Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Văn học và y học nhìn từ mối quan hệ liên ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.41 KB, 9 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

VĂN HỌC VÀ Y HỌC NHÌN TỪ MỐI QUAN HỆ LIÊN NGÀNH
NGUYỄN HỮU MINH
Học viên Cao học, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Email:
Tóm tắt: Văn học và y học vốn có mối quan hệ gắn bó lâu dài và hết sức gần gũi
trong đời sống nhân loại. Cùng lấy con người làm đối tượng tiếp cận và đều được
nhìn nhận như những ngành nghệ thuật, văn học và y học trên tiến trình hình thành
và phát triển đã không ngừng khám phá và tái khám phá con người từ nhiều nhân
dạng, góc độ khác nhau. Đó vừa là điểm tương đồng, vừa là điểm dị biệt giữa văn
học và y học nhìn từ bản chất đối tượng.
Từ khóa: Y học, văn học, thân thể, con người.

1. MỞ ĐẦU
Thế kỷ XIX với sự xuất hiện của John Charles Bucknill (1817-1897) và Sigmund Freud
(1856-1939) được công nhận là khởi điểm cho việc nghiên cứu một cách nghiêm túc về mối quan
hệ giữa văn học và y học. Chính Bucknill và Freud được xem là hai trong số những nhà y học
đầu tiên sử dụng văn học để tạo nên bước đột phá mới trong lịch sử y học. Thông qua việc nghiên
cứu những tác phẩm của Shakespeare nhằm khám phá những ý tưởng mới về bệnh lý tâm thần
của Bucknill và sự ra đời Phân tâm học của Freud là những trường hợp tiêu biểu và cụ thể minh
chứng cho mối quan hệ giữa y học và văn học. Đặc biệt, từ khoảng nửa sau thế kỷ XX, nhiều đề
tài nghiên cứu, hội thảo quốc tế lớn trên thế giới chuyên sâu khám phá các vấn đề liên ngành giữa
văn học và y học từ các bình diện cụ thể như: Hội thảo của Trung tâm văn hóa Quốc tế Cerisy ở
Pháp diễn ra từ ngày 13/7 - 20/7/1994 với chủ đề: “Le corps souffrant entre Médecine et
Littérature”1; hay một hội thảo quốc tế khác về chủ đề văn học và y học được tổ chức tại trường
Đại học Bouass Alassane Quattara, Bouaké, Bờ Biển Ngà2 từ ngày 05 - 06/6/2018. Bên cạnh đó,
một số tạp chí y học uy tín được xuất bản hằng năm chuyên nghiên cứu, lý giải những vấn đề y
khoa từ các trường hợp văn học, cũng như giải quyết mối quan hệ giữa văn học với việc chữa


bệnh trong thực tiễn hiện đại như: tạp chí Medical History (Đại học Cambridge - Hoa Kỳ), tạp
chí Lancet (Hoa Kỳ) hay tạp chí Literature and Medicine (Đại học Johns Hpkins - Hoa Kỳ),...
Ngoài ra, nhiều tờ báo, tạp chí chuyên về lĩnh vực văn học - y học cịn xuất bản hoặc có những
chun mục dành riêng cho các tác phẩm về thể loại tiểu thuyết, phi hư cấu và thơ tập trung vào
những chủ đề như cơ thể con người, bệnh tật, sức khỏe và chữa bệnh) như: Tạp chí Văn học
Bellevue (Trung tâm y tế NYU Langone Health - Hoa Kỳ), Tạp chí Literary and Fine Arts (Trung
tâm Y tế Irving thuộc Đại học Columbia),… Có thể thấy, sự nở rộ về việc nghiên cứu liên ngành
y học – văn học trong thế kỷ trước cũng như hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI phần nào giúp chúng ta
nhận diện được tầm quan trọng của những vấn đề y học đặt ra trong các tác phẩm văn chương và
ngược lại.
2. NỘI DUNG
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa văn học và y học
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu của văn học và y học
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, văn học và y học vốn được xem là hai ngành có
mối quan hệ tương hỗ lâu dài, giữa chúng có những làn ranh giao thoa tương tự như hiện tượng
Nguồn: Tạm dịch: Thân thể đau khổ giữa Y học và Văn học.
Nguồn: />erature-et-medecine_81837.php.
1
2

47


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

văn - sử - triết bất phân. Cùng lấy con người làm đối tượng trung tâm để tiếp cận, cả văn học
lẫn y học đều có mục đích chung nhằm khám phá, thấu hiểu con người trên mọi phương diện,
từ đó hướng con người vươn đến một đời sống khỏe mạnh, tốt đẹp. Nếu như mục tiêu và đối

