Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tín ngưỡng phồn thực của người chăm cơ sở văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN

TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC CỦA NGƯỜI CHĂM

Học Phần : Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam
Giảng Viên Hướng Dẫn : Huỳnh Chi
Sinh Viên Thực Hiện : Võ Hoàng Em
MSSV: 2006216010
LỚP : B20TV

NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN

TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC CỦA NGƯỜI CHĂM

Năm 2021


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài

Qua hàng ngàn năm lịch sử , bản sắc văn hóa của dân tộc Chăm không chỉ mang
những nét đặc sắc mà cịn góp phần tạo nên bức tranh đẹp đẽ đậm văn hóa đất Việt.
Nói đến văn hóa Chăm chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những các cơng trình kiến trúc cổ
xưa như là Tháp Chăm , Các quần thể kiến trúc… hay là những bức tượng điêu khắc ,
tôn giáo của người Chăm và những điệu nhảy múa vô cùng duyên dáng cảm xúc được
truyền qua bao đời mà trong đó cịn là những lớp giá trị văn hóa dân gian . Trong các
giá trị ấy thì tín ngưỡng phồn thực của người Chăm vô cùng đa dạng cũng như có
nhiều khía cạnh mà cịn dần đi sâu vào đời sống cộng đồng theo thời gian , tín ngưỡng
phồn thực của người Chăm cịn được biểu hiện qua nhiều hình thức như là lễ hội ,
phong tục , kiến trúc , điêu khắc , tôn giáo . bản thân là một sinh viên thuộc ngành
Văn hóa nên tơi cảm thấy khai thác những vấn đề nghiên cứu này rất thú vị và giúp
cho tơi có thêm nhiều kiến thức ,vì vậy tơi chọn đề tài : “ Tín ngưỡng phồn thực của
người Chăm ”.
2. Mục đích của đề tài


Làm rõ những vấn đề như là khái niệm , nguồn gốc , biểu hiện cũng như những đặc
điểm trong tín ngưỡng phồn thực của người Chăm.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tín ngưỡng phồn thực của người Chăm.
4. Phương pháp nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu của đề tài thông qua những tư liệu như sách , báo ,
internet…
5. Bố cục

Ngoài Phần mở đầu , kết luận hay tài liệu tham khảo chúng tơi cịn có 2 chương :

Chương 1 : Nguồn gốc và khái niệm Tín ngưỡng phồn thực.
Chương 2 : Biểu hiện của Tín ngưỡng phồn thực trong văn hóa Chăm.

CHƯƠNG I : NGUỒN GỐC VÀ KHÁI NIỆM TÍN NGƯỠNG
PHỒN THỰC

1.1 Nguồn gốc tín ngưỡng phồn thực.
Người Việt Nam thời xưa luôn sống theo gốc nông nghiệp nên rất chú trọng vào việc
làm nông hay là chăn ni nhưng từ thời xa xưa thì điều kiện lao động vơ cùng khó
khăn và cực nhọc , cây trồng hay chăn ni đều trong tình trạng bấp bênh , năng suất
thấp và đời sống thì khơng được ổn định , bị mất mùa và nạn dịch gia súc hồnh hành
tình trạng “ Hữu sinh vơ dưỡng ” ( có sinh con ra mà khơng ni dưỡng được ) thì
ln trong tình trạng nghiêm trọng. Để mong được dân đơng và vật chất được thịnh
thì sự cố gắng của con người là chưa đủ mà cịn phải có sự cộng cảm của thần linh , từ
đó họ xây dựng nên tín ngưỡng phồn thực . Tín ngưỡng phồn thực tồn tại suốt chiều


