Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Phân tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam trong giai đoạn hiện nay, việt nam cần làm gì để hòa nhập mà không hòa tan vào kinh tế thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.09 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN
ĐỀ TÀI 2:
Phân tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần làm gì để hịa nhập
mà khơng hịa tan vào kinh tế thế giới.
Sinh viên
MSV
Lớp

:
:
:


TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI 2:
Phân tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần làm gì để hịa nhập
mà khơng hịa tan vào kinh tế thế giới.

Giảng viên
Môn

: Nguyễn Thị Đăng Thu


: Kinh tế chính trị Mác - Lênin

Người Thực hiện
Mã sinh viên
Lớp

:
:
:


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Minh Trường. (2021, August 2). Tổng quan về hội nhập kinh tế
quốc tế. Hội Nhập. Retrieved May 9, 2022, from />[2] Văn kiện Đảng. (2017, October 14). Nội dung, đặc trưng và quan
điểm chỉ đạo. Ban Tuyên Giáo Trung Ương. Retrieved May 9, 2022, from
/>[3] TỔNG CỤC THỐNG KÊ. (2020, December 27). Báo cáo tình hình
kinh tế - xã hội quý IV và năm 2020. Dữ Liệu và Số Liệu Thống Kê. Retrieved
May 10, 2022, from />[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr 84
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, Tr.112-113.
[6] Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng
[7] Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. tr. 313


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................1
2. Sự cấp thiết và tính thời sự của vấn đề.......................................1
PHẦN 2: NỘI DUNG.............................................................................2

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT........................................2
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.........................................2
1.2. Những vấn đề giải quyết..........................................................2
1.3. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế.....................................2
1.4. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế.....................................4
1.5. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế................................................................................................................6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM........................................................................7
2.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam
về hội nhập kinh tế quốc tế........................................................................7
2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các mặt của đời
sống kinh tế.................................................................................................10
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM HỊA NHẬP MÀ
KHƠNG HỊA TAN VÀO KINH TẾ THẾ GIỚI........................................16
3.1. Hãy thức tỉnh nhanh về sự áp đảo của văn hoá ngoại lai đối
với văn hoá dân tộc.................................................................................17
3.2. Đầu tư nhiều hơn cho giáo dục văn hóa.................................18
3.3. Sàng lọc và tiếp thu các giá trị văn hóa từ bên ngồi vào Việt
Nam.........................................................................................................19


KẾT LUẬN...........................................................................................21


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với quá trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế khách
quan. Đây là một bước đi tất yếu, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.

Đặc biệt, Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ
hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó
khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”. Theo xu
thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
2. Sự cấp thiết và tính thời sự của vấn đề
Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại
lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường
xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học
công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý bầu của các nước kinh tế phát
triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một
vấn để bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến
cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó
khăn thử thách. Em xin chọn đề tài: “Phân tích tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt nam. Trong giai đoạn hiện nay, Việt nam cần làm gì để hịa
nhập mà khơng hịa tan vào kinh tế thế giới.”. Do thời gian nghiên cứu và khả
năng bản thân có hạn bài tiểu luận mới chỉ để cập một số vấn đề cơ bản về
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và đề xuất một số quan điểm,
giải pháp cá nhân để hòa nhập mà khơng hịa tan trong thời kỳ hội nhập kinh
tế hiện nay trong giới hạn 3 phần của bài:
Chương I: Tổng quan lý thuyết
Chương II: Thực trạng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam


2
Chương III: Giải pháp để Việt Nam hòa nhập mà khơng hịa tan vào
kinh tế thế giới



3
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là
mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc
tế, mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể
trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu
cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước.
Hội nhập quốc tế là giai đoạn phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá
trình áp dụng và tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của cộng
đồng quốc tế, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam.
1.2. Những vấn đề giải quyết
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế lớn và tất yếu trong
quá trình phát triển của mỗi quốc gia cũng như tồn thế giới. Hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề chủ yếu:
- Đàm phán cắt giảm thuế quan;
- Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
- Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
- Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
- Điều chỉnh các chính sách thương mại khác;
- Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế...có tính chất tồn cầu.
1.3. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1. Hợp tác kinh tế song phương
Loại hình đầu tiên cần nhắc tới khi nền kinh tế một quốc gia hội nhập
cùng các nền kinh tế quốc gia khác là hợp tác kinh tế song phương. Hợp tác
kinh tế song phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp định


