Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tinh thần dân tộc trong truyện ngắn yêu nước ở đô thị miền Nam 1954 – 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.49 KB, 14 trang )

Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

Số 15 - 2022

TINH THẦN DÂN TỘC TRONG TRUYỆN NGẮN YÊU NƯỚC
Ở ĐÔ THỊ MIỀN NAM 1954 – 1975
Phạm Khánh Duy*
Hội nhà văn TP. Cần Thơ
(Email: )
Ngày nhận: 29/11/2021
Ngày phản biện: 01/02/2022
Ngày duyệt đăng: 29/4/2022
TÓM TẮT
Truyện ngắn thuộc khuynh hướng yêu nước ở đô thị miền Nam 1954 - 1975 đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể, có những đóng góp khơng nhỏ cho diện mạo văn học lúc bấy giờ. Tinh
thần dân tộc là một trong những nội dung quan trọng của truyện ngắn u nước ở đơ thị
miền Nam 1954 - 1975. Có thể nói, nội dung này chính là điểm sáng, làm nên vị trí truyện
ngắn trong bức tranh văn học yêu nước. Trong bài viết này, chúng tơi đi vào tìm hiểu những
biểu hiện của tinh thần dân tộc qua truyện ngắn yêu nước ở đô thị miền Nam. Vấn đề tinh
thần dân tộc đã được các tác giả trong khuynh hướng văn học yêu nước thể hiện khá rõ nét,
thông qua đây, người đọc có thể nhận ra tấm lịng thiết tha yêu quê hương, đất nước của họ.
Từ khóa: Dân tộc, đô thị miền Nam, người chiến sĩ cách mạng, tinh thần dân tộc, truyện
ngắn yêu nước

Trích dẫn: Phạm Khánh Duy, 2022. Tinh thần dân tộc trong truyện ngắn yêu nước ở đô thị
miền Nam 1954 – 1975. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế
Trường Đại học Tây Đô. 15: 191-204.
*

Ths. Phạm Khánh Duy – Thành viên Hội nhà văn TP. Cần Thơ


191


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

1. GIỚI THIỆU
Dân tộc (Ethnic) vốn là một cách gọi
quen thuộc, thân thương và vô cùng
thiêng liêng của người Việt Nam. Trong
cơng trình Về khái niệm dân tộc và chủ
nghĩa dân tộc của Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã định
nghĩa: “Dân tộc là tên chỉ cộng đồng
người hình thành và phát triển trong lịch
sử, sau khi xã hội đã có sự phân chia giai
cấp và xuất hiện nhà nước”, “dân tộc là
cộng đồng những người cùng chung một
lịch sử (lịch sử hình thành và phát triển
của dân tộc), nói chung một ngơn ngữ,
sống chung trên một lãnh thổ, có chung
một nền văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng
nhất của từ này là tổng hợp các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra” (Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam, 2015). Từ đây, có thể thấy, tinh
thần dân tộc chính là sức mạnh của một
quốc gia, sự gắn bó chặt chẽ giữa những
người cùng chung tiếng nói yêu nước,
cùng chung khát vọng đánh đuổi giặc
ngoại xâm, các thế lực thù địch để bảo vệ

quê hương. Tinh thần dân tộc đã được nhà
văn thể hiện trong văn học mọi thời đại
với nhưng biểu hiện vơ cùng phong phú.
Đó là lịng tự tơn dân tộc, thể hiện qua sự
tự hào về một đất nước có truyền thống
anh hùng; niềm kiêu hãnh về những giá
trị văn hóa truyền thống, sự nỗ lực bảo vệ
thuần phong mĩ tục, lời ăn tiếng nói của
dân tộc; ý thức chủ quyền dân tộc, lịng
căm thù giặc sâu sắc, hành động sẵn sàng
tranh đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc.
Văn học yêu nước ở đơ thị miền Nam
hình thành trong một hồn cảnh vơ cùng
đặc biệt. Hiệp định Genève (20/7/1954)
đánh dấu sự thắng lợi của nhân dân ta

Số 15 - 2022

trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp kéo dài chín năm, Pháp buộc phải
chấm dứt chiến tranh xâm lược. Trong
điều khoản của Hiệp định Genève, đất
nước ta tạm thời chia ra làm hai miền
Nam, Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến
quân sự để lực lượng hai bên tập kết.
Ngay khi Pháp rút quân đội về nước, đế
quốc Mĩ đã nhảy vào thực hiện xâm lược
đối với miền Nam. Bên cạnh những chính
sách về chính trị, quân sự, kinh tế và
chính sách xâm lăng về văn hóa tư tưởng,

Mĩ cịn “xem văn nghệ như một công cụ
lợi hại nhằm nô dịch nhân dân miền Nam,
một thứ vũ khí hiệu quả chống lại cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân ta” (Phạm Thanh Hùng, 2012). Rõ
ràng, âm mưu của đế quốc Mĩ vô cùng
thâm hiểm, vừa bóc lột nhân dân ta bằng
đơi bàn tay bọc nhung, vừa “Chinh phục
trái tim và khối óc”, “Hủy diệt màu xanh
trong tâm hồn Việt Nam” (chữ dùng của
Claude Julien). Trong hoàn cảnh ấy, hoạt
động của văn học ở đô thị miền Nam diễn
ra vô cùng phức tạp, phân hóa thành ba
khuynh hướng nổi bật là văn học yêu
nước, văn học chống đối cách mạng và
văn học thoát ly, hưởng thụ. Đối với
khuynh hướng văn học yêu nước có thể
chia thành ba chặng đường phát triển
chính: Từ năm 1954 đến năm 1959, từ
năm 1959 đến năm 1963, từ năm 1964
đến năm 1975. Hịa cùng khơng khí của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dịng
văn học u nước ở đơ thị miền Nam đã
làm tròn sứ mệnh kêu gọi đấu tranh, tố
cáo bản chất vô nhân đạo của quân đội
Sài Gịn và chính sách xâm lược của Mĩ.
Văn học u nước quy tụ những gương
mặt xuất sắc sáng tác trên nhiều thể loại