tượng của văn học thiên về đời sống tinh thần thì mục tiêu và đối tượng của y học thiên về đời
sống thể xác. Việc tiếp nhận một tác phẩm văn chương hay, giàu giá trị nhận thức và thẩm mỹ
được ví như hành động uống những viên thuốc bổ giúp bồi dưỡng trí tuệ và tâm hồn con người.
Trong thực tế, lịch sử văn chương thế giới đã chứng mình có vơ vàn áng văn vang danh Đông
Tây kim cổ đã trở thành những “thần dược” chữa trị tâm bệnh hữu hiệu. Tương tự, từ y học cổ
truyền cho đến y học hiện đại đều khuyên rằng một cơ thể khỏe mạnh không chỉ được biểu hiện
ở sự cường tráng về mặt thể xác mà còn thể hiện ở sự minh mẫn, tinh anh, khỏe khoắn về mặt
tâm lý, ngay chính bên trong thế giới nội tại của cơ thể. Chính ở điểm gặp gỡ này, nhiều đặc
tính của y học được phản ánh trong văn học và ngược lại nhiều tác phẩm y khoa còn được xem
là những áng văn giàu giá trị nghệ thuật.
Về phía nhà văn, bên cạnh danh xưng là một nhà văn/nhà thơ chính hiệu, nhiều nghệ sĩ
còn là những vị lương y nổi tiếng trên thế giới như Friedrich Schiller – kịch gia tài ba nước Đức
kiêm bác sĩ giải phẫu quân đội, Archibald Cronin – một trong những người viết truyện hay nhất
thế kỷ XX, đồng thời cũng là một bác sĩ nổi tiếng hay Anton Chekhov – một trong những nhà
văn và bác sĩ kiệt xuất của Nga. Ở Việt Nam, nhiều danh y xuất thân Nho học cũng là những
nhà văn lỗi lạc như: Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ơng hay Nguyễn Đình Chiểu. Trong xã hội
đương đại, nhiều bác sĩ nổi tiếng đồng thời cũng là những nhà văn, nhà thơ như bác sĩ Trương
Thìn hay Đỗ Hồng Ngọc. Có thể thấy, điểm chung đặc biệt ở họ là cùng nhìn nhận văn học và
y học như hai phương thức phòng/chữa bệnh kỳ diệu.
Đặc biệt, nhìn từ thuộc tính phản ánh, y học cũng được xem là một trong những đối tượng
của văn học và ngược lại. Bởi văn học luôn gắn liền với hiện thực con người trong xã hội và
không ngừng hướng đến việc giải mã nhiều vấn đề cốt lõi bên ngồi lẫn bên trong mỗi đối
tượng. Những gì văn học nhìn nhận và gửi gắm có thể mang tinh thần và giá trị thời đại, thậm
chí ở nhiều trường hợp cịn có khả năng tiên tri về một vấn đề nào đó sẽ xảy đến trong tương
lai. Bởi đặc tính này, nhiều vấn đề và thuật ngữ y khoa từng được nhắc đến, minh giải bằng các
tác phẩm truyện kể và có xuất phát điểm từ văn học. Thoạt đầu, một số chứng bệnh di truyền
có liên quan đến sự đột biến gen như bệnh ma cà rồng, bệnh người sói, bệnh người lùn hay bệnh
người cá,… đều được đặt tên theo các nhân vật trong một số truyện cổ dân gian. Bên cạnh đó,
nhiều tên gọi chứng bệnh của tâm lý học có xuất phát điểm từ thần thoại Hy Lạp như mặc cảm
Oedipe, mặc cảm Electra, mặc cảm Prométhée hay bệnh lý Narcisse. Đến khi nền văn học viết

được xác lập, nhiều tác giả văn học đã gọi tên và diễn tả các chứng bệnh trước cả khi y học ghi
nhận về nó. Ở Nhật Bản, xuất phát từ kiệt tác Truyện kể Genji của nữ sĩ Murasaki Shikibu, thuật
ngữ “phức cảm Genji” đã được nhiều nhà tâm lý học, cũng như người dân Nhật Bản đời sau sử
dụng để diễn tả hiện tượng người Nhật ln có ham muốn nương tựa vào mẹ của họ suốt cuộc
đời. Hay ở Pháp, xuất phát từ vở hài kịch Người bệnh tưởng của đại văn hào Molière, thuật ngữ
“bệnh tưởng” được sử dụng để chỉ rối loạn lo âu mắc bệnh và rối loạn triệu chứng thực thể,
trong đó người bệnh ln ám ảnh bản thân có bệnh nặng mặc dù chỉ có triệu chứng bệnh nhẹ.
Ngồi ra, từ tiểu thuyết hiện thực kinh điển Bà Bovary của Gustave Flaubert, tên gọi “bệnh lý
Bovary” ra đời để chỉ những đối tượng chỉ muốn sống trong những ảo vọng lãng mạn, những
giấc mộng ái tình hư ảo. Cịn ở Anh, sau khi nhà văn Robert Louis Stevenson cho ra đời cuốn
tiểu thuyết dị kỳ Bác sĩ Jekyll và ông Hyde, tên gọi “Jekyll và Hyde” đã trở thành thuật ngữ tâm
lý học để chỉ hội chứng đa nhân cách của con người. Hơn nữa, đứng trên lập trường lấy các vấn
đề thuộc về y học làm đối tượng trung tâm để sáng tác và phản ánh, lịch sử văn học thế giới đã
ghi nhận một khối lượng tác phẩm lớn đề cập đến các chứng bệnh của nhân loại. Một số tác
48


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

phẩm kinh điển có thể kể đến như: tiểu thuyết Trà hoa nữ (1848) của Alexandre Dumas con đề
cập đến căn bệnh lao, tiểu thuyết Thằng ngốc (1868) của Dostoevsky đề cập đến chứng động
kinh; tiểu thuyết Dịch hạch (1942) của Albert Camus đề cập đến nạn dịch hạch, nhật ký Một lít
nước mắt (1988) của cơ gái nhỏ người Nhật Kito Aya đề cập đến căn bệnh thoái hóa tiểu não,
tự truyện Chiếc áo lặn và con bướm (1997) của nhà văn Pháp Jean-Dominique Bauby đề cập
đến chứng tai biến mạch máu não và tàn phế ở tuổi trung niên hay tiểu thuyết Still Alice (2007)
của Lisa Genova đề cập đến căn bệnh Alzheimer,… Bên cạnh đó, khơng hiếm tác phẩm xây
dựng hình tượng trung tâm là y bác sĩ và sử dụng nhiều diễn ngôn y khoa như tiểu thuyết Thành
trì (1937) của A.J.Cronin kể về bác sĩ Andrew Manson, Bác sĩ Zhivago của Boris Pasternak kể

