em HS nữ T.P.T em nói chuyện
15



với tơi về tình trạng giới tính của mình, tơi thấy cách ăn mặc, đi đứng, cách nói
chuyện với các bạn của em rất thoải mái kể cả nam và nữ. Em có năng khiếu về âm
nhạc rất tốt, em thổi sáo rất hay, và học cũng giỏi. Em nói rằng em thuộc thế giới
thứ 3.Tôi thật bất ngờ! Tôi hỏi em: Tại sao em nghĩ mình như thế? Em trả lời: tại em
thấy em làm được tất cả các việc kể cả những việc của con trai, em thích làm những
việc mang tính mạnh mẽ…tơi thấy em thật đáng thương, bởi bản thân em đang
nhầm lẫn việc mình mang giới tính thứ 3. Tơi quyết định nói chuyện thẳng thắn với
bản thân của em. Tôi được biết bố mẹ em bỏ nhau từ khi em mới sinh ra, mẹ để em
sống với gia đình em gái, đi làm ăn xa. Một hoàn cảnh mà ai thật sự thấu hiểu mới
cảm nhận hết được sự xót thương cho em ấy. Mặc dù gia đình dì xem em như con,
em gọi dì là mẹ, chồng của dì là bố. Nhưng tơi hiểu rằng trong sâu thẳm con người
của em luôn cố gắng để khơng làm phiền đến gia đình của mình, khơng muốn bố mẹ
phải phiền muộn vì bản thân của mình nên trên tất thảy là em cố gắng sống tốt, việc
gì em cũng làm một mình, bản thân em sẽ sống trong nỗi lo lắng, thậm chí lúc nào
cũng sống trong tâm trạng nhìn mặt để hành động...tơi đã nói thẳng cho em về
những gì mình nghĩ, và em đã cơng nhận đúng. Nhưng em vẫn nói em khơng thích
nấu ăn, nhưng em lại thích sửa bóng đèn. Em khơng thích mặc đồ diêm dúa của con
gái em thích mặc đồ Tomboy… Tơi nhìn em thật lâu rồi nói: Cơ cũng khơng thích
nấu ăn, cơ thích được người khác nấu cho ăn. Cơ khơng thích làm việc gia đình, cơ
thích ra ngồi làm việc và vui chơi…cái thích này khơng quy định nên giới tính.
Cịn vấn đề ăn mặc, cô nghĩ em thật sự là người lớn từ khi cịn q nhỏ tuổi, em ý
thức được mình cần mặc như thế nào thì cảm thấy an tồn nên lâu dần cái đó trở
thành một điều kiện để em chọn đồ. Em cơng nhận tơi nói đúng,.. Rất nhiều nữa,
chúng tơi nói chuyện với nhau hết cả buổi chiều, tơi khuyên em giờ em đã trưởng
thành, có nhà riêng của mẹ ruột rồi thì thỉnh thoảng nấu món ăn mà mình muốn ăn,
trồng cây rau, cây hoa mà mình thích…Rồi có thể đi shoping thử một vài mẫu đồ
khác xem mình có chấp nhận được khơng…..tất thảy những điều đó em hứa sẽ thử
thực hiện….Và sau một năm đến ngày chụp kỷ yếu cuối cấp em đã diện một bộ váy

trắng tinh khôi, dám tô son, dám cười nhẹ ….và em đã khóc khi nói cảm ơn cơ.
GV muốn cơng tác tham vấn tư vấn tâm lý cho HS, GV có hiệu quả tốt nhất
thì cần nắm vững hồn cảnh gia đình, thấu hiểu sự việc, đặc biệt biết nói thẳng một
số nỗi niềm được cất dấu sâu thẳm trong con người.
Để có kết quả hồn mỹ như trên người GV ấy đã nắm vững đặc điểm tâm lý
lứa tuổi, nguyên nhân sâu xa của sự việc và hơn hết, người GV ấy đã dùng tốt các
kỹ năng như: Kỹ năng lắng nghe, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng thấu hiểu, kỹ năng
kể chuyện, kỹ năng huyết phục, kỹ năng hướng dẫn.