192



Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

khác nhau, tiêu biểu như Sơn Nam, Vũ
Hạnh, Ngụy Ngữ, Huỳnh Ngọc Sơn, Trần
Hữu Lục, Lý Chánh Trung, Trần Quang
Long, Nguyễn Ngọc Lan, Trần Duy
Phiên, Võ Trường Chinh, Viễn
Phương,… Những tác giả này đã dùng
ngòi bút của mình để nói lên tiếng nói u
nước thương nịi, tiếng nói căm hờn chính
thể phi nhân và tiếng nói quyết liệt chống
lại âm mưu xâm lăng của đế quốc Mĩ.
Khảo sát hơn mười hai truyện ngắn trong
khuynh hướng văn học yêu nước ở đô thị
miền Nam của các tác giả Viễn Phương,
Vũ Hạnh, Việt Hà, Trần Duy Phiên,
Huỳnh Ngọc Sơn, Trần Quang Long,
Trần Hữu Lục, Bình Nguyên Lộc, Ngụy
Ngữ, Nguyễn Hoàng Thu, Vũ Duy, Biên
Hồ, Yên My, chúng tôi nhận ra hầu hết
các truyện ngắn được khảo sát đều mang
tinh thần dân tộc sâu sắc. Trong bài
nghiên cứu này, chúng tôi tập trung làm
sáng tỏ tinh thần dân tộc trong một số
truyện ngắn tiêu biểu của các tác giả kể
trên. Thông qua đây, phần nào nhận ra giá
trị của truyện ngắn yêu nước và những
đóng góp quan trọng của bộ phận văn học

yêu nước ở đô thị miền Nam trong dòng
chảy của văn học Việt Nam.
2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TINH
THẦN DÂN TỘC TRONG TRUYỆN
NGẮN YÊU NƯỚC 1954 - 1975
Trong dịng văn học u nước ở đơ thị
miền Nam, truyện ngắn được xem là thể
loại thành công nhất. Theo Bùi Thanh
Thảo: “truyện ngắn giữ vai trò là một
trong hai thể loại chủ đạo (cùng với thơ),
có nhiều đóng góp cho diện mạo văn học
yêu nước và cho phong trào đấu tranh
cách mạng ở miền Nam. Tuy nhiên cũng
vì tính chất này mà có quan niệm cho

Số 15 - 2022

rằng truyện ngắn đơ thị nặng về tính
tun truyền, cổ động, do đó hạn chế về
chất lượng nghệ thuật” (Bùi Thanh Thảo,
2016). Khảo sát một số truyện ngắn yêu
nước, chúng tôi nhận ra ở phương diện
nghệ thuật truyện ngắn yêu nước vẫn còn
gặp nhiều hạn chế, nhất là nghệ thuật xây
dựng nhân vật và kết cấu tác phẩm.
Nhưng đổi lại điểm sáng ngời trong
truyện ngắn yêu nước chính là tinh thần
dân tộc, là khát vọng đấu tranh giải phóng
miền Nam, khẳng định Nam - Bắc một
nhà, khơng có thế lực nào có thể chia cắt

được. Trần Hữu Tá cho rằng: “Chủ đề
yêu nước này được thể hiện với một nội
dung phong phú, vừa kế thừa sâu sắc tinh
hoa của truyền thống vừa có những sắc
thái mới, những khía cạnh mới. Cái mới
này sở dĩ có được là do hồn cảnh xã hội
lịch sử quy định” (Trần Hữu Tá, 2000).
Đây là một nhận định vô cùng xác đáng,
đề cao tư tưởng yêu nước trong truyện
ngắn thuộc khuynh hướng văn học yêu
nước ở đô thị miền Nam. Thông qua việc
thể hiện tư tưởng yêu nước, các tác giả
trong mảng sáng tác này trực tiếp thể hiện
tình yêu son sắt của mình đối với miền
Nam đang quằn mình trong thương đau,
sự gắn kết của cá nhân với vận mệnh
chung của Tổ quốc, dấy lên lịng căm thù
chính quyền Sài Gịn và lính viễn chinh
Mĩ trong quần chúng nhân dân.
2.1. Ca ngợi hình tượng người chiến
sĩ cách mạng
Trước hết, tinh thần dân tộc trong
truyện ngắn yêu nước ở đô thị miền Nam
được thể hiện ở thái độ ca ngợi hình
tượng người chiến sĩ yêu nước của các
nhà văn. Hình tượng người chiến sĩ yêu
nước trở thành một trong những hình

193



Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

tượng chủ đạo trong truyện ngắn yêu
nước ở đô thị miền Nam. Vượt qua sự
kiểm duyệt gay gắt của chính quyền Sài
Gịn, bằng cách này hay cách khác, hình
tượng người chiến sĩ yêu nước vẫn hiện
hữu trên trang viết của những nhà văn
sống và tiến bước dưới ngọn cờ của Đảng
Cộng sản. Tất nhiên, điều này khơng nằm
trong sự mong muốn của chính quyền Sài
Gịn khi họ vẫn ra sức kêu gọi đội ngũ nhà
văn “chống cộng” dùng ngịi bút của
mình để xun tạc hình ảnh người Cộng
sản và thành quả của cách mạng, bôi nhọ
miền Bắc và đề cao chính quyền Sài Gịn.
Như một sự chống trả quyết liệt, hễ phía
chính quyền Sài Gịn xuyên tạc dư luận
và “chống cộng” thông qua những sáng
tác của Chu Tử, Nguyễn Mạnh Cơn, Võ
Phiến, Đỗ Tấn,… thì các tác giả trong
dịng văn học u nước lại có những tác
phẩm mới đăng tải trên các nguồn khác
nhau như báo chí của thanh niên, học
sinh, sinh viên ở Sài Gịn, Huế, Đà Nẵng,
Đà Lạt, báo chí bán cơng khai hoặc bí mật
của các đồn thể u nước khác (phụ nữ,
cơng nhân, giáo chức,…). Đặc biệt là báo
chí tiến bộ xuất bản công khai, hợp pháp

như Nhân Loại, Duy Tân, Gọi Đàn, Bình
Minh, Dân Tộc, Dân Chủ, Dân Chủ
Mới,… Có thể nói rằng “việc đưa hình
ảnh người chiến sĩ vào tác phẩm là bước
tiến đáng kể” (Bùi Thanh Thảo, 2015).
Một trong những thủ pháp xây dựng
hình tượng người chiến sĩ cách mạng để
“qua mắt” chế độ kiểm duyệt khắt khe
của chính quyền Sài Gịn lúc bấy giờ là
đặt người chiến sĩ u nước trong một
khơng gian xưa cổ, hình tượng con người
hiện lên với những nét liêu trai, nhuốm
màu sắc huyền thoại. Có thể bắt gặp kiểu

Số 15 - 2022

người chiến sĩ yêu nước này trong truyện
ngắn Tiếng trúc Tiêu Lang của Viễn
Phương. Thoạt đầu, khơng dễ dàng để
đốn định được Tiêu Lang chính là hình
ảnh của người chiến sĩ cách mạng chống
qn lực Việt Nam Cộng hịa và chính
quyền Sài Gòn. Nhân vật Tiêu Lang được
Viễn Phương miêu tả với bề ngoài lãng
tử, với tài năng thổi trúc kỳ diệu, với sở
thích phiêu lưu khắp nơi “gót chân đã lê
khắp hải hồ”, “đã từng ngắm trăng trên
đỉnh Lam Sơn, chèo thuyền trên giịng
sơng Hát, ngâm thơ miền Hoa Lư động,
thổi trúc giữa Cổ Loa thành” (Trần Hữu