về bác sĩ quân y Yury Zhivago, Sự im lặng của bầy cừu (1988) của Thomas Harris kể về bác sĩ
thần kinh học Hannibal Lecter, tự truyện Khi hơi thở hóa thinh khơng của bác sĩ Paul Kalanithi
kể về hành trình chống lại căn bệnh ung thư của mình,… Đặc biệt, khi lấy y học làm đối tượng
phản ánh và khảo tả, văn học không ngừng khám phá bản thể vốn đa dạng, chi tiết mà thầm kín
của con người, lý giải nhiều nguyên nhân có ý nghĩa về mặt y khoa, cũng như xem xét lại nhiều
diễn ngôn truyền thống. Nhìn từ góc độ người đọc, một tác phẩm văn học viết về chủ đề y khoa
có thể mang nhiều ý nghĩa phái sinh, đa dạng hơn nữa nếu được nhìn nhận và phân tích trong
tương quan với vấn đề sức khỏe, bệnh tật của con người.
Ngoài ra, nhiều trường hợp lịch sử xã hội ghi nhận các tác phẩm văn chương từng là công
cụ hữu hiệu đối với các y bác sĩ trong quá trình nghiên cứu bệnh tật cũng như điều trị bệnh
nhân. Tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng có thể mang lại rất
nhiều ích lợi cho sinh viên trường y, cũng như các y bác sĩ và đặc biệt là bệnh nhân. Đối với
họ, việc đọc các tác phẩm văn học không chỉ nhằm giải tỏa căng thẳng, mệt mỏi sau những giờ
học/làm việc vất vả mà nhiều lúc còn là phương tiện diễn giải bệnh tật một cách sinh động, gần
gũi giúp cho các sinh viên cũng như bác sĩ gia tăng khả năng thấu cảm khi đối mặt với hoàn
cảnh và vấn đề mà bệnh nhân mắc phải. Nhiều nghiên cứu y khoa đã chỉ ra rằng việc đọc sách,
đặc biệt là thưởng thức các tác phẩm văn chương rất tốt cho não bộ và góp phần hình thành
thành nhận thức thẩm mỹ đúng đắn. Điều thú vị, việc đọc sách cịn có thể giúp cải thiện đáng
kể chỉ số lo lắng và trầm cảm của con người. Không phải thuốc bổ, sách mới là thứ giả dược
quý giúp chúng ta giải phóng số lượng lớn hormone hạnh phúc dopamine1 trong não, đồng thời
gia tăng khả năng ghi nhớ dài lâu.
Nhìn chung, đối tượng trung tâm mà văn học và y học hướng đến chính là con người.
Chưa vội đề cập đến những yếu tố chuyên môn của mỗi ngành, văn học và y học trên tiến trình
hình thành và phát triển đã khơng ngừng khám phá và tái khám phá con người từ nhiều nhân
dạng, góc độ khác nhau như: bệnh lý, sinh lý, tâm lý,… Đó là điểm mấu chốt xét từ bản chất
đối tượng của văn học và y học nói riêng, cũng như các ngành nghệ thuật nói chung.
2.1.2. Những điểm tương đồng và dị biệt giữa văn học và y học
Nhìn từ góc độ nghiên cứu, khơng phải ngành khoa học nào cũng có mối liên hệ sâu sắc
như văn học và y học. Xuất phát điểm từ mục đích chung nhằm khám phá và thấu hiểu con
người trên mọi phương diện, từ đó hướng con người vươn đến một đời sống khỏe mạnh, tốt

đẹp; đây vừa là điểm tương đồng, vừa là điểm dị biệt lớn nhất giữa văn học và y học.
Trong khi mục tiêu và đối tượng của văn học thiên về đời sống tinh thần, tâm hồn thì mục
tiêu và đối tượng của y học lại thiên về đời sống thể chất. Khi khám phá một tác phẩm văn học
viết về chủ đề y học, dù chủ đề ấy được diễn giải và thể hiện nhiều bao nhiêu thì đó cũng chỉ là
Dopamine là một trong những hormone quan trọng trong não bộ. Nó liên quan đến cảm giác hạnh phúc, động
lực, trí nhớ, khả năng tập trung và điều chỉnh các chuyển động của cơ thể.
1

49


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

không gian, bối cảnh, vấn đề mà nhân vật gặp phải. Nhìn rộng ra, tầm nhận thức của người đọc
sau khi tiếp nhận văn bản không chỉ dừng lại ở việc biết, hiểu và lĩnh hội những vấn đề đó. Yếu
tố cốt lõi đằng sau mỗi tác phẩm nằm ở tư tưởng nhà văn gửi gắm về con người, cuộc đời và
nghệ thuật. Một tác phẩm văn học ngoài giá trị nhận thức cịn chứa đựng nhiều giá trị khác có
ý nghĩa về mặt giao tiếp, thẩm mỹ, giáo dục, lịch sử, giải trí,… Bên cạnh đó, một tác phẩm văn
học thông thường không chỉ diễn giải về một chủ đề hay một đề tài nhất định. Với tầm cỡ
“khổng lồ” như thể loại tiểu thuyết, thông thường y học không phải là chủ đề trung tâm mà tác
phẩm hướng đến. Chủ yếu, từ các diễn ngôn và chủ đề y khoa, hình tượng nhân vật được xây
dựng một cách đa dạng hơn, thể hiện những mối bận tâm, cũng như ý thức về tầm quan trọng
của sự sống nói chung và sức khỏe con người nói riêng. Ngược lại, y học quan tâm nhiều hơn
đến con người về khía cạnh thân thể, đề cao việc giữ gìn sức khỏe, cũng như tìm cách ngăn
chặn và chữa trị bệnh tật cho mỗi người. Bất cứ một tác động nào của mội trường sống xung
quanh cũng có thể trở thành nguy cơ ảnh hưởng đến thân thể theo một cách tích cực hoặc tiêu
cực. Trong khi văn học hướng đến việc diễn giải, phản ánh những điều này trong các tác phẩm,
y học hướng đến giải quyết, đề cao việc điều trị mang tính thực tiễn. Nếu như văn học chủ yếu