4

kinh tế, thương mại, đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả
thuận thương mại tự do (FTAs) song phương...
Loại hình hội nhập này thường hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia
có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là
cột mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước. Đại hội được ví là “Đại hội của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến
việc mở rộng giao lưu quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát
triển kinh tế đất nước. Sau Đại hội, hàng chục hiệp định thương mại, đầu tư
song phương đã được kí kết giữa Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Ví
dụ: Hiệp định về Thúc đẩy và bảo hộ đầu tư lẫn nhau giữa Việt Nam và
Australia ngày 05/3/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan về Khuyến khích và
Bảo hộ đầu tư lẫn nhau ngày 30/10/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hồ Liên bang
Nga về Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 16/6/1994; Hiệp định Thương
mại giữa Chính phủ nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
nước Cộng hồ nhân dân Trung Hoa ngày 07/11/1991; Hiệp định giữa Chính
phủ nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hồ
nhân dân Trung Hoa về Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 02/12/1992.
Tính đến ngày 30/12/2018, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185
nước (so với 11 nước năm 1954); có 16 đối tác chiến lược, 14 đối tác tồn
diện. Việt Nam đã kí kết được trên 90 hiệp định thương mại song phương; gần
60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; 75 hiệp định tránh đánh thuế hai
lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với các nước/vùng lãnh thổ trên
thế giới. Có thể kể đến một số hiệp định kinh tế song phương của Việt Nam
với các đối tác quan trọng như: Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
(2000), Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA - 2008) - Đây



5
là FTA song phương đầu tiên của Việt Nam (được kí kết ngày 25/12/2018, có
hiệu lực ngày 01/10/2009), Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt
Nam - Hàn Quốc (2015)...
1.3.2. Hội nhập kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ
XX và phát triển cho đến ngày nay. Sự phân loại và khái niệm về các loại
hình hội nhập kinh tế khu vực có sự thay đổi theo sự phát triển của nền kinh
tế thế giới. Hội nhập kinh tế khu vực phân thành các cấp độ từ thấp đến cao:
Khu vực Mậu dịch tự do (FTA), Liên minh Hải quan (CU), Thị trường chung
(CM), Liên minh Kinh tế và tiền tệ (EMU).
1.4. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
1.4.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực;
Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thơng qua thương lượng
hồ bình;
Bốn là, tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Trong đó, ngun tắc cơ bản và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập,
tự chủ và định hướng Xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
1.4.2. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
Đầu tiên, hội nhập kinh tế quốc tế là sự liên hệ, phụ thuộc và tác động
qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. Đây là
quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư
giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế. Nó tạo điều kiện thuận lợi


6

cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh nhưng đồng thời cũng tạo ra
áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo
điều kiện thuận lợi vừa yêu cầu và gây sức ép đối với các quốc gia trong công
cuộc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế. Song, hội nhập cũng tạo điều kiện
cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ
phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất cũng như tạo điều
kiện cho sự di chuyển hàng hóa, cơng nghệ, sức lao động, kinh nghiệm quản
lý giữa các quốc gia.
1.4.3. Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một hình thức phát triển tất yếu và cao nhất
của phân công lao động quốc tế, là sự tham gia tự nguyện của mỗi quốc gia
thành viên trên cơ sở những điều khoản đã thỏa thuận trong hiệp định. Nó là
sự phối hợp mang tính chất quốc gia giữa các nhà nước độc lập có chủ quyền.
Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế là giải pháp trung hòa cho hai xu hướng
tự do hóa thương mại, bảo hộ thương mại và là bước quá độ để thúc đẩy nền
kinh tế thế giới theo hướng tồn cầu hóa góp phần giảm bớt những cuộc xung
đột cục bộ, giữ gìn hịa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
1.4.4. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi hóa, tự dó hóa thương
mại và đầu tư.
– Về thương mại hàng hóa: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế
quan như Quota, giấy phép xuất khẩu…, biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện
hành và giảm dần theo lịch trình thỏa thuận.
– Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả
bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ,
thông qua liên doanh, hiện diện.


