Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Biểu tượng trăng trong thơ Chế Lan Viên - Hàn Mặc Tử - Bích Khê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.99 KB, 5 trang )

BIỂU TƯỢNG TRĂNG TRONG THƠ
CHẾ LAN VIÊN - HÀN MẶC TỬ - BÍCH KHÊ
NGUYỄN THỊ MỸ THÁI - HỒNG THỊ HUẾ
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Sử dụng biểu tượng trong kiến tạo thế giới nghệ thuật, được xem như
một phương thức hữu hiệu đặc biệt để tạo nên cái hay, cái đẹp, cái lấp lánh diệu kỳ
đa nghĩa của thơ. Khảo sát biểu tượng trăng trong thơ Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, chúng ta sẽ lý giải được sự đặc biệt trong tư duy nghệ thuật độc đáo khó
lẫn của các nhà thơ tài hoa này.
Từ khoá: trăng, biểu tượng

1. Thơ là tiếng nói của tâm hồn, của trái tim, là những xúc cảm mãnh liệt được thể hiện qua
lớp vỏ ngôn từ - những diễn ngôn đậm chất sáng tạo nghệ thuật của chủ thể trữ tình. Thế giới
mn màu mn vẻ và vơ cùng bí ẩn. Thế giới trong thơ cũng vậy. Một hình ảnh của thế giới
hiện thực, một thực thể duy nhất của thực tại nhưng lại có thể trở thành một biểu tượng với
nhiều ý nghĩa khác nhau trong thơ ca “Thực tiễn của việc sáng tạo văn chương nói chung, Thơ
mới nói riêng là sự xâm nhập, đào sâu vào thế giới nội tâm, vô thức, tiềm thức, khám phá
những bí ẩn thẳm sâu trong bản chất đời sống tâm linh của con người.” [1, tr. 270]. Một bài
thơ hay, một tác phẩm văn chương có thể sống mãi với thời gian phải vượt thoát ra khỏi
những phạm vị hạn hẹp về phương diện ngữ nghĩa của từ ngữ để chuyển tải những thông điệp
của tác giả đến độc giả. Và thông điệp ấy tất yếu phải cần có một sự giải mã hợp lý, phải có
sự tương tác giữa ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm của diễn ngôn.
2. Trong các nhà Thơ mới Việt Nam, mỗi một nhà thơ có một phong cách riêng, một giọng
điệu riêng, một kiểu cảm quan nghệ thuật riêng. Tuy nhiên, có thể nói các tác giả của Trường
thơ Loạn mà tiêu biểu là Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê là những tác giả đã có sự gặp
gỡ trong quan niệm về nghệ thuật, về những xúc cảm thẩm mỹ, tạo nên được một thế giới
biểu tượng thơ ca mang phong vị của tượng trưng, siêu thực, góp phần khơng nhỏ trong q
trình cách tân thơ Việt Nam.
Từ khi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam cho đến nay, Thơ mới vẫn có một sức cuốn hút lạ kỳ
đối với những người yêu thơ. Tiềm ẩn trong vương quốc Thơ mới là những giá trị thẩm mỹ
của ngôn từ nghệ thuật với những cách tân lớn từ ngôn ngữ của thơ trung đại đến với ngôn


ngữ thơ hiện đại giàu sức gợi và tính nhạc, lạ hóa với bút pháp trữ tình lãng mạn, tượng trưng
siêu thực. Phương thức sử dụng hệ thống biểu tượng được xem như một kiểu tín hiệu nghệ
thuật đặc biệt để tạo nên cái hay, cái đẹp, cái lấp lánh diệu kỳ đa nghĩa của thơ. Khảo sát một
số biểu tượng thơ của Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, chúng ta sẽ lý giải được sự đặc
biệt trong tư duy nghệ thuật độc đáo khó lẫn của các nhà thơ tài hoa này. Thế giới biểu tượng
trong thơ vừa là cái nhìn rất riêng mang đậm dấu ấn của chủ thể sáng tạo - của nhà thơ nhưng
cũng là vừa là một thơng điệp có giá trị thẩm mỹ, có tính khái qt và phổ biến cao, mở ra
nhiều lớp nghĩa, nhiều tầng bậc ý nghĩa với những chiều kích liên tưởng khác nhau của độc
giả, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật của những sáng tác thi ca.
Biểu tượng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo Jean Chevalier, ngay từ khởi thủy, biểu
tượng đã là một dấu hiệu, một cơ sở quy ước của niềm tin. Nó là sự hội tụ của hai ý tưởng chia
ra và kết lại, phân ly và tái hợp, nó là dấu hiệu bị đập vỡ, gãy vỡ và nối kết. Ở đó, cảm xúc ln
ln nổi trội, biểu hiện thành những nỗi lo sợ hay mừng vui khôn xiết tả, những cảm xúc không
lời... Một cách hiểu khác, biểu tượng nắm giữ những gì vốn vượt chạy khỏi chúng ta để mà bị
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sau Đại học lần thứ hai
Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 10/2014: tr. 300-304


