Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG TRẦN KHA

NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Phạm Quang Phúc
Học viên
: Đặng Trần Kha
Lớp
: Cao học Luật, Khóa 32



TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi.
Mọi lý luận, nghiên cứu trong luận văn là do tơi tự tìm hiểu, phân tích dưới sự
hướng dẫn của Giáo viên hướng dẫn. Các số liệu, trích dẫn, ví dụ đều có nguồn
gốc rõ ràng, bảo đảm độ tin cậy, khách quan, chính xác.
Người cam đoan

Đặng Trần Kha


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng Hình sự

CHXHCNVN

: Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

TNHS


: Trách nhiệm Hình sự

TTHS

: Tố tụng Hình sự

VAHS

: Vụ án Hình sự

VNDCCH

: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

XHCN

: Xã Hội Chủ Nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THEO LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM............................................................................................. 7
1.1. Nhận thức về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
theo luật tố tụng hình sự ..................................................................................... 7
1.1.1. Một số thuật ngữ liên quan người bị buộc tội .......................................... 7
1.1.2. Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội ............................. 10
1.1.3. Khái niệm về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
theo luật tố tụng hình sự .................................................................................. 12

1.2. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị buộc tội ........................................................................................................... 14
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất phát từ
nội dung của quyền con người......................................................................... 14
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội hình thành
từ bản chất của Nhà nước ta ........................................................................... 16
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất phát từ
nhiệm vụ và thực tiễn của tố tụng hình sự ....................................................... 18
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .. 19
1.3.1. Giai đoạn từ sau khi Cách mạng tháng Tám – 1945 đến trước khi Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực thi hành......................................... 19
1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực đến trước
khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực............................................ 21
1.3.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực đến trước
khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực............................................ 23
1.3.4. Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực cho đến
hiện nay ........................................................................................................... 25
1.4. Quy định của điều ước quốc tế và một số nước trên thế giới về nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội ........................................ 27


1.4.1. Quy định của điều ước quốc tế về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người người bị buộc tội ............................................................................ 27
1.4.2. Quy định của một số nước trên thế giới về nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội ....................................................................... 28
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 30
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THEO LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM........................................................................ 31

2.1. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................. 31
2.1.1. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa ................................................ 31
2.1.2. Người bị buộc tội có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa ...... 40
2.1.3. Trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội của các cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng .................................................. 48
2.2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................... 53
2.2.1. Những kết quả đạt được......................................................................... 53
2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó trong q trình
thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................................. 56
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 70
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC HỒN THIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP GĨP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI ...................... 71
3.1. Định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
............................................................................................................................ 71
3.1.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa và tiếp tục thực hiện
tinh thần của cải cách tư pháp do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng ....... 71
3.1.2. Tiếp tục thực hiện và hoàn thiện mục tiêu bảo đảm quyền con người ... 74
3.1.3. Tiếp tục hoàn thiện cải cách tư pháp, bảo đảm tranh tụng công bằng và
tôn trọng sự thật của vụ án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự .............. 74


3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội ..................................................... 75
3.2.1. Một số giải pháp nhằm tiếp tục hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự ... 75
3.2.2. Một số giải pháp khác ........................................................................... 81

Kết luận chương 3 ................................................................................................. 86
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền bào chữa là quyền đã được ghi nhận trong các Công ước quốc tế, hễ
khi nào có sự buộc tội xảy ra thì quyền bào chữa sẽ xuất hiện. Đây là một quyền có
ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo đảm cho mọi người đều được xét xử công
bằng. Bảo đảm quyền bào chữa cũng chính là bảo đảm quyền con người. Bảo đảm
quyền bào chữa chính là một trong các vấn đề cần phải thực hiện khi chúng ta đang
trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Nhiều văn kiện quan trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam khi đề cập về vấn
đề cải cách tư pháp đã lưu ý đến tầm quan trọng của hoạt động bào chữa. Chúng ta
có thể kể đến Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định: “Việc phán
quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tịa, trên cơ
sở xem xét đầy đủ, tồn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào
chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích
hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia
vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh
luận dân chủ tại phiên tòa”. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định “nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp”.
Những chủ trương đó của Đảng ta đã được luật hóa vào trong hệ thống
pháp luật một cách chi tiết. Điều này được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến
pháp trước đây, đặc biệt là trong Hiến pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ

Nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định tại Khoản 4 – Điều 31 như sau: “Người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” và tại Khoản 7 – Điều 103 quy định như
sau: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của
đương sự được bảo đảm”.
Như vậy, việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất hiện từ rất
sớm (ngay cả trong giai đoạn tiền tố tụng) và trải dài cho đến khi kết thúc việc xét
xử và với việc quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp – đạo luật tối cao của của
Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã góp phần khẳng định nội