dài lịch sử được thể hiện ở hai dạng là : Cơ quan sinh dục của nam lẫn nữ và thờ cúng
hành vi giao phối.
1.2 Khái niệm tín ngưỡng phồn thực.
Cũng như nhiều lĩnh vực văn hóa khác thì tín ngưỡng phồn thực cũng được rất nhiều
nhà khoa học nghiên cứu nên hiện nay thì tín ngưỡng phồn thực cũng có rất nhiều
khái niệm về nó :
Theo GS Trần Ngọc Thêm trong cơng trình “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” thì
“Tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng cầu mong cho sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên
và con người” [3, tr.234]
Và theo tác giả Hồ Thị Hồng Lĩnh thì tín ngưỡng phồn thực được hiểu như sau:
“Người ta cầu mùa màng tươi tốt để duy trì cuộc sống và con người cần phải sinh sôi
nảy nở để tồn tại và phát triển, từ đó phát sinh cái gọi là tín ngưỡng phồn thực: Tín
ngưỡng là niềm tin; phồn là nhiều; thực là nảy nở. Như vậy tín ngưỡng phồn thực là

niềm tin vào sự này nở ra nhiều vật”.
Qua những khái niệm trên của một số nhà nghiên cứu khoa học thì chúng ta có thể
thấy tuy có nhiều khái niệm nhưng quy lại thì nó chỉ có một điểm chung đó là về sự
sinh sơi , nảy nở từ những ý trên chúng ta có thể đút kết ra rằng : Tín ngưỡng phồn
thực là một hình thức tín ngưỡng dân gian thể hiện ước vọng của người dân về sự sinh
sôi nảy nở của tự nhiên và con người, về cuộc sống ấm no, đầy đủ. Nó được thể hiện
dưới các hình thức mang tính phô diễn dưới dạng âm dương, đực cái.


( Ảnh: Tượng nhà mồ ở Bắc Tây Nguyên.)
(Nguồn : />
CHƯƠNG II : BIỂU HIỆN CỦA TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC
TRONG VĂN HĨA CHĂM

2.1 Thờ sinh thực khí
Việc thờ sinh thực khí khơng cịn xa lạ gì đối với những đất nước gốc nông nghiệp lúa
nước như là các nước Đông Nam Á, việc thờ sinh thực khí khơng những rất phổ biến
mà nó cịn được xem là biểu tượng năng lượng thiêng sinh ra mn lồi. Đối với
người dân làm nơng thì họ quan niệm việc thờ sinh khí sẽ mang lại cho họ sự sinh sôi
nảy nở , mùa màng bội thu , vật chất thì ln đầy ắp , cây cối sẽ ln tươi tốt , sinh
thực khí cịn biểu hiện thơng qua những biểu tượng như là Linga , Yoni, Nõ Nường,
Chày Cối.
Trong văn hóa Chăm, hai biểu tượng Linga và Yoni xuất hiện phổ biến nhất , có rất
nhiều loại và hình dáng mang nét đặc trưng khác nhau , theo quan niệm của người
Chăm linga và yoni chính là biểu hiện hai mặt âm dương của vũ trụ thể hiện sự sinh
tồn của loài người, là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo, ngoài ra văn hóa Chăm cịn chịu
sự ảnh hưởng rất nhiều từ văn hóa Ấn Độ cho nên Linga của người Chăm mang đậm
màu sắc của Linga Ấn Độ , vì vậy Linga còn mang ý nghĩa của cây cột chống đỡ vũ



trụ , là ngọn núi thần thoại Meru nơi các vị thần cư ngụ. Đồng thời linga còn là biểu
tượng cho sự vĩnh cửu của các triều đại là sức mạnh, uy lực tổng hợp của vương
quyền và thần quyền.
Theo nghiên cứu hiện nay thì Linga có 3 loại chính :
- Loại linga thứ 1 là loại linga đơn giản nhất chỉ có một thành phần hình trụ trịn, có
khi gặp dựng thành hàng cả hàng chục cái. Loại này mang đậm nét tính cách bản địa
Chăm.

( Ảnh: Linga được trưng bày tại bảo tàng Lâm Đồng )
( Nguồn : )
- Loại linga thứ 2 là có cấu tạo hai phần. Phần trên vẫn hình trụ; phần dưới là một vật
thể to tròn - ta gọi là biến thể 2A hoặc vuông - ta gọi là biến thể 2B. Loại linga hai
phần này khơng chỉ có chất dương tính của tính cách bản địa Chăm mà cịn có cả chất


âm tính; nó là một tổng thể âm dương hài hòa - dấu ấn rất rõ ràng của truyền thống
văn hóa nơng nghiệp khu vực.