BIỂU TƯỢNG TRĂNG TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN – HÀN MẶC TỬ- BÍCH KHÊ

301

tiêu tán trong hư vơ. Biểu tượng cho ta thấy những gì mà khơng có nó, hồn toàn bị ẩn giấu đối
với chúng ta. Biểu tượng trong văn học được truyền đạt thông qua ngôn ngữ. Biểu tượng khơng
những làm cho rõ ràng mà cịn làm cho trở nên chân thật những thực tại kinh nghiệm. Biểu
tượng bao gồm cả ý thức và vô thức, cô đúc các sản phẩm tôn giáo và đạo đức, sáng tạo và thẩm
mỹ, nhuốm màu xúc cảm và tưởng tượng của con người, liên hệ đến kinh nghiệm của tập thể.
Đặc trưng của văn học là nghệ thuật ngôn từ. Mà ngôn từ là một dạng ký hiệu - ký hiệu chứa
đựng giá trị biểu vật và giá trị biểu niệm. Ngôn từ trong văn học không chỉ là ngôn từ với
nghĩa tả thực, nghĩa đen, nghĩa vốn có của nó mà ngôn từ nghệ thuật phải diễn tả được một

nội dung nào đó khác hơn với cái vốn có của nó.
Biểu tượng trong văn học là một hệ thống tín hiệu ẩn đằng sau lớp vỏ ngôn ngữ của ngôn từ
nghệ thuật. Trong thơ, tính biểu tượng càng rõ hơn bởi đặc trưng hình thức của thơ là sự biểu
hiện bằng biểu tượng mang ý nghĩa, bằng hình ảnh có ngụ ý; thơ là tiếng nói của thế giới nội
tâm mang đầy tính chủ quan nhưng qua thế giới nội tâm ấy lại mở ra một thế giới khách quan
rộng lớn và mênh mông vô bờ bến, ý tại ngôn ngoại… Rõ ràng ở đây, tìm hiểu, giải mã những
biểu tượng trong thơ của một hay nhiều nhà thơ đều là một quá trình đọc cái bị che giấu ẩn
chứa đằng sau những diễn ngôn nghệ thuật.
3. Trong thơ của Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, độc giả có thể gặp khá nhiều biểu
tượng thơ độc đáo. Đó là những trăng, hồn, máu, sọ,… - những biểu tượng đó đã tạo nên một
kiểu tư duy lạ, khác xa với kiểu tư duy nghệ thuật theo cách ước lệ tượng trưng của người
xưa. Với các nhà thơ cổ điển, phong, tuyết, nguyệt, hoa bao giờ cũng là hình ảnh của thiên
nhiên, của cái đẹp, thế nhưng khi đọc thơ của Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, trăng
trong thơ khơng chỉ là ánh trăng huyền bí của thiên nhiên, là chị Hằng với bao câu chuyện cổ
tích mà trăng lại trở thành một thực thể tinh thần, trăng xuất hiện như một biểu tượng thể hiện
khát vọng được trở về với bản nguyên hiện thực. Với tần số xuất hiện khá lớn trong thơ của
Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, trăng đã trở thành hồn, trăng là máu, là sự sống, là
hiện thân của con người, của thi nhân.
Đối với Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, trăng là một biểu tượng đặc biệt bởi nó vừa có
thể xem là một thi liệu của nội dung những đồng thời trăng cũng là một tín hiệu thẩm mỹ của
hình thức nghệ thuật tác phẩm. Trăng thể hiện cái tôi bản ngã khát khao, ám ảnh của vơ thức,
tiềm thức trong chính nội tâm của các thi nhân. Dẫu rằng ở mỗi khoảnh khắc, mỗi không gian
riêng thực thể trăng lại được các thi nhân gửi gắm một thông điệp riêng. Biểu tượng Trăng dung
chứa những nội hàm nghĩa khác nhau: Trăng vừa là một thực thể của tự nhiên vừa được tái hiện
như một mảng hiện thực khác – mơ hồ, kỳ ảo mang màu sắc liêu trai trong những mộng mơ bất
định của ý thu, hồn thu, của lòng người những đêm mơ, đêm tơ: “Trăng gây vàng, vàng gây lên
sắc trắng/Của gương hồ im lặng tợ bài thơ/Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nặng nặng/Đây
bài thơ không tiếng của đêm tơ/Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng/Của hồn thu đi lạc ở
trong mơ” (Mộng cầm ca - Bích Khê). Câu thơ miên man, du dương, êm đềm như một bài ca,
do kỹ thuật sử dụng ngơn từ giàu tính nhạc, ánh trăng vàng dịu mát cùng sắc trắng lạnh lẽo đã