2
dung bảo đảm quyền bào chữa chính là một “kim chỉ nam” cho tất cả các đạo luật
có liên quan đến quyền bào chữa.
Để cụ thể hóa những nội dung trên, Điều 16 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2015 (BLTTHS 2015) đã quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự như sau: “Người bị
buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo
đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa,
quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Quy định trên với vai trị là một quy phạm pháp luật mang tính ngun tắc
căn bản của BLTTHS 2015 đã khẳng định một lần nữa, rằng việc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội là một nội dung căn bản, quan trọng và khơng thể
thiếu trong tố tụng hình sự tiến bộ, theo định hướng xây dựng nhà nước Pháp quyền
Xã Hội Chủ Nghĩa. Và một khi nó đã là nguyên tắc căn bản thì việc bảo đảm thực
hiện nguyên tắc này phải hết sức nghiêm ngặt, chỉnh chu, nhằm bảo đảm quyền lợi
của một chủ thể yếu (người bị buộc tội) trước các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng. Hơn nữa, trong BLTTHS 2015 đã quy định tách biệt hẳn một chương dành
cho chế định bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

(Chương V) đã góp phần cho thấy các nhà làm luật đã rất quan tâm đến việc bảo
đảm quyền bào chữa cũng như góp phần bảo đảm hơn nữa số phận pháp lý của một
con người không bị oan, sai cũng như không bỏ lọt tội phạm trước sự buộc tội của
cơ quan tiến hành tố tụng hữu quan.
Tuy nhiên, trong tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay vẫn còn một
số vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa cần phải giải quyết như: một số
quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng làm cho việc thực hiện ở mỗi nơi mỗi khác
hoặc hiểu sai tinh thần của quy phạm pháp luật; nhận thức của một số cơ quan tiến
hành tố tụng ở một số địa phương còn theo lối mòn, chủ quan duy ý chí, chưa thể
thay đổi nên dẫn đến làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa của người bị buộc tội, dẫn
đến tình trạng làm oan, sai người vơ tội và bỏ lọt tội phạm, làm ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân.
Từ các quan điểm nêu trên, có thể thấy việc nghiên cứu về mặt lý luận các
quy định về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Luật tố tụng Hình
sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng là rất quan trọng trước yêu cầu cải cách tư pháp,


3
góp phần vào cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ
những lý do trên, người viết chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội phải là một vấn
đề khoa học pháp lý đã được rất nhiều tác giả, học giả nghiên cứu, có thể điểm qua
một số cơng trình nghiên cứu sau:
* Các cơng trình nghiên cứu:
Luận án Tiến sỹ của Lương Thị Mỹ Quỳnh: “Bảo đảm quyền có người bào
chữa của người bị buộc tội – So sánh giữa luật Tố tụng Hình sự giữa Việt Nam,
Đức và Mỹ”
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thành Công “Quyền của người bào chữa theo

luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” năm 2020.
Luận văn Thạc sỹ của Đặng Văn Hùng, Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, năm 2012.
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn, Hữu Thế Trạch: “Bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt
Nam” năm 2009.
Luận văn thạc sĩ của Lương Thị Mỹ Quỳnh “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam và Thụy
Điển”, năm 2004.
* Sách chuyên khảo:
GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư, TS. Phan Trung Hoài (đồng chủ biên),
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (xuất bản lần thứ hai), Nxb
Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, năm 2019.
TS. Nguyễn Văn Tuân, Quyền bào chữa và vai trò của Luật sư trong tố tụng
hình sự, Nxb Dân Trí, năm 2018.
TS.Luật sư Phan Trung Hoài, Những điểm mới về chế định bào chữa trong
Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2015, Nxb Chính Trị Quốc Gia, 2016.
TS. Võ Thị Kim Oanh (Chủ biên), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ
Luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nxb Hồng Đức, năm 2016.


4
Trên đây là một số cơng trình nghiên cứu có thể nói là điển hình khi viết về
“Ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Luật Tố tụng
Hình sự Việt Nam”. Đối với các cơng trình nghiên cứu là sách chuyên khảo, chủ
yếu các tác giả chỉ nêu bật lên những điểm mới của Bộ luật tố tụng Hình sự năm
2015 so với Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003. Đối với các các cơng trình nghiên
cứu là luận văn Thạc sỹ, chủ yếu các tác giả viết về nguyên tắc này chủ yếu dựa trên
tinh thần của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003.
Do đó, tác giả muốn tiếp tục chọn đề tài này nhằm tiếp tục nghiên cứu, kế thừa

và phát triển tiếp tục về mặt lý luận cũng như thực tiễn của nguyên tắc này, khi mà
hiện nay BLTTHS 2015 đã và hiện đang có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam, đặc biệt là khảo sát thực trạng thực thi nguyên tắc này trong việc áp dụng
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại,
hạn chế trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị, biện pháp nhằm hoàn
thiện các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
trong tố tụng hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc theo
tinh thần cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, trong đó có sự tham khảo
kinh nghiệm lập pháp của Việt Nam qua các thời kỳ và tham khảo kinh
nghiệm của nước ngoài về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị buộc tội.
- Phân tích, giải thích các quy định của luật Tố tụng Hình sự Việt Nam có
liên quan nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam.