Tá, 2000). Đặt Tiêu Lang trong không
gian cổ trang cùng những địa danh nổi
tiếng của đất nước, nơi đã từng diễn ra
những chiến công oanh liệt của nhân dân
ta trong cuộc chiến đấu bảo vệ bờ cõi, xây
dựng non sông, Viễn Phương khiến cho
người đọc ngỡ như Tiêu Lang bước ra từ
thế giới cổ trang và câu chuyện về tiếng
trúc của chàng Tiêu Lang chỉ là một câu
chuyện xa xôi, huyền tưởng. Nhưng dụng
ý của Viễn Phương khơng chỉ như thế,
trong cuốn Nhìn lại một chặng đường văn
học, tác giả Trần Hữu Tá (2000) cho rằng
Viễn Phương “khai thác lối viết biểu
tượng hai mặt, dùng truyện lịch sử,
truyện dã sử Trung Hoa, truyện thần tiên,
ma qi để nói lên những ý tưởng của
mình”, đặc biệt “tinh thần bất khuất, kiên
quyết chống ngoại xâm, đấu tranh cho
độc lập dân tộc” (Trần Hữu Tá, 2000).
Tinh thần đấu tranh ấy được thể hiện ngay
trong lời mắng chửi của Tiêu Lang đối
với bọn giặc khi chúng dùng uy quyền ép
buộc Tiêu Lang thổi trúc để chúng “giải
muộn”: “Lang sói! Ngươi đã lầm, tiếng
trúc Tiêu Lang từ trước đến giờ chỉ dùng

194



Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

để ca ngợi cảnh giang san tươi đẹp của
Tổ quốc ta, để nói lên lịng dũng cảm, đức
hy sinh của dân tộc ta. Tiếng trúc Tiêu
Lang tuyệt khơng thể làm đồ chơi cho lồi
cướp nước!” (Trần Hữu Tá, 2000). Sự
phẫn uất tột độ của Tiêu Lang cũng chính
là sự phẫn uất, nỗi căm hờn của nhân dân
u nước trước chính quyền Sài Gịn và
đế quốc Mĩ.
Khi chiến tranh xảy ra, bất kể đàn ông,
đàn bà, bất kể người già hay người trẻ đều
hăng hái xung phong thực hiện nhiệm vụ
đối với quê hương, đất nước. Nhân vật
ông Năm nghèo khổ, tứ cố vô thân trong
truyện ngắn Ông lão gác mõ của tác giả
Việt Hà là hình ảnh của người chiến sĩ già
nua nhưng có tinh thần yêu nước mạnh
mẽ và khát vọng tham gia chiến đấu để
trả nợ nước thù nhà. Trong ông Năm vẫn
mang nặng một mối thù son sắt, đó là
động lực để người đàn ông khốn khổ này
tự nguyện “làm người giữ cái mõ canh
ngồi vàm sơng” (Trần Hữu Tá, 2000),
tính chất công việc vô cùng nguy hiểm:
gõ mõ báo động khi có giặc. Mặc dù già
về tuổi tác nhưng tinh thần chiến đấu bên
trong con người ấy lại vô cùng quyết liệt,
điều này được thể hiện cách làm việc gọn

gàng, dứt khốt, có trách nhiệm cao: “Mõ
khắc ba, khắc từng hồi thưa, hồi nhặt hồi
một, đều đúng răng rắc với cái nghĩa của
nó. Có điều người ta khơng hiểu ơng Năm
sao mà quá tài tình. Lão thăng thiên, độn
thổ ở đâu không biết mà hễ giặc vừa đi là
tiếng mõ hồi cư của lão tiếp liền theo
ngay” (Trần Hữu Tá, 2000). Tuy nhiên,
ơng lão gác mõ anh dũng ấy lại có kết cục
bi thảm, trong một lần gõ mõ báo động,
ông Năm đã bị giặc sát hại, “đầu bị chặt
lìa khỏi cổ” (Trần Hữu Tá, 2000). Cái

Số 15 - 2022

chết đau thương của ông Năm là dấu
chấm hết cho một cuộc đời đầy hận thù
và hết lòng trung trinh với đất nước, trở
thành tấm gương sáng để thế hệ Tư Có,
bảy Tửng và từng đoàn trai trẻ trong ấp
Long Hạ noi theo, quên thân mình phụng
sự cho đất nước.
Khi tái hiện hình ảnh người chiến sĩ
cách mạng, truyện ngắn yêu nước ở đô thị
miền Nam không né tránh những mất
mát, đau thương mà họ phải gánh chịu.
Trong hệ thống truyện ngắn u nước có
một nhóm truyện tập trung xây dựng hình
ảnh người chiến sĩ cách mạng thất thế,
hoặc hy sinh như ông Năm trong Ông lão

gác mõ của Việt Hà, hoặc rơi vào cảnh tù
đày, bị giam cầm, bị hành hạ dã man.
Nhóm truyện ngắn này khơng làm cho
người chiến sĩ cách mạng nhụt chí, ngược
lại, hình ảnh con người bị tù đày, tra tấn
bằng những cách tàn độc nhất đã phần
nào vạch trần sự thâm độc, hung ác của
chính quyền Sài Gòn và đế quốc Mĩ. Bùi
Thanh Thảo cho rằng: “Trang viết về đời
sống của những người chiến sĩ trong tù
ln đi cùng với những địn tra tấn man
rợ, những thủ đoạn lấy cung nham hiểm,
những bữa ăn mốc meo dòi bọ, những
phòng giam chật chội bẩn thỉu… Nhưng
các tác giả miêu tả những điều đó khơng
phải như hậu quả của hành động đấu
tranh mà chỉ là phông nền để làm nổi bật
một điều khác: ý chí vững vàng, tinh thần
lạc quan cách mạng ở người tù và niềm
tin tưởng nơi người thân của họ” (Bùi
Thanh Thảo, 2015). Nhân vật Phan trong
truyện ngắn Bông cúc vàng của Trần
Quang Long là hình ảnh tiêu biểu của
người chiến sĩ bị tù đày. Tác giả đã dựng
lên khơng gian ngục tù của chính quyền

195


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đơ


Việt Nam Cộng hịa, ở đó có những bữa
ăn tồi tàn “cơm với muối tiêu”, căn phịng
chật hẹp ẩm thấp “vng vức mỗi bề độ
hai thước rưỡi, phía trước, bên tay trái là
một khung cửa sổ với song sắt đường kính
hai phân, nhìn ra một nhà cầu dùng làm
nơi tắm rửa và giặt quần áo”, trên tường
là “xác rệp, máu muỗi, những búng máu
từ trong buồng phổi” (Nhiều tác giả,
1990) tạo thành một cảnh tượng kinh hãi,
chết chóc. Cuộc đời người chiến sĩ bấy
giờ bị thu lại trong bốn bức tường dơ bẩn,
tăm tối, bao ước mơ hồi bão tạm gác lại,
cũng có trường hợp nhà ngục là nơi dừng
chân cuối cùng trong cuộc đời người
chiến sĩ u nước. Hình ảnh cơ gái ngồi
thêu trong căn phịng đối diện cũng cùng
chung hồn cảnh, thân phận với Phan.
Sau mỗi cuộc thẩm vấn, người con gái trở
về phịng giam với bề ngồi tiều tụy, cơ
thể đầy thương tích. Nỗi ám ảnh của
những người cách mạng khi rơi vào nhà
tù của chính quyền Sài Gịn là “tiếng đập
bàn la hét của nhân viên thẩm vấn”,
“tiếng roi vun vút trong khơng khí”,
“những sợi dây điện trong phịng thẩm
vấn” (Nhiều tác giả, 1990). Nhiều chiến
sĩ đã hy sinh trong tù, nhiều chiến sĩ may
mắn thoát ra khỏi nhà ngục bằng cách