( Ảnh :
Tượng
Linga-Yony bằng đồng tìm thấy tại tháp Bánh Ít (Tuy Phước), hiện đang trưng bày tại
Bảo tàng Guimét - Paris (Pháp). )
( Nguồn : )
- Loại linga thứ 3 có cấu tạo ba phần. Ngồi phần hình trụ trịn ở trên và phần hình
vng ở dưới, loại linga này cịn có một đoạn hình bát giác ở giữa. Một biến thể của
loại này có dạng 4 phần về hình thức nhưng về cấu trúc cũng chỉ có 3 mà thơi.


(Ảnh : Linga trưng bày tại bảo tàng điêu khắc Chămpa)
(Nguồn: />9105/ )

Ngồi các linga thơng thường, trong đền tháp Chăm cịn có thể gặp loại linga hình mặt
người (gọi là mukhalinga). Đó là một khối tượng hình linga đặt trên một yoni mà nửa
phần trước tạc tượng hình vua Chăm. Sự đồng nhất “Siva (thần Ấn Độ) = Linga (tín
ngưỡng phồn thực khu vực) = Vua (lãnh tụ dân tộc Chăm)” trong mukhalinga khiến
cho sự hòa quyện ba yếu tố bản địa - khu vực - Ấn Độ trên cơ sở tính cách bản địa
dương tính đã đạt đến mức nhuần nhuyễn.

(Ảnh : Mukhalinga tại bảo tàng ở Mỹ Sơn)
( Nguồn : )
Khơng chỉ có linga mà biểu tượng yoni trong tín ngưỡng phồn thực của người Chăm
cũng rất đa dạng từ khối hình vng, hình khối trịn và có cả khối hình chữ nhật
nhưng loại này thì ít hơn.
Trong điêu khắc Chăm thì Linga và Yoni thường đi chung với nhau là phổ biến nhất,
đa số trên bệ yoni thường có một linga ở trên , chúng tạo thành một khối thống nhất


tạo ra sự kết hợp hài hòa âm dương làm cho mọi sinh vật nảy nở , cây cối tốt tươi ,
mùa màng bội thu, các điêu khắc này chúng ta có thể thấy rõ ở những tháp Chăm như
tháp bà Ponagar hay ở Thánh Địa Mỹ Sơn…
Qua những ý trên chúng ta có thể thấy tín ngưỡng phồn thực của người Chăm gắn liền
với tôn giáo , mang đậm tính tơn giáo trong đời sống văn hóa của người Chăm , riêng
tín ngưỡng phồn thực của người Chăm nó mang những nét đặc sắc và riêng biệt vì
khơng chỉ đơn thuần mang tính bản địa mà nó cịn là sự giao lưu văn hóa của Ấn Độ
vì thế Linga và Yoni của người Chăm rất độc đáo so với các dân tộc khác.
2.2 Biểu hiện thơng qua Kiến Trúc.
Nói đến văn hóa Chăm khơng thể khơng nói tới các tháp Chăm.Thống kê cho biết
hiện còn 19 khu tháp với 40 kiến trúc lớn nhỏ. Số lượng các phế tháp do bom đạn tàn
phá và hủy diệt là chưa thể xác định được. Theo khảo sát và thống kê của
H.Parmentier vào năm 1904-1909, riêng lòng chảo Mỹ Sơn (Quang Nam) đã có tới
trên 70 kiến trúc.