7
– Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu

cầu về tỉ lệ nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn
ngoại tê, khun khích tự do hóa đầu tư…
1.5. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.5.1. Mục tiêu:
Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính
trị – xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị
trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đả
m phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn
vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
1.5.2. Quan điểm chỉ đạo:
– Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì
lợi ích quốc gia – dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn, nhất là mối quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế
và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
– Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập
trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội
nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp,
đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu. Nhà nước cần tập trung khuyến khích, tạo
điều kiện cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh
nghiệp và sản phẩm Việt Nam, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế.
– Bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy
mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ
động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá


8
trình thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất

là trong những lĩnh vực, vấn đề liên quan đến ổn định chính trị – xã hội.
– Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản
lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị – xã hội; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tăng cường sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc trong tiến trình hội
nhập quốc tế. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức
chính trị – xã hội, đặc biệt là cơng đồn, phù hợp với u cầu của tình hình
mới.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
hội nhập kinh tế quốc tế
Đại hội VI (1986) của Đảng đã mở đầu cho thời kỳ đổi mới tồn diện
đất nước. Cũng chính từ Đại hội VI, bước đầu nhận thức về hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng ta được hình thành. Đảng cho rằng, “muốn kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công
lao động quốc tế” và “một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng
khoa học – kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt
của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh q trình quốc tế hóa các lực lượng sản
xuất”.
Tiếp đến Đại hội VII, tư duy về hội nhập quốc tế tiếp tục được Đảng ta
khẳng định, đó là, “cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến
phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có
những chủ trương đối ngoại phù hợp”.


9

Tại Đại hội VIII (1996), lần đầu tiên thuật ngữ “Hội nhập” chính
thức được đề cập trong Văn kiện của Đảng, đó là: “Xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới”.
Tiếp theo đến Đại hội IX, tư duy về hội nhập được Đảng chỉ rõ và nhấn
mạnh hơn “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế”. Để cụ thể hóa tinh thần này, ngày 27/11/2001 Bộ
Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh
tế quốc tế”.
Đến Đại hội X, tinh thần hội nhập từ “Chủ động” được Đảng ta phát
triển và nâng lên một bước cao hơn, đó là “Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tư duy nhận thức của Đảng
về hội nhập đã có một bước phát triển tồn diện hơn, đó là từ “Hội nhập kinh
tế quốc tế” trong các kỳ Đại hội trước chuyển thành “Hội nhập quốc tế”.
Đảng ta đã khẳng định, “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Khẳng định
và làm sâu sắc hơn tinh thần này, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị khóa XI đã
ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW “Về hội nhập quốc tế”.
Như vậy, bằng việc ban hành Nghị quyết số 22 “Về hội nhập quốc tế”
cho thấy nhận thức của Đảng và hội nhập quốc tế đã có một quá trình phát
triển ngày một sâu sắc, tồn diện hơn. Tồn bộ nội dung của Nghị quyết đã
xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực,
đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với u cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng
và tái cơ cấu nền kinh tế.
Đại hội XII của Đảng khẳng định rõ nhiệm vụ: “nâng cao hiệu quả
hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hịa bình và
điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước”
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán



10
đường lối độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa
phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp
quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong
việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình
trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế
và khu vực liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết
đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội
bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn
định chính trị của Việt Nam.
Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các
nước láng giềng có chung biên giới, thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác
lớn và quan trọng trên thế giới. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng
các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với
các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương.
Hội nhập quốc tế là quá trình bao hàm nhiều phương diện, đối mặt với
nhiều thách thức và áp lực cạnh tranh. Vì thế, cần phải cân nhắc nhiều mối
tương quan. “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân
và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội
lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp,
năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập
trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là
quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi
tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”.



11
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của
Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối
ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại
giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hố; giữa đối ngoại
với quốc phịng, an ninh.
2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các mặt của đời sống
kinh tế
2.2.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, hội nhập quốc tế góp phần phá thế bao vây, cấm vận, nâng
cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này được phản ánh qua việc
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao, kinh tế - thương mại với hầu hết các
nước, vùng, lãnh thổ và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế ở khu vực và
thế giới. Tính đến năm 2014, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 181 quốc
gia, quan hệ kinh tế - thương mại với trên 230 thị trường nước ngồi, là thành
viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực.
Tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN (Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á); Năm 1996 là thành viên của APEC (Diễn đàn Hợp tác kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương); Năm 2000, ký kết Hiệp định Thương mại song
phương Việt Nam - Hoa Kỳ; Tháng 1/2007 là thành viên chính thức của WTO
(Tổ chức Thương mại Thế giới) v.v... Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham
gia nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA) khu vực và song phương, như
cùng với các nước ASEAN ký FTA giữa ASEAN với Trung Quốc (2004),
ASEAN - Hàn Quốc (2006), ASEAN - Nhật Bản (2008)... Ký FTA song
phương Việt Nam - Nhật Bản (2008), Việt Nam - Chi Lê (2011), Việt Nam Liên minh kinh tế Á - Âu (2015)... Hiện nay, chúng ta đang hướng tới việc ra
đời Cộng đồng ASEAN vào tháng 12/2015; Tích cực tham gia đàm phán để đi
tới ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong đó Việt
Nam là một thành viên v.v...