bồi dưỡng trí tuệ và tinh thần cho con người một cách gián tiếp thơng qua các hình tượng thẩm
mỹ thì y học chủ yếu giúp con người đảm bảo sức khỏe, chống lại bệnh tật, từ đó đạt được cơ
thể khỏe mạnh một cách trực tiếp bằng các biện pháp và cơ chế y khoa.
Có thể thấy, mối quan hệ giữa văn học và y học được thể hiện trong sự kết hợp mang tính
đối sánh, vừa nhị nguyên vừa nhất thể giữa các phạm trù. Ngày nay, cả văn học lẫn y học đều
nhìn nhận thân thể con người trong sự tổng hòa mật thiết giữa hai yếu tố thể xác và tâm hồn.
Sự thay đổi, khác biệt của yếu tố này đồng thời cũng sẽ chi phối yếu tố cịn lại theo hướng tích
cực hoặc tiêu cực nhất định. “Thân tâm” là một trong những khái niệm rất quen thuộc trong đời
sống hằng ngày cũng như đời sống văn học và y học. Từ xa xưa, các bậc lương y đã rất chú ý
trong việc rèn thân dưỡng tâm. Để có sức khỏe tốt, con người khơng chỉ phải rèn luyện thân thể
hằng ngày mà còn phải giữ cho tâm của bản thân được “tịnh”, tránh nổi giận hay buồn phiền.
Theo lý luận của y học Trung Hoa, thành ngữ có câu: Tức giận hại gan, q khích hại tim, buồn
phiền hại phổi, lo lắng hại lá lách, sợ hãi hại thận. Bách bệnh đều sinh ra do tức giận mà nên.
Ngày nay, y học hiện đại đã chứng minh dù cơ thể có khỏe mạnh, khơng có dấu hiệu gì của
bệnh tật nhưng nếu tâm trạng hay buồn phiền, dễ cáu giận, cơ thể sẽ tăng nguy cơ mắc các bệnh
về tim mạch, tuần hoàn máu và ảnh hưởng xấu đến não bộ. Như vậy, sự hài hịa thân thể chính
là mục tiêu quan trọng nhất của y học. Còn đối với văn học, qua việc diễn giải thiên về lý thuyết,
bàn đến rất nhiều vấn đề của con người nhưng chủ yếu tác động trực tiếp đến chúng ta về phần
tâm hồn. Một tác phẩm văn học hấp dẫn viết về y khoa không thể giúp con người khỏe mạnh
ngay lập tức mà đó là “liều thuốc” có lợi cho sức khỏe chúng ta về mặt lâu dài. Sức mạnh của
văn chương hướng con người đến với những suy nghĩ đúng đắn, hình thành thái độ tích cực và
thơng tuệ những vấn đề đang mắc phải, từ đó chi phối đến hành động thực tiễn, giúp giải quyết
những điều vướng bận một cách dễ dàng.
Ngoài ra, giữa văn học và y học cịn có sự dị biệt về chính đối tượng mà cả hai hướng
đến. Mặc dù đều lấy con người làm đối tượng quan tâm, nhưng “khách hàng” của y học là bệnh
nhân, trong khi đối tượng văn học tiếp cận là người đọc. Người đọc tìm đến văn học vì nhiều
mục đích khác nhau như thỏa mãn nhu cầu nhận thức về một vấn đề nhất định hay tìm đến sự
đồng cảm với câu chuyện và số phận cụ thể của nhân vật nào đó. Tầm tiếp nhận văn chương
của người đọc có thể đến từ nhiều nguyên nhân, một trong số đó bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp
cơ bản. Qua quá trình tiếp nhận này, chúng ta không chỉ bổ sung nhận thức về tri thức, lĩnh hội

tư tưởng thẩm mỹ tác phẩm mang lại mà trước tiên, văn học đã giúp con người biết rung cảm,
thấu cảm, biết yêu quý, biết vui vẻ, biết hạnh phúc, hay thậm chí là biết giận hờn, trách móc, u
50