tái hiện một không - thời gian huyền ảo, hư thực của những đêm xưa, đêm tơ, của hồn thu đi lạc
trong mơ. Đó là cõi mơ mộng mà chỉ thi nhân, những con người được thiên phú tài năng mới có
thể cụ thể hố, làm nó hiển lộ trong biểu tượng trăng vốn nguyên sơ.
Hoang mang, ngơ ngác trước bộn bề hiện thực buổi giao thời, thi nhân tự tạo cho mình
một nơi chốn ẩn thân. Quay về với quá khứ vàng son, khóc thương cho Chiêm quốc điêu
tàn, thi nhân mơ màng chờ mong một sự diệu kỳ để nàng Chiêm nữ xuất hiện trong cảnh
trời sáng trăng trong. Nhưng: “Tối hôm nay chị Hằng nghiêm nghị quá” (Đợi người
Chiêm nữ - Chế Lan Viên), cây vàng đợi mộng đứng im hơi, mộng không về và thi nhân


302

NGUYỄN THỊ MỸ THÁI - NGUYỄN THỊ HUẾ

vẫn là người “mộng giữa lúc thức”: “Trăng là trăng! Ngồi kia thơi chan chứa/Thơi tràn
trề ngây ngất những là trăng!/Góp cho tơi, cơ ơi, mn thước lụa/Đem ra vo trong sóng
của Cung Hằng” (Vo lụa - Chế Lan Viên). Hàn Mặc Tử cũng đã từng có một sơng trăng
nhưng đó là con sông thực của miền quê thôn Vỹ, thi nhân đặt sóng đơi hình ảnh con
thuyền trên bến sơng trăng - một hình ảnh đẹp, thi vị. Cịn ở đây, trong thơ Chế Lan Viên
độc giả cảm nhận được một không gian ngập ánh trăng, trăng tràn trề. Trăng không chỉ là
biểu tượng của thời gian, một cách tình thời gian (tuần trăng) mà trăng cịn là biểu tượng
của khơng gian. Không gian đầy trăng, trăng như sông, như biển, và thi nhân mơ có mn
thước lụa để vo trong sóng của Cung Hằng. Ta cảm nhận như trăng đang tan chảy trong
khơng gian, khơng gian sóng sánh ánh trăng.
Người xưa coi trăng như một thực thể tự nhiên có thể thấu hiểu lòng người, trăng là bạn tâm
giao đồng cảm, trăng là nơi gửi gắm tâm tình. "Trăng trong đời sống văn hóa tinh thần của
người bình dân xưa là biểu tượng của non nước theo quan niệm lưỡng hợp nguyên thủy, xuất
hiện dưới dạng mặt trăng - mặt trời, đất nước trong tương quan âm dương ngũ hành hài hịa.
Vì thế từ thời xa xưa, trong bộ phận thần thoại, trăng thay thế cho những cái phức tạp khó
nắm bắt là vũ trụ. Từ thần thoại sang cổ tích, đối tượng nhận thức từ vũ trụ chuyển sang xã