12
Đến nay, Việt Nam đang là thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc
tế và khu vực quan trọng như: Tổ chức Liên Hợp quốc (UN), Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)... Quá trình hội nhập
của Việt Nam có cả ở các cấp độ, phạm vi từ khu vực (ASEAN) đến liên khu
vực (APEC, ASEM) và tới toàn cầu (UN, WTO)... Với cương vị là thành viên
hoặc gánh vác những trọng trách lớn hơn: Ủy viên Không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Chủ tịch ASEAN-2010,
Tổng Thư ký ASEAN (2013-2017), Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp quốc
(2014-2016)... Việt Nam đã thể hiện được trách nhiệm và hồn thành xuất sắc
nhiệm vụ của mình, được các nước trên thế giới đánh giá rất cao.
Thứ hai, hội nhập quốc tế mở ra một không gian phát triển mới cho nền
kinh tế Việt Nam, tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung
phát triển kinh tế - xã hội. Với việc Việt Nam trở thành thành viên của nhiều
tổ chức khu vực và thế giới, tham gia nhiều Hiệp định Thương mại tự do
(FTA), mở rộng quan hệ kinh tế song phương với hàng loạt quốc gia... đã giúp
Việt Nam khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do các đối tác
truyền thống ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị thu hẹp đột ngột và do tác
động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực bắt đầu từ năm
1997. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn 230 thị trường nước
ngoài; Việt Nam đã đi lên từ một nước nghèo, lạc hậu trong khủng hoảng kinh
tế - xã hội trở thành nước có thu nhập trung bình thấp; từ một nước nhận viện
trợ là chủ yếu thành đối tác hợp tác phát triển…
Quá trình hội nhập quốc tế, mà trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế
những năm qua đã giúp Việt Nam thu hút hiệu quả cả ba nguồn lực quốc tế
lớn là: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) và nguồn kiều hối. Tính đến hết năm 2014, tổng số vốn FDI
đăng ký đầu tư vào Việt Nam đạt hơn 270 tỷ USD, năm 2014 đạt tên 21 tỷ



13
USD; Hiện nay có khoảng 60 nhà tài trợ lớn cho Việt Nam (bao gồm cả nhà
tài trợ song phương và đa phương). Trong giai đoạn 1993 - 2013, tổng vốn
ODA ký kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam vay đạt khoảng trên 62 tỷ USD,
năm 2014 là khoảng 5 tỷ USD. Ngoài các nhà tài trợ lớn, Việt Nam còn nhận
được ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ; về nguồn kiều hối, giai đoạn
2001-2010 đạt gần 40 tỷ USD, năm 2011 đạt 9 tỷ USD, năm 2012 khoảng 10
tỷ USD, năm 2013 đạt khoảng 11 tỷ USD, năm 2014 đạt khoảng 12 tỷ USD.
Tham gia hội nhập quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã
có những bước phát triển mạnh mẽ, khơng ngừng tăng trưởng cả về quy mô
và tốc độ. Xuất nhập khẩu của Việt Nam đã trở thành động lực chính, quan
trọng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nếu năm 1986, tổng kim
ngạch xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2013 đã tăng đạt 132,2 tỷ
USD, năm 2014 đạt hơn 150 tỷ USD. Việc gia nhập WTO đã mở ra cho Việt
Nam cơ hội để gia tăng xuất khẩu sang 160 nước thành viên (Yêmen là thành
viên thứ 160 gia nhập WTO vào tháng 12/2013).
Thứ ba, thông qua hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế
giới, Việt Nam đã tiếp thu được khoa học, công nghệ mới và cách quản lý tiên
tiến trên nhiều lĩnh vực, qua đó góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao
năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhờ tranh thủ được
các nguồn vốn đầu tư và viện trợ quốc tế, nhiều lĩnh vực hạ tầng như Bưu
chính viễn thơng, Cơng nghệ thông tin, Giao thông vận tải… đã phát triển
đáng kể, tạo tiền đề và cơ sở quan trọng, đáp ứng yêu cầu, tạo thuận lợi cho
hội nhập ở tất cả các lĩnh vực khác.
Việc hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế đã kích thích sự thay đổi
tích cực hơn của cơ cấu xuất khẩu, chuyển dần từ sản phẩm thơ sang cơng
nghiệp chế biến và sản phẩm có hàm lượng công nghệ, giá trị tăng cao hơn,
thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững, tạo điều kiện cho
nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các yếu tố đầu vào như