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

buồn,… Văn học làm gia tăng hương vị cuộc sống, lưu giữ và truyền thụ những kinh nghiệm
sống từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó chính là phương cách văn học có sức mạnh làm thay
đổi con người. Còn với “khách hàng” của y học, người bệnh tìm đến các liệu pháp giải tỏa tâm
lý hay chữa trị bệnh tật khi bản thân họ cảm thấy lo âu trước những nguy cơ tiềm ẩn hay khi
thân thể xuất hiện những dấu hiệu không tốt. Nhiệm vụ của y học lúc này là tìm hiểu nguyên
nhân các triệu chứng, từ đó giúp tái cấu trúc lại sức khỏe cho bệnh nhân và đưa ra những lời
khuyên phòng ngừa bệnh tật. Qua đó, nhìn một cách tổng thể, cả bệnh nhân và người đọc đều
tìm đến y học và văn học xuất phát từ nhu cầu sống. Đó cũng lại là điểm tương đồng trong sự
dị biệt giữa hai lĩnh vực này.
Như vậy, xét về mối quan hệ lâu dài giữa văn học và y học, tinh thần biện chứng giữa
hai lĩnh vực này không chỉ được xem xét qua đối tượng tiếp cận, mục tiêu hướng đến mà cịn
có thể nhận biết qua một số đặc điểm chun ngành thể hiện sự tương tác qua lại giữa văn học
và y học. Chính sự tương tác này đã giúp mở rộng phạm vi tiếp cận của văn chương, giúp khám
phá bản thể con người được sâu sắc và tường tận; ngược lại, những câu chuyện về y học được
thể hiện một cách hấp dẫn hơn, sinh động hơn và gần gũi hơn với mọi người.
2.2. Một số trường phái lý thuyết của y học liên quan đến văn học
2.2.1. Phân tâm học với văn học
Nếu như có một trường phái lý thuyết của y học gần gũi với lĩnh vực văn học nhất tính đến
thời điểm hiện tại thì chính là phân tâm học do bác sĩ người Áo Sigmund Freud đặt nền móng.
Mặc dù ngày nay, việc cho rằng phân tâm học là một trường phái thuộc lĩnh vực y học còn gây
nhiều tranh cãi và ý kiến trái chiều nhưng số đông các nhà y khoa đã công nhận điều này. Bằng

chứng, nhiều bệnh viên đã mở khoa tâm lý để điều trị các bệnh nhân mắc phải những bệnh lý liên
quan đến rối loạn tình cảm, cảm xúc ở con người. Bên cạnh đó, nhiều trường đại học y tế đã đưa
phân tâm học vào giảng dạy như một bộ môn khám phá thế giới bên trong cơ thể. Còn đối với
văn học, phân tâm học không chỉ là hệ lý thuyết giúp khám phá, giải mã các tác phẩm mà còn
được xem là xu hướng sáng tác của các nhà văn, nhà thơ đương đại.
Nhìn về mối quan hệ gần gũi giữa văn học và phân tâm học, dễ thấy nhiều khái niệm mà
phân tâm học từng đề cập và sử dụng có bắt nguồn từ văn học như: mặc cảm Oedipe, mặc cảm
Electra, bệnh lý Narcisse, bản năng sống Eros hay bản năng chết Thanatos. Thoạt đầu, Freud
sử dụng những truyện kể cổ xưa để mọi người tiếp nhận lý thuyết của ông sao cho dễ hiểu và
cảm thấy gần gũi nhất. Nhưng ở khía cạnh khác, những mặc cảm và bệnh lý được giải thích
thơng qua các câu chuyện cổ cịn phần nào lý giải nguồn gốc các biểu hiện và hành vi vô thức
ở con người. Ngược lại, sau khi phân tâm học xuất hiện và được đón nhận rộng rãi, nhiều nhà
nghiên cứu văn học đã vận dụng một số lý thuyết quan trọng của trường phái này như lý thuyết
về vơ thức, lý thuyết tính dục hay lý thuyết về cơ cấu nhân cách toàn diện,… để hướng đến giải
mã nhiều vấn đề liên quan đến tác phẩm như việc luận giải các biểu hiện thuộc về vô thức, các
mặc cảm của nhân vật, hay nhìn nhận hành vi vơ thức sáng tạo của một số tác giả văn học,…
Bên cạnh đó, người học trị và cũng là người bạn của Freud - Carl Gustav Jung (1875-1961)
cũng đã khám phá ra nhiều khái niệm về tâm lý học phân tích được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu văn học như nguyên mẫu (archetype, hay còn được gọi là cổ mẫu, mẫu gốc), vô
thức tập thể, phức cảm, đồng hiện,… Những lý thuyết xuất phát từ phân tâm học như trên không
chỉ giúp các tác phẩm văn chương được tái khám phá, nhìn nhận ở góc độ mới mà cịn trở thành
khuynh hướng nghiên cứu văn học hấp dẫn, được ưa chuộng trên thế giới vào khoảng nửa sau
thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.
Ngoài ra, mối liên hệ giữa phân tâm học và văn học còn thể hiện rõ trong vai trò trở thành
tiền đề cho việc ra đời một số khuynh hướng và thể loại văn học thuộc chủ nghĩa hiện đại và
51