vượt ngục hoặc hy sinh trong chính cuộc
vượt ngục nguy hiểm như nhân vật anh
Năm trong truyện ngắn Người bắt ruồi
của Nguyễn Hoàng Thu: “Anh Năm nằm
co quắp chân tay và đơi mắt đứng trịng…
Trong đám đơng qn phạm đang bu
quanh xác chết, một người bạn tù bước
đến gần, cúi xuống, sửa lại thế nằm và
vuốt mắt cho anh” (Nhiều tác giả, 1986).
Cái chết của anh Năm là cái chết đau
thương, tức tưởi, bởi lẽ anh đã hy sinh khi

Số 15 - 2022

sắp sửa bước ra cuộc sống tự do ngồi
kia.
Nhân vật “tơi” trong truyện ngắn Nắng
đẹp sân trường của Trần Duy Phiên thuộc
kiểu người chiến sĩ yêu nước chiến đấu
trên mặt trận văn hóa, nghệ thuật. “Tơi”
là một người yêu văn chương, ham viết
lách, mong muốn dùng ngòi bút của mình
để viết lại tuổi ấu thơ của mình, về gia
đình có truyền thống u nước với người
cha “vượt Trường Sơn”, đi kháng chiến,
về người mẹ xấu số lìa đời dưới họng
súng của quân thù: “Chúng bắn mẹ gục
ngã trên ruộng đồng. Bà con đưa mẹ lên
nhà thương thí và mẹ trút hơi thở cuối
cùng”, về “những người cha bị bọn quỷ

ám kết án lưu đày” (Trần Hữu Tá, 2000).
Đồng thời, nhân vật “tơi” muốn dùng sức
mạnh của ngịi bút để lên án tội ác của
những kẻ đã gieo rắc thương đau tang tóc
cho quê hương. Đó là cách để người trí
thức chống trả với kẻ có âm mưu “bơi mờ
ánh sáng Điện Biên” (Trần Hữu Tá,
2000), làm méo mó những trang sử vẻ
vang và thành quả của cách mạng Việt
Nam. Một sự thật hiển nhiên là những
trang viết của nhân vật “tơi” khơng dễ
dàng để qn đội Sài Gịn cho phát hành
rộng rãi. Tư tưởng yêu nước của nhân vật
“tơi” đối nghịch hồn tồn với âm mưu
nơ dịch nhân dân miền Nam và cướp
nước của chủ nghĩa thực dân mới. Nhân
vật “tôi” được Trần Duy Phiên đặt trong
thế đối đầu với chế độ kiểm duyệt gắt gao
của chính quyền Sài Gịn mà đại diện
chính là tên ủy viên vốn là “một cán bộ
kháng chiến trở về đầu thú” (Trần Hữu
Tá, 2000). Với bản chất hèn hạ của một
người đã rời bỏ hàng ngũ cách mạng quay
về phục dịch cho chính quyền Sài Gịn,

196


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô


tên ủy viên không dễ dàng đóng dấu kiểm
duyệt cho tập bản thảo của “tơi”: “Y chê
văn của chúng tôi dở”, “Y bảo văn
chương của chúng tôi bôi đen xã hội miền
Nam”, “Y yêu cầu để y sửa lại một số bài
vở” (Trần Hữu Tá, 2000), thậm chí tên ủy
viên cịn dọa sẽ đưa “tơi” vào tù và đớn
đau nhất là “rút hết máu tập bản thảo”
(Trần Hữu Tá, 2000). Trước tình huống
ấy, nhân vật vô cùng căm phẫn “ước mơ
giết được y, giết cái thứ nham hiểm, âm
ác và bẩn thỉu” (Trần Hữu Tá, 2000).
Người trí thức u nước chiến đấu bằng
ngịi bút trên mặt trận văn hóa tư tưởng
cũng là một trong những kiểu chiến sĩ
cách mạng phổ biến trong truyện ngắn
yêu nước giai đoạn 1954 - 1975. Từ
những cán bộ cách mạng, những người
trực tiếp cầm súng đến những trí thức cầm
bút chiến đấu, có thể thấy, tinh thần yêu
nước trở thành một dòng chung chảy
mãnh liệt trong trái tim của những con
người Việt Nam yêu nước thương nòi.
Mặc dù ở một số truyện ngắn u nước
ở đơ thị miền Nam, hình tượng người
chiến sĩ cách mạng được các tác giả xây
dựng sơ sài, chưa làm nổi bật được cá tính
của từng nhân vật nhưng khơng vì thế mà
nhân vật vơ nghĩa hoặc nhạt nhịa trên
trang văn. Thật ra khơng phải các tác giả

khơng ý thức được điều đó, song vì hồn
cảnh lịch sử và chế độ kiểm duyệt khắt
khe của chính quyền Sài Gịn nên đơi khi
nhân vật phải được “đơn giản hóa” để dễ
dàng sinh thành giữa lịng đơ thị. Hơn hết,
hình tượng người chiến sĩ u nước đã
góp phần thức tỉnh ý chí đấu tranh của
người đọc, truyền vào bên trong độc giả
lòng yêu nước nồng nàn và ý thức tiến
bước dưới ngọn cờ cách mạng để hướng

Số 15 - 2022

đến tương lai tươi sáng, về một ngày
không xa miền Nam sẽ được giải phóng.
2.2. Vạch trần bộ mặt tàn độc của
quân đội Sài Gòn và quân xâm lược
Mỹ
Bằng lòng căm thù sâu sắc, các tác giả
truyện ngắn yêu nước giai đoạn 1965 1975 đã vạch trần bản chất vơ nhân đạo
của qn đội Sài Gịn, chế độ Sài Gòn và
quân xâm lược Mĩ. Một trong những nội
dung quan trọng của truyện ngắn yêu
nước ở đô thị miền Nam là vạch trần bản
chất thâm hiểm, vô nhân đạo của chính
quyền Sài Gịn và qn xâm lược Mĩ.
Trong nhiều truyện ngắn, người cầm bút
đã khắc họa sinh động những hình ảnh
này, cụ thể là làm rõ bộ mặt gian dối, tàn
ác của bọn quan chức ngụy quyền dưới

thời Ngơ Đình Diệm, qn lực Việt Nam
Cộng hịa, lính viễn chinh Mĩ. Thơng qua
việc xây dựng hình ảnh kẻ thù, truyện
ngắn u nước “tập trung thể hiện nội
dung đấu tranh chống chính thể phi
nhân”, “kín đáo khơi gợi lịng căm thù tội
ác, sự phẫn nộ trước sức sống và vẻ đẹp
nhân văn bị dập vùi” (Phạm Thanh Hùng,
2012).
Bằng cách phục dựng lại khơng khí
của đất nước trong thời phong kiến,
truyện ngắn Bút máu của Vũ Hạnh đã
khéo léo đề cập đến bọn quan chức ngụy
quyền với bản chất thâm hiểm, lọc lõi
tham lam và phi nhân tính. Trong truyện
ngắn Bút máu, ngồi việc Vũ Hạnh đặt ra
vấn đề về trách nhiệm của người cầm bút
đối với xã hội, tác giả còn khắc họa hình
ảnh của những kẻ ngụy quyền dưới thời
Ngơ Đình Diệm. Họ đã được Vũ Hạnh
“hóa trang” bằng một vẻ ngoài những tên