14
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý..., thay đổi tư duy sản xuất, làm ăn mới,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Q trình hội nhập quốc tế đã góp phần đào tạo cho Việt Nam những
nhà quản lý, các doanh nhân, đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực
cả về chuyên môn lẫn quản lý. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng thúc đẩy quá
trình cải cách hành chính, cải cách thể chế kinh tế thị trường ngày một thơng
thống, tương thích, tạo thuận lợi cho các đối tác nước ngoài làm ăn với Việt
Nam và Việt Nam sẽ trở thành nền kinh tế thị trường thực sự.
2.2.2. Tác động tiêu cực
Sự phân phối của cải trở nên bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo
càng rộng giữa các quốc gia và khu vực trên toàn cầu. Toàn cầu hóa phân
phối khơng đều lợi ích và cơ hội phát triển cho các quốc gia. Trong sân chơi
cạnh tranh, các quốc gia phát triển có ưu thế lớn vì sản phẩm của họ tạo ra có
lợi thế cạnh tranh về giá cả và chất lượng trong khi các nước đang phát triển
như Việt Nam rơi vào bất lợi vì chi phí và chất lượng hàng hóa và dịch vụ,
chẳng hạn những sản phẩm hàm chứa nhiều lao động thơ, ít chất xám, ngun
vật liệu thơ, ít được tinh chế vì thế giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu
Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với giá trị gia tăng xuất khẩu của các nước
tiên tiến. Tình trạng này tạo ra sự chênh lệch lớn về lợi ích hoạt động thương
mại quốc tế trên toàn cầu. Các nước phát triển với số dân khoảng 1,2 tỷ
người, chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chiếm 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị
trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp nước ngoài và khống chế 75% đường
dây điện thoại thế giới. Trong khi đó các nước nghèo cũng chiếm 1/5 dân số
thế giới nhưng chỉ chiếm 1% mỗi mục trên. Toàn cầu hóa cịn làm cho sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. Sự chênh lệch thu nhập của 20% người
giàu nhất thế giới và 20% người nghèo nhất thế giới năm 1960 là 30/1, năm
1990 là 60/1, năm 1997 là 74/1, năm 2012 khoảng 79/1. Lượng của cải vật

chất loài người sản xuất ra tăng rất nhiều lần so với thế kỷ trước (riêng thế kỷ


15
XX, GDP trên toàn thế giới tăng khoảng 15 lần, cơng nghiệp tăng 35 lần)
nhưng số người nghèo đói khơng giảm. Kinh tế thế giới càng phát triển thì hố
sâu ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước trên phạm vi toàn
cầu ngày càng sâu hơn.
Hoạt động nhập khẩu gia tăng mạnh mẽ. Năm 1986, kim ngạch nhập
khẩu là 1.857,4 triệu USD; năm 1996 là 11.143,6 triệu USD, năm 2014 đạt
khoảng 148 tỷ USD.
Chịu sức ép cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp nước ngoài, dẫn đến nhiều
ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường (sắt
thép, dầu thực vật, các mặt hàng nông sản, các ngành dịch vụ… Tạo ra sức ép
cạnh tranh giữa các thành viên khi tham gia hội nhập, khiến nhiều doanh
nghiệp, ngành nghề có thể lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản.
Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường khu vực
và thế giới. Điều này khiến một quốc gia dễ bị sa lầy vào các cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu hay khu vực. Đồng thời các nước đang và kém phát
triển, trong đó có Việt Nam, phải đối mặt với nguy cơ trở thành “bãi rác”
công nghiệp của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm không gian điều chỉnh chính sách bị thu
hẹp, khoản thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm, nông dân bị tổn thương
từ những cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực nông nghiệp;
Hội nhập khơng phân phối cơng bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và
nhóm nước khác nhau trong xã hội. Do đó, dễ làm tăng khoảng cách giàu
nghèo, tụt hậu giữa các quốc gia hay tầng lớp dân cư trong xã hội.
Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết
chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật
chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO… Tự do hoá

thương mại và tự do hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị
họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các nước