16


Sơ đồ các phương pháp đánh giá khó khăn của HS và phương pháp tư vấn hỗ trợ
HS. Ảnh nguồn internet
(d) Kỹ năng tổ chức lớp học

Kỹ năng quản lý lớp học là kỹ năng quan trọng của giáo viên nói chung và của
giáo viên chủ nhiệm nói riêng. Một giáo viên có kỹ năng quản lý lớp học tốt, sáng
tạo, độc đáo thì giáo viên đó sẽ được sự yêu mến của học sinh và phụ huynh, ở đó
trạng thái lớp học lúc nào cũng thoải mái, nhẹ nhàng, học sinh tích cực thân thiện,
chất lượng giáo dục của giáo viên đó đối với các học sinh của mình cũng được nâng
17


cao. Làm như thế nào để có được kỹ năng quản lý lớp học tốt nhất? Dưới đây là một
số giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng đó cho giáo viên:
 GVCN tiếp nhận học sinh tìm hiểu thật kỹ hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng,
đặc điểm nổi bật của cá nhân từng học sinh.
 Ghi chép và lưu giữ cẩn thận các thành tích, lỗi mắc phải của các cá nhân học
sinh một cách cẩn thận, chính xác.

 Lên kế hoạch chi tiết cho công việc sắp xếp ban cán sự lớp, ban chấp hành chi
đoàn. Lựa chọn kỹ hai yếu tố quan trọng là Lớp trưởng và bí thư đoàn của
lớp.
 Tiến hành xây dựng nội quy lớp học ( GVCN đưa ra một số điều lệ chính và
yêu cầu cả lớp xây dựng bổ sung, xây dựng quy định thưởng phạt rõ ràng ).
 Xây dựng kế hoạch quan tâm đến học sinh đặc biệt một cách cụ thể chi tiết.
 Xây dựng mối liên lạc với phụ huynh học sinh.
 Thái độ ứng xử của giáo viên chủ nhiệm biết nặng nhẹ, công bằng, rèn luyện
tốt kỹ năng giải quyết vấn đề.
 Thường xuyên trao đổi với học sinh, phụ huynh, GVBM để kịp thời nắm bắt
các thông tin, sự việc xảy ra của các học sinh để từ đó tìm cách xử lý sự việc
một cách nhanh chóng nhất, phù hợp nhất.
 Thống nhất hình thức thi đua khen thưởng, kỷ luật với HS và với phụ huynh.
 Các tiết sinh hoạt lớp thường xuyên đổi mới, tạo niềm hứng khởi cho HS

Hình ảnh trong một tiết sinh hoạt đổi mới tại lớp 11G

(e) Kỹ năng định hướng nghề nghiêp
Đối với học sinh THPT thì việc lựa chọn ban học để phù hợp với năng lực của
bản thân là điều quan trọng không kém phần rèn luyện tư cách đạo đức. chính vì lẽ
đó GVCN quan tâm, tìm hiểu kỹ rồi tư vấn phù hợp để các em theo học đúng năng
lực, chọn đúng ngành, đúng trường. Một số kinh nghiệm trong định hướng nghề
nghiệp cho học sinh THPT. Với việc lựa chọn nghề nghiệp của các em trong tương
lai, GVCN không nên cho học sinh biết là em thích hợp với nghề gì, nên chọn ngành
18


học nào. Ở đây, bản thân các em phải tự ý thức được mình là ai, mình đang ở đâu,
và quan trọng hơn, các em phải hiểu rằng tuy cần có sự trợ giúp, góp ý của người
lớn, nhưng tương lai là do mình tự quyết định lấy.

Học sinh đầu năm lớp 10 các em chưa thực sự biết được năng lực cá nhân, các em
còn hoang mang, băn khoăn, lúng túng khi chọn lựa các môn học phù hợp với bản
thân mình. Chính vì thế, mà GVCN cần phải sát sao, chuyên tâm, tìm hiểu kỹ về
năng lực của các em thơng qua GVBM, phụ huynh để từ đó định hướng cho các em
lựa chọn tốt nhất về cách chọn khối học nào. Như: HS nào học tốt các mơn tự nhiên
thì hướng các em vào khối A,B. HS nào có năng khiếu về ngoại ngữ thì hướng cho
các em học về khối D,A1, D07.., Tìm hiểu về năng khiếu của các em để có thể
hướng các em bồi dưỡng thêm về năng khiếu thông qua việc giúp các em tham vào
các câu lạc bộ của học sinh như: Câu lạc bộ âm nhạc, câu lạc bộ về thể thao, câu lạc
bộ về mỹ thuật,…
Bản thống kê sự thay đổi lựa chọn các khối học của Hs theo ban KHTN được
thay đổi qua các năm học.