197


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

quan lại của xã hội phong kiến Trung
Hoa. Hình ảnh tên Tổng trấn “vóc dạng
phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn

cầm tang vật là mảnh hoa tiên” (Vũ
Hạnh, 2020) đã khiến Lương Sinh lầm
tưởng là bậc tao nhân mặc khách, yêu văn
chương và có cốt cách thanh cao, trong
sáng. Nhưng thực tế cái vẻ bề ngoài của
Lý Tổng trấn đã đánh lừa Lương Sinh,
đằng sau lớp ngụy trang của hắn là bản
chất “độc dữ hơn hùm beo” (Vũ Hạnh,
2020). Dưới chính sách cai trị của Lý
Tổng trấn, đời sống của nhân dân trở nên
cơ cực lầm than, lòng dân li tán, nỗi phẫn
uất của dân chúng ngày một chất chồng:
“Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt
của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm
beo, đồng ruộng gầy khơ, dân làng đói
rách”, “Bao người phải chết vì nỗi cực
hình thảm khốc, vợ góa con cơi, một trời
nước mắt” (Vũ Hạnh, 2020). Tính đả
kích được Vũ Hạnh thể hiện khá rõ khi
xây dựng hình tượng Lý Tổng trấn.
Khơng gian vùng đất mà Lý Tổng trấn cai
quản trong truyện chính là hình ảnh của
miền Nam đau thương, cơ cực, nhân dân
rơi vào cảnh bần cùng hóa. Tương tự Vũ
Hạnh, tác giả Viễn Phương cũng chọn
cách “hóa trang” cho nhân vật, tơ vẽ cho
nhân vật những nét bút cổ kính, liêu trai
để tác phẩm vượt qua sự kiểm duyệt gắt
gao của chính quyền Sài Gịn. Hình ảnh
quân xâm lược Mĩ đã được Viễn Phương

tái hiện thông qua diện mạo của “quân
giặc dữ từ phương xa tràn đến, lăm lăm
chinh phục cả sơn hà”, khiến “Tổ quốc
Việt Nam oằn oại rên xiết” (Trần Hữu Tá,
2000). Điểm khác biệt rõ nhất so với Vũ
Hạnh là Viễn Phương đã mạnh dạn đưa
hình ảnh đất nước Việt Nam vào trang

Số 15 - 2022

văn chứ không phải không gian của một
Trung Hoa xa xôi nào. Dù không trực tiếp
tái hiện nỗi đau của miền Nam, song cả
hai truyện ngắn Bút máu, Tiếng trúc Tiêu
Lang vẫn đạt được hiệu quả tố cáo lớn
lao.
Rất nhiều lần chế độ Sài Gòn đã đi vào
trang văn của các tác giả trong dòng văn
học yêu nước ở đô thị miền Nam. Ở mỗi
truyện ngắn, nhà văn có một cách xây
dựng, lồng ghép khác nhau nhưng suy
cho cùng tất cả đều nhằm mục đích vạch
trần bản chất phi nhân của chế độ Sài Gòn
đang ra sức “chống cộng”, bóc lột nhân
dân, tăng cường phổ biến văn hóa thực
dân mới trên khắp miền Nam nước ta. Có
thể bắt gặp hình ảnh những tên cán bộ
dưới sự sai khiến của chế độ Sài Gòn và
đế quốc Mĩ trong những truyện ngắn như
Vùng biển động của Vũ Duy, Nắng đẹp

sân trường của Trần Duy Phiên, Bông
cúc vàng của Trần Quang Long, Con chó
xù của Lưu Nghi, Nước vỗ chân cầu của
Huỳnh Ngọc Sơn,… Chế độ Sài Gòn đã
dồn đẩy nhân dân miền Nam nói chung,
thị dân sống trong lịng đơ thị miền Nam
nói riêng đến bước đường cùng. Đó là
những tên cán bộ trong sở Mĩ, nơi Bạch
xin việc trong truyện ngắn Vùng biển
động của Vũ Duy. Chúng năm lần bảy
lượt gây khó dễ cho thị dân, lộ rõ bản chất
dâm loàn của những kẻ ảnh hưởng sâu sắc
bởi văn hóa đồi trụy, lối sống “Mĩ hóa”:
“Cái cảnh lên cầu thang bị một ngoại
kiều đùa nghịch vỗ đít, mới đầu cịn khó
chịu sau quen dần, trơng thực kỳ cục,
nhưng khơng ai phản đối vì phản đối có
thể bị đuổi” (Trần Hữu Tá, 2000). Thậm
chí, bọn chúng cịn đùa nghịch trên cơ thể
người phụ nữ, xem giá trị của người phụ

198


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

nữ chỉ bằng “xấp bạc trong tay” để rồi
cuối cùng Bạch đã phải sinh ra một đứa
trẻ “lai da đen”, “tóc quăn như bị cháy
xém” và “nước da xám xịt” (Trần Hữu

Tá, 2000). Hạnh phúc gia đình Bạch vỡ
tan, tựa như một vùng biển động. Đó là
tên ủy viên kiểm duyệt trong truyện ngắn
Nắng đẹp sân trường của Trần Duy Phiên
- hình ảnh của một tên tay sai trung thành
của chế độ thực dân mới. Tác giả thể hiện
nỗi phẫn nộ, sự căm ghét trước thái độ
nhiễu nhương, trơ trẽn và thị oai của tên
ủy viên kiểm duyệt: “Chiếc bàn lạnh và
lộn xộn những giấy tờ. Ơng ủy viên kiểm
duyệt ngồi đó, cái kéo trong tay. Y là một
cán bộ kháng chiến trở về đầu thú. Cái
giẻ rách ấy không biết ai đã nhặt và đặt
vào đây với cơng việc gạn lọc văn hóa. Y
ốm như một con chuột mùa dịch, da xù xì,
đầu những sẹo và lớt phớt tóc như lịng
chó ghẻ” (Trần Hữu Tá, 2000). Đó là tên
thiếu úy - kẻ “bám đi” Mĩ để được
hưởng chút danh vọng hão huyền trong
truyện ngắn Nước vỗ chân cầu của Huỳnh
Ngọc Sơn. Nhân vật thiếu úy được Huỳnh
Ngọc Sơn miêu tả trong khoảng thời gian
rất ngắn (chưa đầy một ngày) nhưng lộ rõ
bản chất thật của một kẻ nhu nhược yếu
hèn (lo sợ cái xác chết trôi dưới chân cầu
là người của cách mạng ngụy trang để
giật mìn), đặc biệt là sự tham lam, thói
nịnh hót và bản tính mưu cầu danh lợi:
“Thiếu úy nghĩ đến phút cầm cây súng aka trong tay trình với thượng cấp. Rồi
được ân thưởng huy chương anh dũng bội

tinh với nhành dương liễu; rồi ban khen
ghi công trạng vào sổ vàng để chóng thay
vị đổi ngơi” (Nhiều tác giả, 1997). Đó
cịn là cách đối xử tàn bạo của chế độ Sài
Gòn đối với bệnh nhân trong truyện ngắn