16
đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự
cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp
tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về
tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, hàng hóa nước ngồi tràn ngập vào
nước ta với nhiều thương hiệu nổi tiếng từ dệt may (Zara, H&M...) cho đến ăn
uống (pizza Hut, KFC...) đã tác động đến tâm lý, thói quen sử dụng của người
dân. Một bộ phận người Việt chỉ thích dùng những hàng hóa có thương hiệu
nước ngồi với giá hàng trăm đến hàng nghìn đơ la. Nhưng chúng ta nghĩ sao
khi trong đó có những sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, sau một “vịng
ln hồi” khi mang thương hiệu nước ngồi đã quay trở lại nơi đã sản xuất và
bán với giá cao gấp nhiều lần. Càng đáng suy nghĩ hơn, tâm lý, sở thích dùng
hàng ngoại thái quá ấy của người tiêu dùng đã khiến cho nạn hàng giả phát
triển đáng lo ngại, gây thiệt hại cho biết bao người.
Cũng trong tiêu dùng, tháng 6-2018, khi dứa Việt Nam rất ế ẩm cho dù
có giá tại vườn chỉ là 1.000 - 3.000 đồng/quả, khiến người trồng thật lao đao,
thì dứa nhập từ Đài Loan lại có giá từ 150.000 - 200.000 đồng/kg và “cháy
hàng”. Rồi còn việc cứu lợn, cứu dưa hấu và rồi cứu vải...
Đáng chú ý, sính ngoại cịn thể hiện ở tâm lý bài nội. Có một điều rất
kỳ lạ xảy ra, đó là khi Việt Nam chưa có một hãng điện thoại, xe máy, ơtơ
thương hiệu thì nhiều người cho rằng người Việt kém cỏi, thâm chí cịn đổ lỗi
cho cơ chế, chính sách... nhưng khi có thì lại tỏ ra hồi nghi và chê bai. Điển
hình: Năm 2015, khi ông Nguyễn Tử Quảng - Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc
của Bkav giới thiệu mẫu điện thoại di động mang đậm dấu ấn Việt thì nó lại
được một số người mang ra so sánh với các mẫu điện thoại của Samsung,

Apple... với đủ từ ngữ chê bai và cùng với đó là những lời lẽ khơng thiện chí
được viết khắp các trang mạng.


17
Chẳng cần phân tích cũng thấy sính ngoại đang dẫn đến nhiều hệ lụy
tiêu cực. Ở góc độ tinh thần, văn hóa xã hội, nó tác động làm ảnh hưởng,
thậm chí phá vỡ các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc những “báu vật” hơn
bao giờ hết đang rất cần bảo tồn, gìn giữ, phát huy. Ở góc độ kinh tế, nó tác
động tiêu cực, kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển kinh tế của đất nước,
đồng thời cũng gây ra nhiều điều không mong muốn khác.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM HỊA NHẬP MÀ KHƠNG
HỊA TAN VÀO KINH TẾ THẾ GIỚI
Tồn cầu hố, hội nhập quốc tế vừa là thời cơ, đồng thời cũng là những
thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn mới mẻ, đối với vấn đề giữ gìn, bảo vệ,
phát huy và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống của mỗi quốc gia dân
tộc.
Sự tác động này là rất phức tạp, một mặt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho
các dân tộc hình thành và phát triển những giá trị văn hố mới. Góp phần
nâng cao trình độ tư duy khoa học của xã hội công nghiệp, thể hiện ở việc phổ
biến các giá trị văn hóa cơng nghệ, văn hóa thơng tin cùng các hoạt động và
loại hình văn hóa mới phục vụ cho việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân
dân và qua đó, góp phần làm giàu thêm, phong phú thêm các giá trị văn hoá
Việt Nam truyền thống. Mặt khác, nó chứa đựng nguy cơ phá vỡ hoặc làm
băng hoại những giá trị văn hoá truyền thống đã được tích tụ và tạo nên bản
sắc văn hố dân tộc.
Sính ngoại tạo điều kiện cho sự thâm nhập, chiếm lĩnh của các giá trị
nước ngoài vào trong nước, làm suy giảm các giá trị Việt, nảy sinh những rào
cản đối với nỗ lực xây dựng và phát triển đất nước. Mỗi sản phẩm do người
Việt tạo ra đều mang trong đó mồ hơi, cơng sức, trí tuệ, tâm huyết. Sính ngoại