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ


| HTKH 2019

chủ nghĩa hậu hiện đại. Trước hết, phân tâm học của S.Freud và K.Jung là một trong những cơ
sở tư tưởng quan trọng của văn học chủ nghĩa hiện đại. Với việc hướng đến thế giới vô thức
của con người, đề cao lối viết tự động, đề cao sự ngẫu hứng khơng qua sự kiểm sốt của lý trí
và vứt bỏ tư duy phân tích logic, những sáng tác văn chương của chủ nghĩa Dada (Dadaism) và
việc sử dụng kỹ thuật dòng ý thức đã lấy cảm hứng từ lý thuyết phân tâm của Freud. Ngoài ra,
các tác phẩm văn học của trường phái chủ nghĩa siêu thực (surréallisme) chính là minh chứng
rõ ràng cho mối liên hệ giữa văn học và phân tâm học. Bước sang địa hạt của văn chương hậu
hiện đại, việc đề cao yếu tố trò chơi trong các sáng tác, đặc biệt là ở thể loại thơ cũng là ví dụ
cho thấy sự gần gũi giữa hai ngành này. Bởi khi yếu tố trò chơi của các tác phẩm hậu hiện đại
được đẩy lên cao, các câu chữ giờ đây sẽ trở thành những mảnh ghép vơ tổ chức bởi ít nhiều
người viết sử dụng lối viết tự động do vô thức sáng tạo điều khiển. Vì vậy, việc giải mã văn
chương hậu hiện đại một phần không thể không sử dụng lý thuyết phân tâm học để tường tận
bản chất vấn đề.
Đặc biệt, không chỉ các nhà nghiên cứu văn học mới sử dụng lý thuyết phân tâm để diễn
giải nội dung tác phẩm và sự ra đời của các tác phẩm đó mà nhiều nhà văn, nhà thơ cũng đã
ảnh hưởng rất lớn từ lý thuyết của Freud trong quá trình sáng tác. Tư tưởng của Freud về vô
thức, kỹ thuật liên tưởng tự do cũng như việc tái khám phá tầm quan trọng của những giấc mơ
đã khuyến khích các tác giả thử nghiệm những điều ngẫu nhiên, thậm chí mang tính phi lí, chú
ý một cách nghiêm túc về thế giới mộng tưởng và đi tìm ý nghĩa bên trong những suy nghĩ và
hình ảnh trước đó bị gạt bỏ như những gì ngớ ngẩn1. Việc sáng tác bằng lối viết tự động tâm
linh giúp các tác phẩm văn chương của họ trở nên sinh động, ẩn chứa những điều họ có thể
chưa thực sự hiểu hết về con người mình. Theo quan niệm của Freud, ông xem việc sáng tạo
nghệ thuật là sự thăng hoa của dục năng chưa được thỏa mãn, là hình thức thốt ly thực tế bằng
huyễn tưởng, trò chơi và mơ mộng. Các nhà văn, nhà thơ khi sáng tác bằng việc thử nghiệm lối
viết này cũng nhằm mục đích giúp họ tái khám phá và hiểu rõ hơn về con người thực ẩn bên
trong sâu thẳm vơ thức bản thân. Bởi nhìn từ lý thuyết phân tâm, mục đích của việc diễn giải
tác phẩm được xem là hành vi khám phá bên trong văn bản đó những bằng chứng về điều được
cho là các mâu thuẫn thời thơ ấu của người nghệ sĩ.

Ở một góc độ nào đấy, tác giả văn học và bác sĩ tâm lý cũng có nhiều điểm tương đồng. Cả
hai đối tượng này đều hướng đến việc “chữa trị” con người bằng các liệu pháp thiên về mặt tinh
thần. Nhìn một cách toàn diện, một số vấn đề mà phân tâm học quan tâm từng là những chủ đề
văn học đề cập và hướng đến. Đồng thời, văn học cũng trở thành phương tiện hình thức có ý
nghĩa về mặt diễn giải, minh họa đắc lực và sinh động cho phân tâm học trong nhiều trường hợp.
2.2.2. Y học thẩm mỹ với văn học
Thẩm mỹ là một trong những phạm trù quan trọng, rất được quan tâm trong lĩnh vực y
khoa nói chung và chuyên ngành y học thẩm mỹ nói riêng. Hướng đến việc sử dụng các phương
pháp điều trị thẩm mỹ xâm lấn tối thiểu để tăng cường sự hài lịng của bệnh nhân về ngoại hình,
y học thẩm mỹ đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa các vấn đề thẩm mỹ, vẻ đẹp bên ngoài
và sức khỏe con người. Đây cũng là vấn đề rất được chú trọng trong phê bình nữ quyền phương
Tây về các phạm trù như lý tưởng cái đẹp và thực hành làm đẹp. Chính sự xuất hiện những quy
chuẩn, lý tưởng về vẻ đẹp đã trở thành tiền đề, nguyên nhân cho việc thực hành làm đẹp, cải
tạo vẻ đẹp thân thể.
Bản thân văn học cũng lấy thẩm mỹ làm đối tượng sáng tác và nghiên cứu, đặc biệt là về
vẻ đẹp ngoại hình của con người. Tùy vào những cơ sở văn hóa, xã hội, lịch sử, kinh tế, chính
trị, tơn giáo, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, sở thích,… khác nhau mà cả y học thẩm mỹ và văn
1

Xin xem thêm: Anthony Storr. (Thái An dịch) (2016), Dẫn luận về Freud, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.150-173.

52


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

học đã đặt ra những mẫu hình chuẩn lý tưởng riêng biệt. Quy chuẩn về vẻ đẹp ấy có thể thay
đổi theo từng vùng văn hóa, từng đất nước, từng thời điểm, từng cách nhìn. Có thời kỳ, xã hội