hội và cá nhân. Biểu trưng trăng nguyên sơ ấy vẫn xuất hiện trong cổ tích, là một phần của
non nước bởi có liên quan đến nguồn gốc sự vật. Vầng trăng còn thể hiện nhận thức của nhân
dân về sự vần xoay của thiên nhiên tạo vật, sự chuyển động của đất trời, thời tiết: “Tỏ trăng
mười bốn được tằm./Tỏ trăng đêm rằm thì được lúa chiêm”. Hay "Muốn ăn lúa tháng năm
trông trăng rằm tháng tám". Như vậy trong truyền thống văn hóa phương Đơng trăng là một
phần khơng thể thiếu của vũ trụ." [2]. Còn ở đây, trong thơ của các thi nhân thời Thơ mới,
ngoài những ý nghĩa đó, trăng cịn mang nhiều lớp nghĩa khác: “Thu ôm muôn hồn chơi phiêu
diêu/Sao tôi không màng kêu: em yêu/ Trăng nay không nàng như trăng thiu/Đêm nay không
nàng như đêm hiu” (Tỳ Bà - Bích Khê). Trăng và nàng khó phân biệt, thực ảo lẫn lộn, trăng
lung linh kỳ ảo vì có nàng hay chính nàng là trăng?: trăng không nàng như trăng thiu, đêm
không nàng như đêm hiu. Trăng biểu trưng cho những gì tồn tại bất biến với thời gian, quay
về với thiên nhiên – là một cách thế tìm chốn trú ngụ giữa thế gian, trường tồn cùng trăng sao
bất diệt: “Bút thần: sông lạnh ánh sao rơi,/Sau nghìn thu nữa trên trần thế/Hồn vẫn về trong
bóng nguyệt soi (Lời tuyệt mệnh - Bích Khê).
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là sự phân thân của chính thi nhân, là một phần hữu cơ trong thân
thể người thơ: “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” (Say trăng –
Hàn Mặc Tử), nhưng đồng thời cũng hoá thân thành một người trăng song hành cùng thi nhân: “A
ha, a ha, ta đuổi theo trăng ta đuổi theo trăng/Trăng bay lả tả trên cành vàng” (Rượt trăng – Hàn
Mặc Tử)… “Chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa ” (Chơi giữa mùa trăng - Hàn Mặc Tử). Ở
đây, khó phân định rạch ròi chủ thể và đối tượng, ranh giới bị xóa nhồ. Hiện thực tri nhận được
là những tương đồng, nhoè mờ, lẫn lộn giữa thực và ảo, trăng và người, bên ngồi và bên trong.
Thế giới chìm sâu trong vơ thức phút chốc bỗng chói lồ hiển lộ trong dáng vẻ thanh khôi, tinh
khiết : “Bỗng hôm nay trước cửa bóng trăng quỳ/Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu” (Hãy
nhập hồn em - Hàn Mặc Tử). Những giai nhân mắt biếc, dáng ngọc, nguồn cơn của những thổn
thức, thét gào hay khát khao mơ mộng trong thơ Hàn Mặc Tử như Mộng Cầm, Thương Thương,
Mai Đình, Ngọc Sương,… giờ đây kết tinh và toả sáng trong dáng trăng quỳ, dáng liễu của những
nguyện cầu qua cơn hoạn nạn “Con xin dâng lời cảm tạ phò nguy/Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới
thế” (Aver Maria - Hàn Mặc Tử). Trong thơ Hàn Mặc Tử, “mùi trăng”, “hương trăng”, “vũng
trăng” thường đi cùng với những từ “máu”, “hồn”, “não cân”, những động tác “uống”, “nhai”,
“mửa”, “dìm”, những từ chỉ cảm giác và trạng thái “tê điếng”, “kinh động”, “mê dại”, “chết giấc”,

“rởn ốc”,... bởi trăng không là một thực thể vơ tri bên ngồi mà tồn tại như một ảnh phản của


BIỂU TƯỢNG TRĂNG TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN – HÀN MẶC TỬ- BÍCH KHÊ