đã “vơ tình” ngăn trở những nỗ lực, cố gắng, khát khao, cống hiến, phát triển
của cộng đồng các doanh nghiệp trong nước.


18
Từ đây, thực trạng đặt ra một vấn đề cấp thiết: Làm sao để Việt Nam
hịa nhập mà khơng hịa tan vào kinh tế thế giới?
Trong hoàn cảnh xã hội đối ngoại và đối nội như thế, đặt vấn đề hồ
nhập mà khơng hồ tan thì quả thật là một bài tốn vơ cùng khó của thời đại.
Thực tế đã cho thấy như vậy. Nói khơng hồ tan là đối với bản sắc văn hoá
dân tộc, nhưng bản sắc văn hố dân tộc là gì thì cho đến nay dễ gì rõ hẳn
được, chưa nói là với tồn dân mà ngay ở các nhà lãnh đạo. Nói khơng hồ
tan, khơng có nghĩa là chỉ giữ ngun xi những gì đã có mà khơng chấp nhận
sự đổi khác, đổi mới. Nhưng đổi khác đổi mới thế nào thì khơng hồ tan, mà
thế nào thì hồ tan. Đây cũng là vấn đề chưa cho ra đáp án. Bản thân em cũng
sẽ có những thiếu sót khi tìm hiểu vấn đề này, xin quý thầy cô xem xét những
giải pháp em đưa ra để từ đó chỉ bảo và bổ sung thêm để dần dần từng bước
có đáp án đích đáng.
3.1. Hãy thức tỉnh nhanh về sự áp đảo của văn hoá ngoại lai đối với
văn hoá dân tộc
Cùng với sự bùng nổ và phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học cơng nghệ tồn cầu, hội nhập quốc tế trở thành cơ hội cũng như thách
thức để thế hệ trẻ phát huy thế mạnh cá nhân trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã
hội. Việc tiếp cận mạng lưới thông tin khổng lồ, phủ sóng tồn cầu cùng
những ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến đã tạo ra sự thay đổi nhanh
chóng đến cộng đồng, xã hội, đặc biệt là bộ phận giới trẻ. Ngày nay, thế hệ trẻ
được trang bị đầy đủ những kỹ năng cần thiết nhằm phục vụ cho quá trình hội
nhập quốc tế. Bắt đầu từ việc rèn luyện ngoại ngữ, tin học để phục vụ cho
những nhu cầu về công việc và cuộc sống đến đào tạo chun mơn, kỹ thuật,
trình độ học vấn, giao thoa văn hóa quốc tế.

Mang lại thay đổi tích cực đến thế hệ trẻ, song hội nhập quốc tế cũng
giống như “con dao hai lưỡi”. Hệ thống mạng Internet cùng những tiện ích từ
mạng xã hội vốn là “người đồng hành lý tưởng” của giới trẻ, là kênh cung cấp