5
- Đề xuất, kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Tố tụng
hình sự.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội theo luật tố tụng Hình sự Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở xây dựng và các
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội quy định tại Điều
16 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam từ năm
2018 đến nay.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu việc bảo đảm thực hiện quyền bào
chữa của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam trên phạm vi
toàn lãnh thổ Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê
Nin, chủ yếu là dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài là: phương
pháp phân tích-tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê, phương
pháp lịch sử.
6. Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn các vấn đề về
lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang
trong quá trình tiến hành cải cách tư pháp, đặc biệt là trong q trình xu thế tồn
cầu hóa đang ngày càng phát triển, nhu cầu hội nhập với quốc tế là tất yếu, đòi



6
hỏi việc cải cách tư pháp ngày càng tiến bộ để phù hợp với xu hướng chung của
quốc tế.
Đồng thời, các vấn đề mà luận văn nghiên cứu, phân tích là tài liệu tham
khảo cho các sinh viên, các chương trình đào tạo sau đại học cũng như những người
hành nghề luật, các nhà nghiên cứu về khoa học pháp luật nói chung và khoa học
pháp luật TTHS nói riêng.
Luận văn cũng góp phần làm rõ thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội. Qua đó, tác giả muốn đưa ra một số kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tinh thần tôn trọng nguyên tắc bảo quyền
bào chữa của người bị buộc tội, để từ đó đưa ra một góc nhìn đúng đắn hơn về vị
thế của người bị buộc tội, nâng cao tinh thần pháp luật tố tụng hình sự từ các chủ
thể tiến hành tố tụng và các chủ thể tham gia tố tụng khác (chủ yếu là người bị buộc
tội và người bào chữa).
7. Bố cục của luận văn:
Luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
mục lục thì phần nội dung chính gồm có ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam.
Chương 2. Nội dung và thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3. Định hướng tiếp tục hoàn thiện và một số giải pháp góp phần
thực hiện có hiệu quả nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội.


7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Nhận thức về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội theo luật tố tụng hình sự
1.1.1. Một số thuật ngữ liên quan người bị buộc tội
Khái niệm người bị buộc tội đã xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên việc luật hóa
khái niệm này thì chỉ được thừa nhận chính thức trong BLTTHS 2015. Người bị
buộc tội bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.1
- Người bị bắt:
Khái niệm người bị bắt hiện nay vẫn chưa được quy định cụ thể trong
BLTTHS 2015. Trước đây, người bị bắt vẫn chưa được xem là một chủ thể của
quyền bào chữa, tức là chưa phải là người bị buộc tội. Cho đến khi BLTTHS 2015
có hiệu lực và thi hành, người bị bắt đã được các nhà làm luật quy định họ là người
bị buộc tội và họ cũng có quyền bào chữa. Thơng qua các quy định về quyền và
nghĩa vụ của người bị bắt, có thể hiểu người bị bắt bao gồm người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt do đang bị truy nã.
Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang được quy định tại khoản 1 –
Điều 111 – BLTTHS 2015 như sau: “Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc
ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào
cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát
hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và
giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”.
Qua quy định trên, chúng ta có thể hiểu người bị bắt trong trường hợp phạm
tội quả tang là người đang thực hiện hành vi hoặc vừa thực hiện xong hành vi mà
BLHS xem đó là tội phạm và hành vi đó bị phát hiện (quả tang), bất kỳ người nào
cũng có thể truy đuổi và phải ngay lập tức giải người bị bắt đến cơ quan hữu quan
có thẩm quyền.
Người bị bắt theo quyết định truy nã theo quy định tại khoản 1 – Điều 112 –
BLTTHS 2015 được quy định như sau: “Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ
1

Điểm đ – khoản 1 – Điều 4 – BLTTHS 2015.