Số 15 - 2022

Bơng cúc vàng của Trần Quang Long:
“Có bệnh nhân đang bị xiềng chân vào
cột giường. Có bệnh nhân đang còng
chân vào lẫn nhau” (Nhiều tác giả,
1990). Trước mắt Phan, phòng bệnh của
tù nhân chẳng khác nào “một địa ngục có
trong tưởng tượng của anh từ dạo bé”
(Nhiều tác giả, 1990). Tất cả những điều
mà các tác giả trên thể hiện trong truyện
ngắn yêu nước đều được chắt lọc từ hiện
thực cuộc sống lúc bấy giờ, một hiện thực
nhốn nháo, ngột ngạt, một hiện thực thảm
khốc với biết bao thân phận bị vùi dập
trong máu và nước mắt.
Hình ảnh lính viễn chinh Mĩ cũng là
một trong những đối tượng để các tác giả
thể hiện với thái độ căm ghét, uất hận,
khinh bỉ. Trần Hữu Tá cho rằng: “Nhiều
tác phẩm đã làm rõ thực trạng này: nhân
dân căm ghét Mĩ và sự hiện diện của
chúng tạo ra nguy cơ thường trực cho
từng người, từng gia đình. Mỗi người và

con em của họ đều bị nhấn sâu vào vực
thẳm của sa đọa và tội lỗi. Hạnh phúc của
từng mái nhà trở nên hết sức mong
manh” (Trần Hữu Tá, 2000). Với tinh
thần dân tộc mạnh mẽ có nguồn gốc từ
lịng u nước thiết tha, truyền thống anh
hùng, bất khuất chống ngoại xâm được
kết tinh từ ngàn xưa, người Việt Nam đã
quật khởi đứng lên, “Họ đã sống và chết
- Giản dị và bình tâm” (Nguyễn Khoa
Điềm) để đánh thù, bảo vệ Tổ quốc.
Truyện ngắn yêu nước đã ghi lại tất cả
những tình cảm ấy, trong đó có lịng căm
thù qn xâm lược Mĩ đặt chân lên mảnh
đất thân yêu. Hình tượng nhân vật
Hardley trong truyện ngắn Sa lầy của Yên
My chính là tên lính viễn chinh Mĩ bị dư
luận căm ghét. Thơng qua tâm trạng bức

199


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đơ

xúc của cơ gái vì theo tên lính Mĩ Hardley
mà bị gia đình, q hương cự tuyệt, Yên
My đã bày tỏ thái độ đối với kẻ gieo rắc
đau thương cho quê hương, cho rằng
Hardley là loài quạ đen để mang tới nỗi
bất an dằng dặc. Đó là chưa kể nhiều tác

phẩm cịn xốy sâu vào tội ác làm bại hoại
phong tục, tập quán được hình thành từ
ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Bằng tinh
thần dân tộc, các tác giả đã vạch trần bộ
mặt thâm hiểm, xảo trá, tàn bạo, độc ác,
man rợ của nhóm nhân vật này. Từ đó, tác
giả đánh thức lịng căm thù giặc và ý thức
chiến đấu ở người chiến sĩ cách mạng yêu
nước.
2.3. Lời kêu gọi tìm về dân tộc và
vùng lên đấu tranh
Một trong những nội dung quan trọng
nhất của tinh thần dân tộc trong truyện
ngắn yêu nước ở đô thị miền Nam là lời
kêu gọi tha thiết, hướng tới ánh sáng.
Tinh thần dân tộc trong truyện ngắn yêu
nước cịn được thể hiện thơng qua một
nội dung lớn: Lời kêu gọi tha thiết, hướng
tới ánh sáng. Đó là lời kêu gọi “tìm về dân
tộc” (chữ dùng của Lý Chánh Trung), bồi
đắp trong lịng mình tình u q hương,
đất nước Việt Nam. Trong Tìm về dân
tộc, Lý Chánh Trung viết: “Dân tộc là
một tồn thể, văn hóa cũng là một tồn
thể, hay là như bây giờ người ta thường
nói một “cơ cấu” (gestal) có tính cách
độc đáo trong mỗi thành phần chỉ có thể
hiểu được trong mối tương quan giữa nó
và cái tồn thể. Khơng thể chấp nhận
“một phần” văn hóa mà khơng biết đến

cái phần kia. Khơng thể ăn gạo của người
nông dân Việt Nam mà không biết đến ca
dao Việt Nam. Chỉ có một cách sống với
dân tộc là chấp nhận tồn diện nền văn

Số 15 - 2022

hóa dân tộc, cũng như chỉ có một cách
u tồn diện một người” (Lý Chánh
Trung, 1967). “Tìm về dân tộc” đồng
nghĩa với việc bài trừ lối sống “Mĩ hóa”,
khước từ sự du nhập, xâm lăng về văn hóa
tư tưởng của Mĩ.
Nhiều nhà văn trong dịng văn học u
nước ở đơ thị miền Nam lúc này đã phơi
bày thực trạng mất gốc, chỉ rõ tác hại, sự
xấu xa của lối sống và văn hóa trong âm
mưu xâm lược của Mĩ đối với nước ta.
Trong truyện ngắn Những đứa con
thương của đất mẹ, Bình Nguyên Lộc đã
tái hiện âm mưu xâm lăng văn hóa, tư
tưởng của Mĩ qua hành động của đám đàn
ơng “Huê Kỳ” ép những bà vợ người Việt
“phải nghe nhạc của lũ nó”, “ăn tồn đồ
hộp”… Điều đáng trân trọng là những bà
vợ Việt mang danh “me Huê Kỳ” bị
khinh bỉ đó vẫn nỗ lực gìn giữ bản sắc của
dân tộc mình, “khơng vong gia, vong
bổn”, chẳng hạn như “chỉ mê vọng cổ của
đài Sài Gòn” (Trần Hữu Tá, 2000) chứ

khơng nghe được nhạc ngoại, thích “ăn
bánh xèo với nước mắm chanh ớt” (Trần
Hữu Tá, 2000) hơn đồ hộp của Mĩ. Đối
lập với họ, Lucie Minh, cô bạn gái của
Tuấn lại bị ảnh hưởng đậm đà bởi văn hóa
Mĩ. Ngay trong cái tên “Lucie Minh” nửa
Âu nửa Á của cô cũng cho thấy sự nhố
nhăng, hỗn độn, khiến Tuấn xót xa nhận
ra: “Lucie đã bị Âu hóa đậm quá đi rồi”
(Trần Hữu Tá, 2000). Từ nền tảng trên,
truyện ngắn Những đứa con thương của
đất mẹ đi đến luận điểm “tìm về dân tộc”.
Bình Ngun Lộc khơng hơ hào, lên
giọng khi kêu gọi “tìm về dân tộc” mà
đơn giản, nhẹ nhàng nhưng đầy ẩn ý
thơng qua dịng suy nghĩ của nhân vật
Tuấn: “Tuấn xem nàng (Lucie) là một