Khối A
Khối A1
Khối B
Khối D

Năm 2019-2020
lớp 10G
35 hs
7 hs
3 hs
0 hs

Năm 2020-2021
lớp 11G
25 hs
10 hs
7 hs

3 hs

Năm 2021-2022
lớp 12G
20 hs
12 hs
8 hs
5 hs

Thống kê sự thay đổi lựa chọn khối học của các HS theo ban KHXH

Khối C
Khối D
Chỉ thi tốt
nghiệp THPT

Năm 2019-2020
lớp 10A
45hs
0 hs
0 hs

Năm 2020-2021
lớp 11A
37 hs
8 hs
0 hs

Năm 2021-2022
lớp 12A

35 hs
5 hs
5 hs

Cuối năm lớp 10, đầu năm lớp 11 GVCN dựa trên năng lực học tập của học
sinh, năng khiếu của mỗi cá nhân phối hợp với gia đình định hướng ngành nghề, cho
học sinh. GVCN sẽ giới thiệu các ngành nghề tương ứng với các khối, ban học,
năng khiếu, sở trường, phù họp với giới tính, hồn cảnh của cá nhân học sinh.
GVCN nên định hướng cho mỗi HS tự lựa chọn cho mình nhiều ngành nghề, để sau
này dễ chọn trường Đại học đăng ký thi tuyển.
Giữa năm lớp 12, GVCN phối hợp cùng gia đình và bản thân mỗi học sinh lựa
chọn ngành nghề lần sau cùng, rồi tiến hành lựa chọn trường Đại học, cao đẳng hay
các trường dạy nghề để đăng ký thi tuyển và xét tuyển cho phù hợp với năng lực của
mỗi cá nhân HS. Đây chính là thời điểm quan trọng nhất của một học sinh, sự lựa

19


chọn đúng đắn sẽ giúp các em có thêm cơ hội nâng cao kiến thức nâng tầm hiểu
biết, mở rộng được các mối quan hệ xã hội.
Bảng thống kê các hs chọn đúng ngành nghề
(f) Kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt.
Trước hết,cần hiểu đúng khái niệm “học sinh cá biệt”.Đó là những học sinh có
cá tính khác biệt so với số đơng học sinh bình thường (khơng có nghĩa học sinh cá
biệt là bất bình thường). Học sinh cá biệt là những học sinh thường có sự bất thường
về tính cách, khơng có động cơ học tập, tâm lý không ổn định. Chẳng hạn khi ở lớp
học đang n lặng làm bài tập thì em đó bỗng la lớn lên khi làm bài được, thích học
thì học, khơng thích thì đùa giỡn, quậy phá các bạn kế bên, chọc cho bạn giỡn, nói
chuyện với mình, tâm trạng thì "mưa nắng thất thường" hoặc thầy cô đang giảng về
vấn đề này lại hỏi vấnđềkhác.