303

chính thi nhân trong khát khao kiếm tìm, trở về với bản thể. Trăng vừa là sự khải thị một hiện
thực khác, ngoài hiện thực tri nhận được, tồn tại thẳm sâu trong vô thức con người, vừa là sự phân
xuất một cái tôi thi nhân, nghệ sĩ trong hành trình cơ đơn của sáng tạo.
Chế Lan Viên coi trăng cũng có cảm xúc, cũng biết ghì, biết ôm, biết riết như con người: “Ta
cởi truồng ra! Ta cởi truồng ra!/Ngoài kia trăng sáng chảy bao la/Ta nhảy vào quay cuồng thôi
lăn lộn/Thôi ngụp lặn trong ánh vàng hỗn độn/Cho trăng ghì, trăng riết cả làn da.” (Tắm trăng
- Chế Lan Viên).
Ta và trăng trong thơ Chế Lan Viên là hai thực thể đang hòa quyện vào nhau, thế nhưng có
lúc nhà thơ lại cho rằng mình là hiện hữu của trăng, thi nhân mơ được hóa thân vào chốn hư
không, vào cõi vĩnh hằng: “Tôi là kết tinh của ánh trăng trong/Sao không cho tôi đến chốn
Hư khơng.” (Tắm trăng - Chế Lan Viên).
Tự cho mình là kết tinh của ánh trăng, phải chăng Chế Lan Viên đang gửi gắm vào đây niềm
tâm sự của một kẻ lạc lồi, muốn chối bỏ thực tại, thốt khỏi chốn nhân gian - nơi mà với thi
nhân là cố quốc đã “điêu tàn”?
Cũng mang ý nghĩa hai nửa của một thực thể tinh thần, trăng và người hòa quyện vào nhau trong
sự phân thân của chủ thể sáng tạo nghệ thuật. Bích Khê đưa vào thơ một hình ảnh trăng thiu cịn
Hàn Mặc Tử thì trăng loạn và Chế Lan Viên lại có trăng điên. Những định ngữ đầy dụng ý nghệ
thuật này của các nhà thơ đã biến trăng thành một biểu tượng đặc biệt. Hàn Mặc Tử đưa ra hình
ảnh trăng loạn - phải chăng ở đây trăng khơng cịn là khách thể thẩm mỹ nữa mà trăng đã biến
thành chủ thể: người điên và trăng loạn?
“Xác ta sẽ hút bao nguồn trăng loạn/Ngấm vào trong cơ thể những hoa hương” (Hồn lìa khỏi
xác - Hàn Mặc Tử) “Mà trăng cũng điên rồi em ạ/Bỗng dưng sao rơi xuống đáy hồ sâu”
(Trăng điên - Chế Lan Viên).

Trăng là hóa thân của nhà thơ, chủ thể trữ tình đã hóa thân vào ánh trăng huyền bí, người
biến thành trăng và trăng chính là sự hóa thân của người: “Tôi chết giả và no nê vô
vạn/Cười như điên, sặc sụa cả mùi trăng/Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng/Hồn đã cấu, đã
cào, nhai ngấu nghiến/Thịt da tôi sượng sần và tê điếng/ Tơi đau vì rùng rợn đến vơ
biên/Tơi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/Cho trăng ngập, trăng dồn lên tới ngực”. (Hồn
là ai - Hàn Mặc Tử). Hàn Mặc Tử không chỉ say trăng, uống trăng mà cịn muốn dìm hồn
mình vào trăng. Trăng trong thơ Hàn lúc này không chỉ là một thứ rượu, là sóng, là nước
nữa mà trăng đã trở thành một nơi để thi nhân gửi gắm tâm hồn. Nhà thơ vẽ nên một hình
hài kỳ dị: Cười như điên, sặc sụa cả mùi trăng. Rõ ràng đây không phải là tiếng cười của
những cảm xúc bình thường như tiếng cười vui, tiếng cười hạnh phúc hoặc là tiếng cười của
nỗi đau bị dồn nén nữa mà là tiếng cười điên - tiếng cười bi kịch của một con người mang
bạo bệnh. Và tiếng cười ấy thấm đẫm mùi trăng, hay nói như chính nhà thơ: sặc sụa mùi
trăng. Cái đau từ thân xác - cảm giác nhục thể ấy thấm vào trong thơ. Hàn Mặc Tử làm bạn
cùng trăng, làm thơ với trăng và muốn mình được ngập vào trăng, hóa thành trăng. Những đêm
trăng sáng là không gian thơ mộng và đẹp đẽ, huyền bí cho thi nhân nhưng với Hàn Mặc Tử,
căn bệnh nan y đã khiến nhà thơ không thể ngắm trăng và say trăng trong vẻ đẹp kỳ diệu đó.
Bởi trăng cịn gắn với nỗi đau đớn tột cùng của thân xác thi nhân. Chính vì thế, trong thơ của thi
sĩ họ Hàn, trăng là bạn, là nơi bấu víu nhưng trăng cũng là kẻ đoạ đày, là sự cô đơn và tuyệt
vọng. Trăng Hàn Mặc Tử là hình bóng đi về của hai thế giới thực và ảo, đời thường và mộng
mơ, thể hiện sự thăng hoa của tư duy nghệ thuật.
Người và trăng là sự phân thân của một chủ thể, cái điên của người, của trăng xuyên thấm vào
nhau, ở trong nhau. Diễn đạt theo cách khác, có thể nói rằng trăng điên, trăng loạn là một