200


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

người bạn tâm đầu ý hiệp, một nhơn tình
lý tưởng, nhưng khơng thể là một người
vợ đủ khả năng thực hiện ý chí ký thác
truyền thống dân tộc lại cho con cái của
chàng” (Trần Hữu Tá, 2000). Rõ ràng,
điều mà Tuấn cần chính là một người vợ
biết giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam, đó

có thể khơng phải là một cơ gái xinh đẹp,
sang trọng, danh giá, chỉ cần là một cơ gái
bình thường mang trong mình tinh thần
dân tộc sâu sắc như những “me Huê Kỳ”
thì Tuấn cũng chấp nhận. Trong tâm
khảm của nhân vật này, hai tiếng “Dân
Tộc” thiêng liêng hơn bất kỳ ký hiệu
ngơn ngữ nào khác. Tiếng nói “tìm về dân
tộc” cũng sơi nổi trong truyện ngắn Tìm
gặp q hương của Biên Hồ. Đó là nhận
thức đúng đắn của nhân vật “tôi” sau
những năm tháng bôn ba trong thành phố
giàu có, văn minh và trí thức: “Mãi đến
bây giờ, tơi mới tìm thấy đồng bào, tìm
thấy Dân tộc Việt Nam mình đó. Tơi sinh
ra ở đây, bên đồng bào bên má, bên
những người Việt Nam nghèo khổ và đói
rách, khơng có được chút bình n. Q
hương tơi đó, nước Việt Nam của tơi đó,
Dân tộc tơi đó, tơi khơng sống với q
hương, với Dân tộc thì tơi biết sống với
ai?” (Trần Hữu Tá, 2000). Chan chứa
trong lời độc thoại nội tâm là niềm tự hào
của “tôi”, việc sử dụng ngôi kể thứ nhất
(số ít), người kể xưng “tơi” cho thấy câu
chuyện được viết ra từ những trải nghiệm
cá nhân, là dịng cảm xúc chân thật của
người kể. Từ đó, truyện ngắn Tìm gặp q
hương nói riêng và những truyện ngắn
u nước sử dụng ngơi kể thứ nhất nói

chung tạo được sự tin cậy nhất định trong
lòng độc giả.

Số 15 - 2022

Bên cạnh đó, truyện ngắn u nước ở
đơ thị miền Nam còn vang vọng một lời
kêu gọi chiến đấu, kêu gọi tập hợp sức
mạnh của dân tộc vùng lên bảo vệ quê
hương, hướng đến mục tiêu chung là giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong truyện ngắn Còn quê hương để trở
về, Trần Hữu Lục đã xây dựng một chi
tiết vô cùng đắt giá: Nhân vật anh T. đã
để lại quyển nhật ký khi thốt ly đấu
tranh, đó là cuốn nhật ký được viết bằng
tâm huyết, bằng tình yêu quê hương da
diết của T. Những dịng viết của T. có tác
dụng đánh thức ý chí chiến đấu của thế hệ
kế tiếp, tiếp thêm sức mạnh và tình yêu
quê hương để “tơi” tiếp bước lên đường:
“Cũng có lần, nàng đọc cho nghe mấy
trang nhật ký của anh T. để lại. Chính vào
những giây phút đó, người như bị lửa đốt,
tơi muốn vùng lên, đạp đổ tan tành, giết
hết những người lạ mặt đang cướp đoạt
đời sống và đang săn đuổi tôi”(Trần Hữu
Tá, 2000). Ý nghĩa kêu gọi, thúc giục thế
hệ trẻ xuống đường làm tròn sứ mệnh của
những người trẻ tuổi và tràn đầy nhiệt

huyết còn nằm ngay ở lời tâm sự xúc
động của nhân vật “tôi” (người đã được
giác ngộ lí tưởng cách mạng và quyết tâm
ra đi) ở cuối truyện: “Tơi ngậm ngùi với
những chia lìa đau đớn. Nhưng thà bỏ đi
cịn có q hương để trở về cịn hơn suốt
đời làm một kẻ bị săn đuổi” (Trần Hữu
Tá, 2000. Trần Hữu Lục chọn bối cảnh
Đà Lạt - trung tâm tranh đấu quan trọng
ở miền Nam lúc bấy giờ làm nơi để “tôi”
ra đi và khát khao được trở về trong niềm
vui chiến thắng. Tiếng nói, khát vọng,
tâm nguyện của nhân vật “tơi” đã hịa vào
dịng chung của thế hệ trẻ Việt Nam
những năm 1954 - 1975.

201


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

Mặc dù sử dụng bối cảnh cổ kính,
huyền ảo, song truyện ngắn Tiếng trúc
Tiêu Lang của Viễn Phương cũng mang
tính chất kêu gọi, thúc giục, có giá trị
trong bối cảnh đất nước giai đoạn 1954 1975. Thứ nhất, truyện ngắn Tiếng trúc
Tiêu Lang là lời kêu gọi đánh thức tình
yêu quê hương, tình yêu đồng loại trong
tâm khảm mỗi người: “Tiếng trúc vẫn dìu
dặt ngân cao. Này đây tiếng rộn rã của

buổi đầu xuân ấm áp. Tiếng tiêu như nhắc
lại những ngày tươi đẹp của buổi thanh
bình, thuở ấy người đời khơng ham chém
giết chỉ biết yêu thương” (Trần Hữu Tá,
2000). Thứ hai, truyện vang lên lời kêu
gọi chiến đấu chống lại thế lực thù địch,
đánh đuổi những kẻ gieo rắc đau thương
cho quê hương, làm tàn phai phong cảnh
và những giá trị dân tộc, kêu gọi đồng bào
đứng dậy bảo vệ quê hương: “Tiếng trúc
thúc giục mn lịng xơng ra cứu nước”,
“Phải cứu lấy non sông đất nước! Phải
cứu Tiêu Lang! Tiêu Lang sắp tan tành
trong vực thẳm” (Trần Hữu Tá, 2000).
Điệp khúc “Cứu lấy quê hương! Cứu lấy
Tiêu Lang” vang lên hơn bốn lần trước
khi truyện khép lại. Những âm thanh hào
sảng đó cứ vang vọng vào lòng, khẳng
định sự anh dũng, bất khuất của một dân
tộc ngàn năm không chịu khuất, sự đồng
lịng, đồng sức, ý chí chiến đấu mãnh liệt
của dân tộc. “Tiếng trúc Tiêu Lang” là sự
ẩn dụ cho những giá trị văn hóa dân tộc,
cho vẻ đẹp riêng, bản sắc riêng của một
dân tộc. “Cứu lấy Tiêu Lang” chính là
cứu lấy những giá trị tinh thần bền vững
đó. Từ âm thanh tiếng trúc mang ý nghĩa
kêu gọi của Tiêu Lang, một cuộc đồng
khởi đã nổ ra: “Bầu máu sôi lên sùng sục,
lệ căm hờn ngưng đọng trên khóe mắt,