xem việc sở hữu thân hình đẫy đà là lý tưởng (Phụ nữ Hy Lạp cổ đại và thời Phục Hưng) nhưng
có thời điểm lại cơng nhận việc sở hữu thân hình mảnh mai là chuẩn mực (Phụ nữ Ai Cập cổ
đại và triều đại Hán). Qua đó, chúng ta rất khó đánh giá đâu là chuẩn thẩm mỹ thực sự. Bản
thân y học thẩm mỹ khi đặt ra hình tượng mẫu lý tưởng thường gắn với vẻ đẹp theo quan niệm
của xã hội đương thời, mà thực chất phạm vi thẩm mỹ hướng đến phụ thuộc rất lớn vào nhu
cầu của bệnh nhân. Mỗi bệnh nhân trước khi được tư vấn về các liệu trình điều trị thẩm mỹ sẽ
phải bày tỏ với bác sỹ về nguyện vọng thẩm mỹ của mình. Tùy vào nhu cầu và hiện trạng của
bệnh nhân, bác sĩ sẽ đưa ra những lời khuyên thích hợp. Bên cạnh chun ngành phẫu thuật
chỉnh hình (plastic surgeon) chuyên tái tạo các khiếm khuyết trên khuôn mặt và cơ thể do một
số nguyên nhân như chấn thương, bỏng hay dị tật bẩm sinh,… thì chuyên ngành phẫu thuật
thẩm mỹ (Cosmetic surgery) lại hướng đến việc tăng cường ngoại hình dù các khu vực được
điều trị vẫn thực hiện đúng chức năng của mình. Đặc biệt, chuyên ngành phẩu thuật thẩm mỹ
(Cosmetic surgery) có lịch sử hình thành và phát triển quan tâm chủ yếu đến nữ giới. Đây là
minh chứng rõ ràng cho thấy nhu cầu về vẻ đẹp ở nữ giới lớn hơn rất nhiều so với nam giới.
Bởi, so với nữ giới, chuẩn mực vẻ đẹp về hình thể nam giới thường ít được đề cập, ít biến động
qua các thời kỳ và khơng đa dạng bằng vẻ đẹp của nữ giới.
Tuy nhiên, sự thay đổi về chuẩn thẩm mỹ ở nữ giới phần lớn chịu phải sự tác động bởi
văn hóa xã hội, đặc biệt là văn hóa nam quyền. Đứng trên lập trường phái tính để nhìn nhận về
chuẩn cơ thể đẹp, thực tế lịch sử xã hội đã cho thấy một mẫu hình lý tưởng thường được xem
xét và đánh giá từ góc độ nam giới. Trong nhiều trường hợp, bởi sống theo chuẩn thẩm mỹ xã
hội đã khiến thân thể nữ giới phải chịu rất nhiều tổn thương như: tục đục răng của phụ nữ
Mentawai ở Indonesia, tục bó chân “gót sen” của người Trung Hoa xưa, tục xăm đục đẽo da
thịt của phụ nữ New Guinea (Tây Phi), tục trở thành béo phì để lấy chồng của người Mauritania,
tục đeo vòng đồng quanh cổ của bộ tộc người Kayan (Myanmar), hay tục đeo đĩa trên môi của
bộ lạc Mursi (Ethiopia),… Bên cạnh đó, khơng chỉ xuất hiện trong đời sống văn hóa thực tế mà
ở nhiều thể loại và tác phẩm văn học cũng từng đề cập đến các hình tượng mỹ nhân nói riêng
và hình tượng phụ nữ nói chung được xây dựng dựa theo những tiêu chuẩn về cái đẹp của nam
giới. Tất cả các bộ thần thoại cổ đại của phương Tây lẫn phương Đông đều nhắc đến các vị thần
đại diện cho sắc đẹp toàn là nữ thần như Aphrodite (Thần thoại Hy Lạp), Freyja (Thần thoại
Bắc Âu), Cliodna (Thần thoại Celtic), Lakshmi (Thần thoại Ấn Độ), Oshun (Thần thoại Yoruba

- châu Phi), Ixchel (Thần thoại Aztec),… Ca dao, dân ca Việt Nam cũng đề cập rất nhiều đến
chuẩn mực vẻ đẹp của người phụ nữ xưa như: Những người con mắt lá răm,/Lông mày lá liễu
đáng trăm quan tiền; Ai xui má đỏ, môi hồng,/Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu, Những
người thắt đáy lưng ong,/Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con, Một thương tóc bỏ đi
gà/[…]/Ba thương má lúm đồng tiền/Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.; Lưng ong,
mắt phượng mày ngài,/Cổ cao ba ngấn kém ai trong đời,… Đến thời văn học trung đại, vẻ đẹp
hình thể của nữ giới càng được quan tâm trong việc so sánh chuẩn mực vẻ đẹp người con gái
với những hình tượng ước lệ như: khn trăng, nét ngài, da tuyết, mắt phượng, gót sen, tóc
mây, tay măng,… Bước sang thời kỳ văn học đương đại, vẻ đẹp hình thể trở thành một trong
những chủ đề được bàn luận khá nhiều, đặc biệt là hay gặp trong các sáng tác của nữ giới,
thường được thể hiện với giọng điệu chua chát. Lúc thì gắn với cơng việc: Cả thảy có mười một
hồ sơ xin việc. Ba cơ loại ngay vịng đầu vì q xấu [1, tr.46]; lúc khác lại trong mối quan hệ
vợ chồng: Khơng phải hắn khó khăn gì 4 mi li lít tinh trùng, nhưng của đáng tội mỗi lần làm
tình với vợ hắn, hắn đều ớn lạnh nơi đốt thứ 4 của cột sống. Hắn khơng khỏi có cảm giác là
đang làm tình với đàn ơng […] vợ hắn thừa hưởng từ cha đẻ hầu như tồn bộ hình thể, nhất là
khuôn mặt với quai hàm vuông gấp 4 người thường; đã hơn 4 lần hắn nài nỉ vợ hắn nuôi tóc
53


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

dài nhưng vợ hắn một mực từ chối, hắn đành bó tay để âm thầm chịu đựng [6, tr.25]; có khi
được nhìn nhận gắn với vấn đề hơn nhân tương lai: Chị khơng đẹp, lại nam tính nên khó lấy
chồng [5, tr.114] hay khi thì đánh giá gắn với nghề nghiệp: Sân khấu lúc này diễn trích đoạn
ba lê Cái chết của con thiên nga, nữ diễn viên vai chính có khuôn mặt tuyệt đẹp nhưng đôi chân
hơi béo, không múa mà chỉ đưa đẩy cặp mông vĩ đại gần như hở hồn tồn dưới chiếc váy
bồng, người xem khơng thể không liên tưởng đến một con vịt bầu [5, tr.187-188]. Đặc biệt, bản
thân “vẻ đẹp” là khái niệm thường được gắn cho nữ giới như một đặc trưng phái tính. Rất ít khi