Từ ngàn xưa tới nay đền tháp ln đóng vai trị quan trọng trong tâm thức và đời sống
văn hóa của cư dân Chăm. Nó khơng chỉ là nơi thờ tự tơn giáo mà cịn mang ý nghĩa
tâm linh, là nơi gửi gắm những ước vọng của người dân qua niềm tin tín ngưỡng - đặc
biệt là tín ngưỡng phồn thực. Do tháp Chăm xây dựng qua từng thời kỳ khác nhau nên
về mặt thẩm mĩ hay cấu trúc đều qua từng thời đại mà tính đến quy mơ và số lượng
tháp, tuy rằng tháp Chăm ở mỗi thời kì khác nhau nhưng đều có chung những đặc
điểm giống nhau , đặc biệt là sự thể hiện tín ngưỡng phồn thực rất rõ nét .
Các tháp chính được xây dựng theo dạng hình núi ngồi ý nghĩa tượng trưng cho ngọn
núi Meru - trung tâm vũ trụ nơi ngự trị của các vị thần trong thần thoại Ấn Độ thì cịn
là biểu tượng của linga (dương) và bệ tháp hình vng biểu tượng của yoni (âm).


(Ảnh : Tháp Chăm Poklongarai)
( Nguồn : )
Chúng ta có thể thấy rằng cấu trúc của tháp đã chứa đựng một triết lý thâm sâu. Nền
và móng tháp là hình khối vng, biểu thị cho sự vững chãi, tịnh tại, ổn định (thuộc
âm) và linga được đặt trên nóc tháp (thuộc dương) tạo nên sự giao hòa âm dương
trong sự xoay vần vũ trụ làm cho sự sống được tái sinh.
Và chúng ta thấy rằng toàn bộ kiến trúc đền tháp Chăm từ Mỹ Sơn đến Ninh Thuận
đều khoác lên mình vẻ phồn thực. Ví như tháp Chăm thường có 3 tầng, bởi với người
Chăm con số 3 là con số phát triển, may mắn. Vì thế, cụm tháp Chăm cũng thường có
3 tháp như tháp Po Klong Garai có tháp cổng, tháp lửa và tháp chính. Kiến trúc tháp
luôn mang yếu tố nước và lửa. Tháp cổng là nơi rước nước tắm tượng Linga – Yoni,
trong khi đó tháp lửa là nơi cất giữ ngọn lửa thiêng.
Như vậy tín ngưỡng phồn thực thể hiện ước vọng vạn vật được sinh sôi nảy nở, cuộc
sống hạnh phúc, no đủ của cư dân được gửi gắm trong kiến trúc Chăm mà đặc biệt là
hệ thống đền tháp rất rõ.
2.3 Biểu hiện thông qua Lễ Hội.
Lễ hội là một trong những nơi lưu giữ được những nét đẹp và các giá trị văn hóa tốt
đẹp thơng qua các biểu hiện như là tơn giáo, tín ngưỡng , sinh hoạt cộng đồng…, đối

với dân tộc Chăm thì các lễ hội của họ vô cùng đa dạng phong phú và mang nhiều ý
nghĩa khác nhau được truyền từ thời đại này qua thời đại khác , đặc biệt trong các lễ
hội của người Chăm cũng thể hiện rõ nét tín ngưỡng phồn thực trong các lễ hội của họ
, Theo nhà văn Trương Văn Món ( Sakaya ) : Tín ngưỡng phồn thực hay nói một cách
khác là tư tưởng lưỡng hợp hay triết lý âm dương trong lễ hội Chăm được biểu hiện
sâu sắc trên nhiều bình diễn. Trong văn hóa Chăm có những lễ hội tiêu biểu mang
đậm nét tín ngưỡng phồn thực như là :