Số 15 - 2022

không ai bảo ai, muôn vạn người đều ồ ạt
tuôn xuống núi…” (Trần Hữu Tá, 2000).
Ra đời năm 1957, song có thể xem hình
ảnh của cuộc đồng khởi trong Tiếng trúc
Tiêu Lang là sự dự báo cho một viễn cảnh
tươi đẹp, huy hồng trong tương lai. Đó
là sự kiện xe tăng của Quân Giải phóng
tiến vào Dinh Độc Lập - trung tâm đầu
não cuối cùng của chính quyền ngụy Sài
Gòn, đánh dấu kết thúc cuộc chiến tranh
phi nghĩa chia cắt dân tộc Việt Nam suốt
hai mươi năm.
Dù ít hay nhiều thì truyện ngắn trong
khuynh hướng văn học yêu nước ở đô thị
miền Nam cũng thể hiện một lời kêu gọi
tha thiết, hướng tới ánh sáng, bởi đó chính
là mục đích quan trọng của văn học yêu
nước giai đoạn 1954 - 1975. Quả thực,
“chính hình ảnh thân quen của dân tộc,
niềm tin vào giá trị con người Việt Nam,
và lòng yêu Tổ quốc sâu nặng ấy đã đem
lại cho nhiều người sức mạnh để vượt qua
gian khó, thúc đẩy mọi người nghĩ ra hình
thức đấu tranh sinh động để quật lại kẻ
thù của dân tộc” (Trần Hữu Tá, 2000).
3. KẾT LUẬN
Tinh thần dân tộc chính là một trong

những “điểm sáng”, “mấu chốt” quan
trọng của truyện ngắn yêu nước ở đơ thị
miền Nam. Chính tinh thần dân tộc trong
truyện ngắn đã tiếp thêm tình yêu quê
hương đất nước sâu đậm, thúc đẩy những
nhận thức mới mẻ về dân tộc và Tổ quốc,
dấy lên lòng căm thù giặc sâu sắc và khát
vọng cháy bỏng là giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước trong mỗi con người
Việt Nam. Truyện ngắn yêu nước là một
trong những đóng góp quan trọng cho văn
học Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975.

202


Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

Không thể phủ nhận rằng truyện ngắn yêu
nước ở đô thị miền Nam giai đoạn 1954 1975 vẫn còn mang những hạn chế nhất
định, chẳng hạn như kỹ thuật xây dựng
nhân vật chưa được chú trọng, nhiều
truyện ngắn có cốt truyện đơn giản, tình
tiết nhanh, một đơi chỗ chưa có sự trau
chuốt, gọt giũa. Tuy nhiên, truyện ngắn
yêu nước ở đô thị miền Nam vẫn là một
mảnh ghép quan trọng trong bức tranh
chung của văn học đơ thị miền Nam, góp
phần tạo nên một diện mạo khác biệt, vừa
tiếp nối q trình hiện đại hóa văn học,

vừa thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ,
sâu sắc. Giữa lịng đơ thị, những tác phẩm
ấy vẫn được khai sinh và lưu truyền, tiếp
lửa cho độc giả. Từ những truyện ngắn
trong khuynh hướng văn học yêu nước đô
thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975,
nhiều độc giả đã trưởng thành trong nhận
thức, dũng cảm xuống đường đấu tranh
chống lại chính quyền Sài Gịn và qn
xâm lược Mỹ, đem đến chiến thắng vẻ
vang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiều tác giả, 1986. Mùa xuân
chim én bay về. NXB Cửu Long.

Số 15 - 2022

/>3n-ngan-cu%CC%89a-vu-hanh-butmau/, truy cập ngày 24 tháng 03 năm
2022.
5. Phạm Thanh Hùng, 2012. Truyện
ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thị
miền Nam giai đoạn 1954 - 1965. NXB
Giáo dục Việt Nam.
6. Viện hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam, 2015. Về khái niệm dân tộc
và chủ nghĩa dân tộc.
truy cập ngày
24 tháng 03 năm 2022.
7. Trần Đình Sử (chủ biên), 2021.
Lược sử Văn học Việt Nam. NXB

ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Trần Hữu Tá, 2000. Nhìn lại một
chặng đường văn học. NXB Thành phố
Hồ Chí Minh.
9. Bùi Thanh Thảo, 2015. Hình ảnh
người chiến sĩ trong truyện ngắn u
nước ở đơ thị miền Nam 1965 - 1975.
Tạp chí Khoa học xã hội, số 4: 59-66.

3. Nhiều tác giả, 1997. Tuyển tập
truyện ngắn Việt. NXB Trẻ.

10. Bùi Thanh Thảo, 2016. Phương
thức trần thuật chủ quan trong truyện
ngắn yêu nước ở đơ thị miền Nam 1965
- 1975. Tạp chí Khoa học Đại học Cần
Thơ, số 44: 62-88.

4. Vũ Hạnh, 2020. Truyện ngắn của
Vũ Hạnh: Bút máu.

11. Lý Chánh Trung, 1967. Tìm về
Dân tộc. NXB Lửa Thiêng.

2. Nhiều tác giả, 1990. Tiếng hát
những người đi tới. NXB Trẻ.

203



Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô

Số 15 - 2022

THE NATIONAL SPIRIT IN PATRIOTIC SHORT STORIES
IN SOUTHERN URBAN AREAS 1954 - 1975
Pham Khanh Duy
Can Tho City Writers Association
(Email: )
ABSTRACT
Short stories about patriotic tendencies in Southern urban areas from 1954 to 1975 have
achieved many remarkable accomplishments and dedicated significant contributions to the
literary field at that time. National spirit is one of the important contents of patriotic short
stories in Southern urban areas from 1954 to 1975. It can be said that this content is the
bright spot, gaining short stories a position in the picture of patriotic literature. In this
article, the authors have studied about the expressions of the national spirit through patriotic
short stories in Southern urban areas. The content of national spirit has been expressed quite
clearly by writers in the patriotic literature, thereby, readers can see their earnest heart for
the homeland, and for the nation.
Keywords: Nation, national spirit, patriotic short stories, revolutionary soldier

204



×