19
trao đổi thơng tin tồn cầu nhưng cũng chính điều này lại là môi trường thuận
lợi cho kẻ xấu, các thế lực thù địch lợi dụng phát tán những tin tức chưa qua
kiểm chứng, sai sự thật, thậm chí xuyên tạc, bịa đặt… gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cộng đồng và xã hội. Không chỉ vậy, việc tiếp xúc với mạng lưới
thơng tin dày đặc, đa dạng cũng góp phần thúc đẩy sự du nhập ồ ạt của văn
hóa, ngơn ngữ, phong tục, tập qn mang tính “quốc tế hóa”, gây ra nhiều tác
động “ngược” với giới trẻ. Bằng chứng là trong văn hóa giao tiếp của nhiều
thanh, thiếu niên, tình trạng pha trộn ngơn ngữ Anh- Việt đã trở thành “hot
trend” gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến văn hóa dân tộc. Em Nguyễn Hà My
(phường Thanh Miếu, thành phố Việt Trì) cho biết: “Em thường xuyên giao
tiếp đan xen ngôn ngữ Anh - Việt, đây được coi là ngôn ngữ dành riêng cho
giới trẻ. Lâu dần, việc sử dụng song ngữ đã trở thành thói quen, có những lúc
vơ tình qn một vài từ trong tiếng Việt nên em thay thế bằng tiếng Anh cho
thuận tiện”.
Thanh niên Việt Nam nói chung và tuổi trẻ Đất Tổ nói riêng là lực
lượng đơng đảo, giàu khát vọng, hồi bão, có nhu cầu, có khả năng tiếp thu
nhanh nhạy những thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại, năng
động sáng tạo, vì vậy, việc thanh niên hội nhập quốc tế là rất cần thiết. Tuy
nhiên, để thích nghi, hịa nhập với xu thế ấy, ngoài việc củng cố kỹ năng, bồi
dưỡng tri thức, mỗi cá nhân thanh, thiếu niên đều cần phải rèn luyện bản lĩnh
tư tưởng vững vàng, xác định đúng và đầy đủ vai trò, trách nhiệm của cá nhân
trong quá trình hội nhập quốc tế
3.2. Đầu tư nhiều hơn cho giáo dục văn hóa
Thực tiễn hoạt động văn hóa cũng cho thấy: càng ngày việc cân bằng

giữa bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển đất nước càng trở nên khó khăn.
Bên cạnh việc kiên trì với đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, các cấp quản lý văn hóa cũng cần phải đổi mới,
xây dựng những thiết chế văn hóa phù hợp với thời đại, những chính sách,


20
định hướng đúng đắn để xử lý hài hòa mối quan hệ tương tác giữa sức ép của
tồn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa và nhu cầu bảo tồn văn hóa dân tộc theo
hướng vừa tăng cường giao lưu vừa giữ được bản sắc sao cho văn hóa Việt
Nam tham gia vào văn hóa nhân loại như một bộ phận quan trọng và tồn tại
như một chỉnh thể độc lập, giàu bản sắc.
Một vấn đề cấp thiết để tăng cường sức mạnh nội lực là phải đầu tư
nhiều hơn cho giáo dục văn hóa, đặc biệt là đối với tầng lớp thanh thiếu niên
– những đối tượng đầu tiên tiếp thu nhanh nhất các trào lưu, làn sóng văn hóa.
Thơng qua các phương tiện thơng tin đại chúng, các sản phẩm văn hóa, nghệ
thuật..., các ngành chức năng cần nâng cao tính giáo dục, định hướng cho
thanh thiếu niên, giúp họ nâng cao về trình độ nhận thức chính trị tư tưởng,
rèn luyện để đủ bản lĩnh, biết chọn lọc, tiếp thu những giá trị tinh hoa của
nhân loại, gạt bỏ những yếu tố độc hại ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức,
lối sống của thanh niên. Đúng hơn là chúng ta tìm cách tạo cho giới trẻ sự
miễn nhiễm hay sức đề kháng trước những loại văn hóa phẩm xấu, độc hại để
tự giới trẻ biết suy nghĩ và hành động đúng. Có như vậy mới gìn giữ được bản
sắc văn hóa Việt, đồng thời vẫn tiếp thu được những tinh hoa của văn hóa thế
giới, thích ứng với sự phát triển của toàn cầu.
3.3. Sàng lọc và tiếp thu các giá trị văn hóa từ bên ngồi vào Việt Nam
Tồn cầu hóa kinh tế, thơng qua hợp tác quốc tế, chuyển giao cống
nghệ và các quá trình kinh doanh, quản lý, tổ chức, thơng qua tài trợ và đầu
tư, thương mại..., một vài thế lực đã và đang có mưu đồ sâu xa, thực hiện sự
tấn cơng vào chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức và tâm lý,... của đất nước ta.

Xuất hiện sự áp đặt vơ hình một số giá trị văn hóa ngoại lai vào đời
sống văn hóa Việt Nam. Xuất hiện và len lỏi phát triển vào văn hóa dân tộc
những “giá trị” văn hóa theo khuynh hướng xã hội cơng nghiệp hiện đại và
mặt trái của kinh tế thị trường như chủ nghĩa thực dụng kinh tế, lối sống tiêu
thụ, hưởng thụ, khát vọng tiền tài, tư tưởng kỹ trị và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân


×