- Lễ Hội Kate

(Ảnh : Lễ hội Katê 2018 trên tháp Pô Sah Inư Phan Thiết)
( Nguồn : )
Lễ hội Kate được xem như là tết của người Chăm Balamon được tổ chức hằng năm
vào ngày 1.7 Chăm lịch ( thường vào cuối tháng 9 đầu tháng 10 dương lịch).Đây là lễ
hội lớn kéo dài trong 3 ngày với nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ truyền thống của
người Chăm.
Ở Ninh Thuận, lễ hội Katê được tổ chức cùng giờ, cùng ngày tại ba nơi là tháp Pô
Kluang Giarai, tháp Pô Rame và đền Pô Inư Nưgar theo tuần tự các bước từ lễ rước y
phục, lễ mở cửa tháp, lễ mộc dục, lễ mặc y phục, đại lễ và hội. Và trong q trình diễn
ra lễ hội có một số yếu tố chứa đựng triết lý phồn thực của người Chăm như lễ tắm
tượng, các lễ vật cúng thần…
Lễ tắm tượng diễn ra sau lễ mở của tháp , đây là một nghi lễ linh thiêng nên chỉ có
một số người được chọn để thực hiện nghi lễ bên trong tháp. Khi tắm thầy Kanhi hát
“Chúng con mang nước này từ con sông hằng về gội đầu, rửa chân rửa tay cho thần.
Chúng con xin lấy những tấm khăn đẹp nhất mà chúng con dệt để đem lau mồ hôi cho


thần” , đặc biệt là những người tham gia thực hiện nghi lễ sẽ lấy nước tắm cho Linga
và Yoni để bôi lên đầu và khắp cơ thể để mong làm ăn suôn sẻ hay mong được ban tài

lộc, mạnh khỏe , sự hạnh phúc , qua nghi lễ tắm tượng cho thần chúng ta cũng có thể
thấy đây là biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực.
Về lễ vật dâng cúng thần linh thì cũng mang triết lý âm - dương, một biểu hiện của tín
ngưỡng phồn thực . Lễ vật dâng cúng trong lễ hội Katê tại đền tháp bao gồm: một con
dê (dê tương trưng cho dương); ba con gà (gà tượng trưng cho âm); năm mâm cơm,
canh với thịt dê; một mâm cơm với muối vừng; ba ổ bánh gạo và hoa quả; ngồi ra
cịn có rượu, trứng, trầu cau, xôi chè. Qua những đồ vật trên chúng ta đều có thể thấy
rõ những đồ vật mang yếu tố dương và âm , trong những đồ vật hiến tế trong nghi lễ
thì dê là một vật rất quan trọng vì nó được xem là con vật q của người Chăm nên
dê sẽ được giết trong nghi lễ thực hiện hiến tế , vì vậy nên người Chăm rất ít giết dê
tại gia đình và tuyệt đối khơng để máu dê rơi ra sàn nhà ) , ngoài những đồ vật hiến tế
như trên thì người Chăm cũng có thể hiến tế những đồ vật nhỏ hơn như là muối , vừng
, bánh gạo… nhằm mong thần linh phù hộ và ban cho họ được cuộc sống ổn định , tài
lộc hay hạnh phúc …
Như vậy lễ hội Kate là một lễ hội lớn của người Chăm , tuy được xem như là tết cổ
truyền của người Chăm Balamon nhưng lễ hội này cũng mang tính chất của một lễ hội
nơng nghiệp thơng qua những hình thức như là cầu mưa , tắm tượng cho thần , dâng
vật cúng và mang theo những ý niệm của tín ngưỡng phồn thực như cầu mong cho
con người sinh sôi nảy nở , cầu cho có được cuộc sống hạnh phúc , mùa màng bội thu.
- Lễ hội Rija Nưgar


(Ảnh : Lễ hội Rija Nưgar ở Ninh Thuận)
( Nguồn : )
Nếu như lễ hội Kate được xem là lễ hội lớn nhất của dân tộc Chăm thì lễ hội mang
yếu tố phồn thực rõ nét nhất phải kể tới lễ hội Rija Nưgar. Đây là lễ hội chuyển mùa
của người Chăm khi tiếng sấm vang báo hiệu thời khắc chuyển mùa của đất trời , lễ
hội được tổ chức vào tháng 4 hoặc đầu tháng 5 dương lịch. Lễ hội Rija Nưgar là lễ hội
đầu năm mới , tiễn đi năm cũ , nhưng tuy là lễ hội chuyển mùa nhưng mà lễ hội vẫn
mang tính chất lễ nơng nghiệp vì ở trong lễ hội có một số nghi thức như là cầu mưa ,