Chúng ta biết rằng những học sinh được gọi là “cá biệt” thường có hồn cảnh
đặc biệt. Mơi trường sống bất ổn đã làm lịng tự trọng của các em có vấn đề. Học
sinh cá biệt (HSCB) là học sinh hư về đạo đức, lười nhác học tập, những trẻ này
thường rất lười biếng, hay quay cóp trong học tập; lừa dối cha mẹ, thầy cơ; dọa nạt
bạn bè; lảng tránh các hoạt động tập thể; Tiêu sài các khoản phí của bố mẹ cho để
đóng góp với nhà trường; giả tạo chữ kí của bố mẹ trong sổ liên lạc hoặc giấy xin
phép; Càn quấy, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích “chơi trội” theo kiểu con nhà đại
gia giàu có cụm lại với nhau đối lập với tập thể lớp. Họ thích ăn chơi phá phách hơn
là học hành tử tế; Khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trị tinh nghịch với thầy
cố, bạn bè; Hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước thầy cô, bạn bè nhằm
thỏa mãn những nhu cầu tinh nghịch được xắp sẵn trong đầu óc chúng. Có cách nói
năng, ăn mặc, đi đứng hành động khác thường để gây sự chú ý. Kết quả học tập thất
thường, sút kém, luôn xếp “đội sổ”, dẫn đến chán học
Ở những học sinh này, uy tín của bố mẹ, thầy cơ có thể bị thay thế bởi những kẻ
cầm đầu, côn đồ hung hãn, liều lĩnh, những anh chị “Đại ca” nên rất dễ dàng rơi
vào những cạm bẫy, sai khiến xúi giục của các “đàn anh, đàn chị”.
Nguyênnhân:
-Từ phía gia đình : Thiếu sự quan tâm hay quá tin tưởng, chiều chuộng của gia
đình; những éo le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến sự hư đốn, hay
nói một cách khác là đạo đức học sinh yếu kém.
-Từ phía xã hội : Trong điều kiện xã hội hiện nay từng giờ từng ngày những cám
dỗ,ảnh hưởng tiêu cực của xã hội dội vào nhà trường và tác động đến học sinh.
- Từ phía nhà trường: GVCN chưa có biện pháp phù hợp trong việc quản lí giáo
dục học sinh; chưa quan tâm đúng mức tới những HS có hồn cảnh đặc biệt (những
em q đầy đủ về vật chất, được chiều chuộng; ngược lại những em quá khó khăn
thiếu thốn về vật chất hoặc những em có hồn cảnh éo le, những em có cá tính khác
thường…); chưa tạo ra môi trường thân thiện thức sự khi các em đến trường, làm
cho các em thấy nhàm chán khi đến trường, có nhu cầu muốn tự thay đổi và làm
mới môi trương sống; từng giáo viên chưa trở thành chỗ dựa về tinh thần cho các
20



em mỗi lúc gặp khó khăn, giáo viên cịn ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, sợ bị xúc
phạm khi đối diện với HS hư, thiếu tâm huyết với nghề, chưa quan tâm phát hiện và
ngăn chặn kịp thời những hành vi lệch lạc của HS…
-Từ bản thân học sinh : Giai đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi.Từ tuổi thiếu
niên chuyển sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình bằng sự hiểu biết
chưa đầy đủ của mình; có thể do bản năng hoặc bệnh a dua hay bệnh lấy lệ.Thậm
chí các em cịn nghĩ làm như vậy là khơng sai! Khi đạo đức yếu kém thì học lực
cũng tỉ lệ thuận với nó. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả, các em kiến thức bị hổng dẫn
đến mất căn bản; điểm kiểm tra thấp so với các bạn cùng lớp làm các em mặc cảm
đưa đến hiện tượng sợ bị kiểm tra, tiếp theo là chán học và cuối cùng nảy sinh bỏ
học.
Mỗi GV đều rất nhớ những trải nghiệm khó khăn trong những năm đầu tiên khi
bắt đầu cơng việc giảng dạy của mình. Một HS nào đó đã khơng thèm nghe theo
hướng dẫn hoặc cười vào sự nỗ lực của bạn trong việc duy trì kỷ luật của lớp học.
Hầu như tất thảy các GVCN đều có những kỷ niệm vui buồn để chia sẻ. Đối với các
GVCN có những HS cá biệt thì kỷ niệm càng nhiều, buồn cũng nhiều mà vui cũng
không ít.
Dưới đây là các biện pháp để giáo dục học sinh cá biệt của chúng tôi trong thời
gian thực hiện đề tài:
 Dùng tình cảm để cảm hóa các em.
 Kiên trì tạo niềm tin.
 Biết chấp nhận và yêu thương
 Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình.
 Phải biết tác động vào động cơ học tập.
 Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng.
 Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội.
 Luôn công bằng trong tất cả mọi chuyện
 Luôn cho học sinh biết mình yêu thương học sinh như thế nào.