304

NGUYỄN THỊ MỸ THÁI - NGUYỄN THỊ HUẾ

phân thân của thi sĩ. Một cái tôi khác được tách ra từ một cái tơi tuyệt đối khác thường, đầy
kinh dị. Nó tồn tại như một ảo ảnh, một giấc mơ: “Ôi! say khướt mới dào tn ý tứ/Ơi! điên

rồ mới ngợp ánh trăng sao/Ôi! dâm cuồng mới biết giá trăng sao/Yêu bằng mộng là mơ tim
sáng láng. (Trái tim - Bích Khê); “Trăng nằm sóng sỗi trên cành liễu/Đợi gió đơng về để lả
lơi.” (Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử)
4. Biểu tượng trăng trong thơ Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, trở thành một tín hiệu
thẩm mỹ giàu giá trị nghệ thuật, dẫn dắt người phiêu du vào muôn vàn tầng bậc ý nghĩa.
Trăng và người trong thơ của các thi nhân có lúc là sự gắn kết, hịa quyện, có khi lại là sự
phân thân của một chủ thể trữ tình. Sự đa dạng, phong phú đó của biểu tượng khiến cho trăng
trong thơ của họ dù là một hình tượng thơ quen thuộc nhưng vẫn có những sức gợi, vẫn tạo
được sự liên tưởng mới mẻ, nhiều sáng tạo. “Nếu thơ ca trung đại được giải mã trong các hệ
hình sáng tạo truyền thống như: sùng cổ, ước lệ, phi ngã, cách điệu hóa,... thì Thơ mới xuất
hiện trong một sáng tạo hoàn toàn mới mẻ, những ký hiệu mưu toan cất giấu những phản hiện
thực, siêu thực,... đầy lạ lẫm so với loại hình thơ truyền thống. Hiện thực đời sống và bản chất
con người được đào sâu, tìm tịi, truy vấn và trở nên lấp lửng, mờ nhòe, mỗi sự sáng tạo trở
thành một trốn thoát vào các mơ mộng nghệ thuật.” [1, tr. 271]. Vậy phải chăng lối mộng của
các thi nhân thời Thơ mới (cụ thể ở đây là Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê) chính là
một lối thốt cho những ẩn ức tâm hồn đi vào thế giới nghệ thuật?
Thế giới biểu tượng thơ của Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê khơng chỉ có mỗi một
biểu tượng là trăng nhưng có thể nói trăng xuất hiện khá nhiều trong thơ của các thi nhân. Hầu
hết biểu tượng trăng đều mang những ý nghĩa đặc biệt, nó thể hiện những ham muốn tột cùng
của tư duy sáng tạo, nó cũng là sự thể hiện những ẩn ức bị dồn nén. Ý nghĩa của biểu tượng
ln là một q trình chuyển hóa, là một sự tương tác giữa cái tơi cá nhân của chủ thể sáng
tạo và công chúng, độc giả, với những người thưởng thức nghệ thuật. Thơ tái hiện những trải
nghiệm thẩm mỹ và kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân nghệ sĩ, để tiếp cận và lý giải thế giới
nghệ thuật ấy đòi hỏi ở người đọc những vốn văn hố và hiểu biết tương thích.
Con đường giải mã những biểu tượng thơ ca của các nhà thơ tên tuổi như Chế Lan Viên,
Hàn Mặc Tử, Bích Khê,… mãi mãi là một vùng huyền bí và đầy mời gọi, thôi thúc. Những
kiến giải về biểu tượng trăng góp thêm một cách nhìn về biểu tượng và sáng tạo nghệ thuật
của các thi nhân thời Thơ mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

[2]

Hoàng Thị Huế (2013). Biểu tượng giấc mơ trong thơ Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử (In trong
Thơ Mới, Tự Lực Văn Đồn, 80 năm nhìn lại), NXB Thế giới mới.
Hồng Thị Huế (2014). Thơ mới – nhìn từ quan hệ văn hoá văn học, NXB Hội Nhà văn.

Title: MOON SYMBOL IN CHE LAN VIEN, HAN MAC TU, BICH KHUE POETS
Abstract: Using symbol in creating art world is seen as a particularly effective way to create the
beauty, the sparkle magic ambiguity of poetry. Surveying moon symbol in Che Lan Vien, Han Mac
Tu, Bich Khe poets, we can explain the special of art thinking unique of these talented poets.
Keywords: moon, symbol
NGUYỄN THỊ MỸ THÁI
Học viên Cao học, chuyên ngành Văn học Việt Nam, khóa 22 (2012-2014), Trường Đại học Sư phạm
– Đại học Huế
TS. NGUYỄN THỊ HUẾ, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế



×