cầu cho mưa thuận gió hịa , mùa màng tốt tươi. Đây là lễ hội mang những nét nguyên
sơ nhất của văn hóa Chăm với những tín ngưỡng dân gian đặc biệt là tín ngưỡng phồn
thực. Tín ngưỡng này biểu hiện ngay qua các khâu tổ chức như thời gian diễn ra lễ hội
,các lễ vật và các điệu múa phồn thực được phô diễn.
Lễ hội Rija Nưgar là lễ hội của cả người Chăm Balamon và Chăm Bani được diễn ra
trong hai ngày nhưng Chăm Bàlamôn tổ chức vào thứ 4, thứ 5 (bởi theo quan niệm
của người Chăm Balamôn thứ 4 là ngày đẹp nhất trong tuần nên những việc tốt như
hiếu, hỉ đều tổ chức vào thứ 4) còn Chăm Bàni tổ chức vào thứ 5, thứ 6 trong tuần.
Trong hai ngày tổ chức lễ hội thì trong thời gian diễn ra thì có “ ngày vào ngày ra ”
ngày cúng là buổi chiều ( âm ) còn buổi sáng là ( dương ) như vậy qua cái thời gian tổ
chức chúng ta có thể thấy rõ triết lý âm dương trong tín ngưỡng phồn thực ở trong lễ
hội.
Cũng như lễ hội Katê, vật cúng không thể thiếu dê, gà, cơm canh, trầu cau và ngoài ra
bắt buộc trên bàn lễ cịn phải có lửa và nước, đây cũng là hình thái mang biểu tượng
âm dương. Và theo thời gian tổ chức có quy định ngày vào, ngày ra nên các lễ vật
cúng tế cũng được thực hiện theo biểu tượng âm dương. Đó là ngày đầu cúng gà
tượng trưng cho âm và ngày hôm sau cúng dê, tượng trưng cho dương. Khi cúng dê
người ta cũng phân chia thành hai phần để cúng, phần đầu, hai chân trước và tim phổi
được sắp trên mâm cao - tượng trưng cho trời (dương), phần sau từ rốn dê trở đi gồm
hai chân sau và đuôi dê đặt trên mâm thấp - tượng trưng cho đất (âm). Qua cách sắp
xếp như trên thì người Chăm họ mong âm dương hòa hợp , vạn vật sinh sơi . Vào
ngày thứ hai thì trong lễ hội cịn có cả hình nhân thế mạng được làm từ bột gạo mang


đậm chất tín ngưỡng phồn thực , trong q trình thực hiện bao gồm 4 hình nhân (hai
đàn bà, hai đàn ông), trâu hai con (một đực, một cái), gà, heo, chuột, rắn cũng đều một
đực một cái, ngoài ra còn nặn thêm chày cối - cũng là biểu tượng của âm dương,
tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ. Như vậy từ việc phân lễ cúng cho phù hợp
với quan niệm “ngày vào ngày ra” cùng với các lễ vật “hình nhân thế mạng” đều phản
ánh tín ngưỡng phồn thực rõ nét của cộng đồng người Chăm để cầu sức khỏe, mùa vụ

bội thu và tống tiễn tai ương, bệnh tật.
Và có lẽ điều đặc biệt nhất trong lễ hội Rija Nưgar của làng Chăm Bỉnh Nghĩa so với
các làng Chăm khác là có múa phồn thực, nó diễn ra sau màn hát đối đáp. Để thực
hiện điệu múa này thì dân làng đã chọn ra một người đàn ơng cường tráng và bà bóng
đứng ra đảm nhiệm. Sau khi mặc các y phục váy, áo, khăn trùm đầu, người đàn ông
cầm ba cây dương vật làm bằng gỗ dài khoảng 25cm có phần đầu đẽo nhọn được tô
màu đen, bước ra múa và nhún nhảy họa theo các động tác chốn phòng the trong tiếng
đàn Rabap và tiếng hát ca ngợi công ơn nữ thần Pô Inư Nưgar được thầy Kadhair thực
hiện. Sau đó người đàn ơng chuyển ba cây dương vật cho bà bóng rồi tiếp tục múa và
cuối cùng làm lễ tẩy uế ba cây dương vật trên cái tra đặt những “hình nhân thế mạng”.
Sau đó dân làng tiễn đưa ba cây dương vật cùng “hình nhân thế mạng” ra ngã ba
đường làng hoặc thả trôi sông và kết thúc lễ hội.