 Phải thống nhất quan điểm học sinh cá biệt không hề cá biệt.
Một số kết quả đạt được khi thực hiện các biện pháp trên:
Em Dương Quốc Đạt:có biểu hiện đầu năm khơng hợp tác trong học tập, hay
bỏ học về giữa buổi và biểu hiện thái độ văng tục,xúc phúc phạm cô giáo, tính tình
nóng nảy, khơng kiềm chế được cảm xúc. Qua nhiều lần tiếp xúc gia đình em Đạt,
chúng tơi đưa ra giải pháp vừa cương vừa nhu khuyến khích động viên kịp thời.
Đến nay em đã có những biểu hiện tiến bộ khơng cịn những hành vi trên và hịa
nhập cùng tập thể, có tinh thần xây dựng tập thể lớp đồn kết, tích cực học tập.
Em Nguyễn Thị Khánh Huyền :là con gái nhưnglầm lì ít nói có thái độ không
hợp tác thường xuyên không làm bài tập hay đưa ra hàng loạt lí do,ở nhà hay nói
dối cha mẹ đi học nhưng không tới lớp. Thường xuyên la cà quán sá, tham gia các
bán hàng trên mạng. Gia đình của HS có mẹ đi làm ăn xa, bố đi làm phụ hồ cả ngày
nên khơng có ai quản lý em Huyền, do đó việc học tập, tu dưỡng đạo đúc của em
21


Huyền ngày một yếu hơn. Chúng tôi đã gặp gỡ gia đình của em và thống nhất đưa
ra các biện pháp giáo dục. Qua một thời gian rèn luyện cùng sự giúp đỡ của bạn bè
trong lớp Huyền đã có những biểu hiện tích cực trong học tập, hịa đồng với bạn bè,
chào hỏi thầy cơ,Tích cực học tập, tự giác trong các hoạt động tập thể và những
người lớn tuổi.
3.2. Đối với giáo viên bộ môn
Trên thế giới nhiều trường Ðại học đào tạo giáo viên thiên về kỹ năng hơn
kiến thức chuyên ngành. Giáo viên trước tiên phải là người có khả năng tương tác
tích cực với học sinh. Chính vì vậy, ngồi việc chú trọng rèn luyện phương pháp dạy
học, giáo viên nói chung và giáo viên bộ mơn nói riêng cần có khả năng truyền lửa,
kỹ năng tổ chức những hoạt động tương tác với học sinh, kỹ năng sáng tạo trong
phương pháp giảng dạy, kỹ năng quản lý đội, nhóm… Dạy chỉ là một nửa của nghề
giáo, một nửa còn lại tập trung ở nhiệm vụ giáo dục cho học sinh. Nhưng trong thời
gian qua xảy ra nhiều sự vụ đau lịng như vì mâu thuẫn với giáo viên mà học sinh