vẻ đẹp của nam giới được đem ra bàn luận hay thể hiện trong văn hóa thực tế cũng như trong
đời sống văn học.
Chính vì mong muốn đạt được vẻ đẹp ngoại hình, nữ giới đã buộc bản thân lệ thuộc và tự
ép mình theo những tiêu chuẩn đó. Trong nhiều trường hợp, văn hóa vẻ đẹp là nguyên nhân
gián tiếp khiến sức khỏe và thân thể nữ giới bị tổn thương nghiêm trọng. Thế kỷ XX và đặc biệt
là khoảng đầu thế kỷ XXI, các dịch vụ phẫu thuật thẩm mỹ (Cosmetic surgery) không ngừng
nở rộ và trở thành văn hóa làm đẹp được ưa chuộng. Tuy nhiên, bệnh nhân khi thực hiện những
liệu trình làm đẹp này phải đối mặt rất nhiều hiểm nguy và biến chứng sau đó, thậm chí đã có
nhiều ca tử vong xảy ra ngay trên bàn mổ. Ngoài ra, việc phụ nữ mang diện mạo xinh đẹp nhiều
lúc cịn bị nhìn nhận là nguồn gốc của những tai họa. Các văn tịch cổ thường đề cập đến hình
tượng người con gái đẹp tựa như những hiểm nguy khôn lường. Thần thoại Hy Lạp từng kể về
câu chuyện ba nữ thần Hera, Athena và Aphrodite tranh nhau vị trí người đẹp nhất và chuyện
nàng cơng chúa Helen tóc vàng xinh đẹp nhất trần thế lại là nguyên nhân gây ra cuộc chiến
tranh thành Troy dài mười năm đằng đẳng. Văn học trung đại phương Đơng cũng hay sử dụng
các điển tích, điển cố như “hồng nhan họa thủy” hay “nghiêng nước nghiêng thành” để chỉ mối
nguy hại ẩn chứa đằng sau những người con gái đẹp.
Như vậy, cả văn học và y học thẩm mỹ không chỉ cùng đưa ra những quy chuẩn riêng về
vẻ đẹp của nữ giới gắn với yếu tố văn hóa mà cịn đánh giá những mối nguy hại đến từ vẻ đẹp
được cho là đặc trưng phái tính của họ. Nếu như y học thẩm mỹ khám phá, nghiên cứu vẻ đẹp
gắn với vấn đề sức khỏe và hướng đến ứng dụng trên thân thể con người một cách trực tiếp thì
văn học đề cập, phản ánh vẻ đẹp như một đối tượng đặc trưng của nữ giới. Điều này đã dẫn đến
sự đối lập trong cách nhìn nhận về vẻ đẹp con người giữa nam giới và nữ giới. Bản thân các
nhà văn là nam giới ln khẳng định những mẫu hình đẹp mà họ sáng tạo ra là hợp lý, chứ
không hẳn đã quan tâm đến sự cảm nhận về tiêu chuẩn vẻ đẹp từ phía nữ giới. Vì vậy, ngay từ
thời kỳ văn học dân gian, không hiếm những câu ca dao than thân đã miêu tả cuộc đời của
những người phụ nữ tuy đẹp mà bất hạnh: Thân em như hạt mưa sa/Hạt vào đài cát, hạt ra
ruộng cày; Thân em như cánh hoa hồng/Lấy phải thằng chồng như đống cỏ khô hay Thân em
như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Có thể thấy, viết về vẻ đẹp nữ giới, chưa
hẳn nam giới đã thấu hiểu được nỗi lòng của phụ nữ. Còn khi nữ giới viết về vẻ đẹp chính mình,
nếu khơng thốt khỏi những chuẩn mực vẻ đẹp vốn bị áp đặt kia, họ có nguy cơ trở nên mặc

cảm với chính vẻ đẹp ấy.
3. KẾT LUẬN
Nhìn từ mối quan hệ liên ngành, văn học và y học có nhiều sự gặp gỡ và giao thoa thú vị.
Ngày nay, việc nghiên cứu lĩnh vực đặc biệt này trên thế giới đã khơng cịn xa lạ, giúp giải
quyết rất nhiều vấn đề đang bỏ ngỏ trong mối quan hệ phát triển tương hỗ giữa hai ngành. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, định hướng nghiên cứu này vẫn chưa thực sự được quan tâm, nghiên cứu
đúng mực. Dù vậy, mối quan hệ giữa văn học và y học ở nước ta từ lâu đã manh nha và ngày
càng được chú trọng trong xã hội đương đại. Đặc biệt, việc tiếp cận các tác phẩm văn học từ
góc nhìn y học hứa hẹn sẽ là hướng nghiên cứu mới và giàu tiềm năng ở nước ta.
54


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]

Thùy Dương (2013). Chân trần, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
Alexander Edmonds, Sjaak van der Geest (2009). Introducing ‘Beauty and Health’,
medanthrotheory.org, 01/03/2009.
Anthony Storr (Thái An dịch) (2016). Dẫn luận về Freud, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
Erin Sullivan (2011). Culture, Literature, and the History of Medicine, Medical History journal,
Cambridge University Press, 10/2011, pp.541-548.

Thuận (2013). Thang máy Sài Gòn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
Thuận (2015). Chỉ còn 4 ngày là hết tháng 4, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

Title: LITERATURE AND MEDICINE LOOKED FROM INTERDISCIPLINARY RELATIONS
Abstract: Literature and medicine have a long and very close relation in human life. Getting people as
objects to approach and being recognized as art industry, literature and medicine on the process of
formation and development did not stop exploring and rediscovering people from a variety of figures,
different angels. That's the similarities and also be the singularity between literature and medicine from
the subject’s nature.
Keywords: Medicine, literature, body, people.

55



×