(Ảnh : Người đàn ông và người phụ nữ đang phô diễn những điệu múa phồn thực)
( Nguồn : )


Lễ hội Rija Nưgar khép lại, người Chăm hy vọng đã tống tiễn đi những tai ương, điều
xui xẻo để đón nhận những điều may mắn, hạnh phúc hơn. Và có thể nói rằng Rija
Nưgar là đại lễ hội của người Chăm, nó chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, tín ngưỡng
dân gian mà đặc biệt là tín ngưỡng phồn thực. Điều này được phản ánh chân thực, rõ
nét qua việc lựa chọn thời gian, lễ vật cúng tế, trong lời những màn hát đối đáp, những
điệu múa phồn thực… nhằm gửi lời thỉnh cầu tới thần linh ban cho sức khỏe, mưa
thuận gió hịa, vạn vật nảy nở sinh sôi.
2.4 Biểu hiện thông qua một số Phong tục.
- Tục thờ đá : Tục thờ đá, một hình thức tín ngưỡng sơ khai, xuất hiện từ rất sớm trên
thế giới. Với quan niệm vạn vật hữu linh, nhiều người tin rằng mọi vật đều có linh
hồn. Vì vậy, có tín ngưỡng thờ đá và cây, và người Chăm cũng không ngoại lệ. Việc
thờ cúng đá có liên quan đến niềm tin về khả năng sinh sản được tạo ra thông qua việc
tôn thờ năng lượng cuộc sống thực. Đầu tiên là loại đá liên quan đến linga, yoni. Cặp

Linga và Yoni này được làm bằng đá sa thạch, có thể thấy tín ngưỡng thờ đá của
người Chăm đã ra đời từ rất sớm. Khơng chỉ vậy, tục thờ đá cịn được thấy ở các ngôi
chùa như Bao Kluang Gia Lai, Bao Lamei, hay các tượng thần cũng được làm bằng
đá. Và những lời chúc. Để thỏa mãn những mong muốn này, họ ln có những hành
động ma thuật, chẳng hạn như tưới linga yoni lên tượng nữ thần. Do đó những nghi lễ
đối với đá luôn được người Chăm coi trọng. Và tín ngưỡng thờ đá ln hướng tới cái
đích phồn thực tồn tại lâu dài trong niềm tin của cư dân Chăm, cầu mong cho gia đình
mạnh khỏe, xóm làng bình an, mùa màng tốt tươi.
- Trong các nghi lễ cưới hỏi : Trong nghi lễ cưới hỏi của dân tộc Chăm có rất nhiều
dấu ấn thể hiện tín ngưỡng phồn thực nhằm cầu mong vợ chồng sớm sinh con đàn
cháu đống, hạnh phúc, an yên, làm ăn gặp nhiều may mắn như lễ vật hỏi cưới và một
số phong tục trong lễ cúng trình tổ tiên, lễ nhập phòng the…