uống thuốc tự tử, học sinh đánh thầy, trị tát giáo viên chỉ vì nhắc nhở quy định nhà
trường và mới đây là thầy tát học sinh rồi sau đó học sinh đánh thầy… Dưới góc độ
nhà giáo dục, giáo viên khơng thể đổ lỗi cho nhân cách học sinh. Vì sao học sinh chỉ
phản ứng lại với giáo viên này mà không phải với giáo viên kia? Tại sao có nhiều
học sinh rất nghịch phá nhưng lại rất vâng lời một hai thầy cơ giáo trong trường? Sự
khéo léo và tài tình ở người giáo viên không phải là dùng uy nghiêm của mình giáo
dục các em mà phải dùng kỹ năng sư phạm để hướng dẫn và tương tác với học sinh
một cách khéo léo. Học sinh ngày nay có sự biến đổi lớn về mặt tâm lý do sự tác
động từ môi trường xã hội, nhất là giai đoạn các em từ trẻ con chuyển tiếp sang
người lớn. Giáo viên cần hiểu rõ hơn về tâm lý của học sinh và có khả năng giải
quyết tốt các tình huống sư phạm. dựa trên cơ sở thực tiễn đó chúng tơi đưa ra các
kỹ năng cần thiết của giáo viên bộ môn cần có:
(a) Năng lực chun mơn
Năng lực chun mơn của giáo viên được thể hiện qua nhiều yếu tố song quan
trọng nhất là kỹ năng truyền đạt kiến thức và nội lực kiến thức phân môn của bản
thân.
Bạn cần phải thể hiện tài năng của mình. Bạn khơng chỉ là một giáo viên mà
còn là một người rất tài giỏi trong lĩnh vực của mình. Hãy thể hiện mình như đang
tham dự một buổi phỏng vấn xin việc. Tỏ ra khiêm tốn nhưng cũng đừng che giấu
năng lực của bản thân. Hãy đảm bảo rằng niềm tự hào của bạn được truyền tải đến
học sinh khi đề cập đến những kinh nghiệm và đóng góp của bạn. Nếu bạn có những
người quen tài giỏi thì hãy mời họ đến lớp, tuy nhiên đừng yêu cầu họ phát biểu mà
hãy áp dụng hình thức phỏng vấn tương tác.Nếu học sinh nghĩ rằng bạn khơng thực
sự nắm vững kiến thức của mình, các em sẽ dễ lười biếng khi làm bài tập hơn hoặc
nghĩ rằng bạn sẽ không để ý nếu các em chưa đọc kĩ tài liệu.Tháo gỡ những vướng
mắc cho HS dù đó là lỗi nhỏ nhất. Bản thân ln chăm chỉ, đổi mới và áp dụng
nhiều phương pháp dạy học để phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Kỹ năng truyền
đạt kiến thức cịn có thể hiểu là kỹ năng diễn giải yếu tố này sẽ quyết định mức độ
22



thích hay khơng thích lắng nghe của học sinh. Một giáo viên có kỹ năng diễn đạt tốt,
độc đáo sẽ là một lợi thế trong giảng dạy. Giáo viên có kỹ năng ứng xử tốt. ln có
diện mạo chuẩn mực, tích cực đổi mới để bắt nhịp với sự phát triển của xã hội. đổi
mới cả về phong cách lẫn kiến thức, tích cực học tập để nâng cao trình độ chuyên
môn. GV cần để HS thấy được năng lực của bản thân.

(b) Kỹ năng giải quyết vấn đề
Kỹ năng giải quyết vấn đề của GVBM cũng giống với GVCN. Cả
GVBM,GVCN hay bất cứ con người bào cũng rất cần dến kỹ năng này. Với một
GV có cách xử lý xuất sắc các tình huống xảy ra bất ngờ sẽ tạo dựng được niềm tìn,
sự thích thú, hứng khởi cho HS, cho lớp học. Ví dụ như: GV A có chiều cao khiêm
tốn khi bước vào lớp học, cả lớp đứng dậy chào GV, riêng một em ở bàn thứ 3 phía
trong cửa sổ lớp học khơng đứng dậy chào GV. Trong tình huống đó nếu là bạn, bạn
xử lý như thế nào? Cịn GV A đã xử lý tình uống đó thật tự nhiên như sau: Cơ ấy
vẫn đứng nghiêm trên bục giảng, nhưng ánh mắt thì nhìn thẳng về vị trí em HS
khơng đứng lên, đủ để ra dấu hiệu cho các bạn xung quanh nhắc nhở bạn HS đó. Em
HS đó đứng dậy, GV A hỏi nhanh: Vì sao em khơng đứng dậy chào cơ? HS đó trả
lời: Vì cơ thấp q nên em khơng thấy ạ! Cả lớp bắt đầu có tiếng cười rúc rích, cơ
giáo ấy cũng cười nhẹ một tiếng, rồi cô gọi 3 em HS ở ba vị trí khác nhau, phía sau
em đó 2 bàn, bên cạnh em ấy và cuối lớp bên kia một em rồi hỏi các em có thấy cơ
khơng? Cả 3 em trả lời có, rồi cơ giáo tiếp tục hỏi cả lớp có thấy cơ khơng? Cả lớp
đều trả lời là có. Sau khi nghe xong cơ giáo cười thật tươi, và tuyên bố: Không phải
23


×