( Ảnh : nghi thức cưới hỏi của người Chăm ở Ninh Thuận)
( Nguồn : )
Cưới xin là việc trọng đại trong cuộc đời mỗi người và khi ngày lành tháng tốt được
ấn định nhà cô dâu sẽ mang lễ vật sang nhà chú rể hỏi cưới. Và lễ vật bắt buộc phải có
là hai loại bánh. Một là bánh Sakaya, tượng trưng cho trời (dương) và một bánh giống
như bàn tay người lớn, tượng trưng cho âm. Loại bánh thứ hai không thể thiếu là bánh
tét. Người ta gói một loại bánh tét hình linga, một loại hình chữ nhật tượng trưng cho
yoni. Tất cả đều thể hiện mong muốn cho đôi vợ chồng hạnh phúc, cuộc sống sung túc
đủ đầy.
Hay như trong lễ cúng gia tiên (khan prauk), mâm cúng thần linh, tổ tiên nhà gái gồm
có một miếng trầu, một cổ, một nải chuối ngược và một đĩa hương, một chai dầu dừa,
và một chai rượu. Một ống nhổ, một bộ ấm trà và một cái gạt tàn có đốt hai điếu thuốc
trên đó. Tất cả các lễ vật được đặt trên một chiếc chiếu theo phong tục Chăm (chiew
bang). Bên trái là hai đệm và hai gối. Vì vậy, tất cả các lễ vật đều có ngũ hành vàng,
thủy, mộc, thổ, hỏa, cùng cách bày trí, bày biện lễ vật đều thể hiện tín ngưỡng phồn
thực của văn hóa Chăm. Ở giữa phịng, người ta bày một khay trầu hình trụ, một ống

nhổ và một chén nước bằng đồng. Ngọn nến được thắp lên và gắn vào khay đựng trầu.
Khi mọi người đã tề tựu đơng đủ ở phịng khách, chú rể nắm tay phải chú rể (Yang), đi
thẳng vào phịng cơ dâu, cho nhà gái nhưng khơng được vào phịng ngủ. Người đàn
ơng của chú rể nắm lấy tay chú rể từ tay của người đàn ơng bằng tay trái của mình
(âm) và dẫn vào phịng ngủ. Khi cơ dâu chú rể đặt đệm xuống giường phải gập hai
đệm lại với nhau . Đồng thời, trong đám cưới, cô dâu chọn một lá trầu to và đẹp nhất,
xé làm đôi, trộn với vôi sống (trầu bà âm) rồi trao cho chú rể. Chàng rể chọn cắt đôi
miếng trầu (miếng trầu cau) đưa cho cô dâu. Cô dâu chú rể trao trầu cho nhau trong
ngày cưới để đảm bảo rằng đôi vợ chồng mới cưới luôn trung thành với nhau và kề
vai sát cánh trong tình yêu.


Vì vậy, trong nghi lễ cưới hỏi truyền thống của người Chăm, để cầu mong cho đôi tân
hôn chung sống hịa thuận, đơng con, no đủ, họ thể hiện rõ tín ngưỡng sinh con đẻ
cái.rên lộn ngược (mặt trái lên trên).

PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy thông qua những khái niệm , nguồn gốc hay những đặc trưng văn hóa tín
ngưỡng phồn thực của người Chăm , chúng ta có thể thấy các giá trị dân gian trong tín
ngưỡng của người Chăm , nó chảy qua ngàn năm lịch sử tạo nên một nền văn hóa lớn
và đặc sắc đầy huyền bí , độc đáo với những nét riêng biệt so với các dân tộc khác .
Đồng thời tô vẽ lên bức tranh văn hóa của người Việt Nam đa dạng hơn.
Đút kết lại thông qua bài luận tôi muốn đem đến cho các độc giả những nét văn hóa
của người Chăm , cũng như những giá trị thông qua các lễ hội , kiến trúc , điêu khắc…
trong quá trình thực hiện tiểu luận còn nhiều sơ xuất nên mong các bạn sẽ thông cảm.

* Tài liệu tham khảo
[1] Huỳnh Chi, Bùi Thị Kiều Trang (2018). Tập Bài Giảng Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam,
Trường Đại học Kiên Giang (Lưu hành nội bộ).
[2] Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ


Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Ngơ

Đức Thịnh (2016), Tín ngưỡng của các dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.
[4] Chu

Quang Trứ (1996), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tơn giáo

ở Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
[5] />[6] />

[7] />
Phan-Thiet.htm
[8] />
cua-nguoi-champa.html
[9] />
nguoi-Cham



×