8
người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện
kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp
nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.”
Qua đó có thể hiểu, người bị bắt theo quyết định truy nã là người đã bị cơ quan
tiến hành tố tụng ra quyết định truy nã về một tội phạm mà họ đã thực hiện, có thể là
bị can, bị cáo, người đã bị kết án … mà họ bỏ trốn hoặc không biết họ đang ở đâu; bất
cứ ai cũng có quyền bắt họ và phải giao ngay đến cơ quan hữu quan có thẩm quyền.
Người bị bắt theo các trường hợp nói trên đều có quyền và nghĩa vụ cụ thể
theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của họ được quy định tại Điều 58 –
BLTTHS 2015.
- Người bị tạm giữ:
Căn cứ theo Khoản 1 – Điều 59 – BLTTHS 2015 thì có thể hiểu khái niệm
người bị tạm giữ như sau: “Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc
người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.”
Dựa vào quy định trên, ta có thể phân chia người bị tạm giữ thành hai nhóm
như sau:
Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm
tội bị phát hiện và khởi tố và đã có quyết định tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền.
Mặc dù chưa có quyết định khởi tố về hình sự, nhưng trên thực tế, họ đã bị hạn chế
một số quyền tự do nhất định và họ có nghĩa vụ phải khai báo hoặc trả lời câu hỏi
của điều tra viên về hành vi có dấu hiệu tội phạm của mình. Có thể gọi đây là nhóm
người bị tạm giữ nhưng chưa có quyết định khởi tố về hình sự.
Người bị tạm giữ là bị can, bị cáo, người đã bị kết án, người đang chấp hành
án, nếu bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ
đối với họ2. Trong những trường hợp này, họ vẫn có các quyền và nghĩa vụ theo

quy định của pháp luật TTHS đối với người bị tạm giữ. Có thể gọi đây là nhóm
người bị tạm giữ đã có quyết định khởi tố về hình sự.
Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định cụ thể tại khoản 2 và
khoản 3 – Điều 59 BLTTHS năm 2015.
Đặng Văn Hùng (2012), Nguyên tắc bản đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,bị cáo trong tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr 5 – 6.
2


9
- Bị Can
Căn cứ theo khoản 1 – Điều 60 – BLTTHS 2015 thì có thể hiểu: “Bị can là
người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự”. Như vậy, so với BLTTHS 2003,
BLTTHS 2015 đã xác định bị can ngồi là thể nhân cịn có thể là pháp nhân. Tư
cách bị can sẽ tồn tại trong quá trình “điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử
sơ thẩm.”3 Tuy nhiên, do pháp nhân không phải là một con người thực thể, nên việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân là bị can đươc thực hiện thơng qua
người đại diện theo pháp luật có pháp nhân đó.
Tư cách của bị can chỉ chấm dứt khi Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ
điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử vụ án hình sự mà Tịa án ra quyết định đình chỉ vụ án. Đây có thể xem là những
trường hợp chấm dứt tư cách tố tụng là bị can của người bị buộc tội theo chiều
hướng có lợi cho họ, quyền công dân của họ sẽ được phục hồi một cách đầy đủ.
Còn trong trường hợp khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, tư cách của bị
can sẽ chuyển hóa trở thành bị cáo, quyền và nghĩa vụ của bị can cũng chuyển hóa
thành quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Tuy nhiên, dù bị can có được chấm dứt tư cách
bị can của họ theo chiều hướng có lợi hoặc chuyển hóa thành bị cáo khi có quyết
định của Tịa án đưa vụ án ra xét xử, thì họ vẫn đang là người bị buộc tội, vẫn chưa
được xem là người đã có tội.
Chính vì họ chưa phải là người đã có tội (theo bản án của Tịa án đã có hiệu

lực dành cho họ) nên họ vẫn có những quyền và nghĩa vụ nhất định mà các cơ quan
tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho họ, đặc biệt là
quyền bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Quyền và nghĩa vụ cụ thể của bị can
được quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 – Điều 60 – BLTTHS 2015.
- Bị cáo
Theo quy định tại khoản 1 – Điều 61 – BLTTHS 2015 thì chúng ta có thể
hiểu: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. So
với trước đây, tại Điều 50 – BLTTHS 2003 chỉ quy định bị cáo chỉ có thể là cá
nhân, thì nay, với BLTTHS 2015, bị cáo cịn có thể là pháp nhân. Việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân đó. Tư cách bị cáo sẽ tồn tại từ giai đoạn có
quyết định của Tòa án đưa vụ án ra xét xử và kéo dài đến khi có bản án, quyết định
3

Đặng Văn Hùng (2012), tlđd (2), tr 6.


10
có hiệu lực của Tịa án. Ở giai đoạn này, thực chất, bị cáo cũng mang tính quy định
về mặt luật hình thức (chuyển hóa từ bị can khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử
cũa Tòa án), họ vẫn không phải là chủ thể của cấu thành tội phạm, do đó, họ vẫn có
một số quyền và nghĩa vụ nhất định trước các cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tiến hành tố tụng. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo được quy định cụ thể tại
khoản 2 và khoản 3 – Điều 61 – BLTTHS 2015.
1.1.2. Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội
“Bào chữa” có thể hiểu là việc “Dùng lí lẽ và chứng cớ để bênh vực cho một
đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự trước tịa án, hoặc cho việc
nào đó đang bị lên án”4. Tuy nhiên, cách hiểu này vẫn còn mang tính mơ hồ, chưa
cụ thể vấn đề. Bởi lẽ, nếu hiểu theo cách thơng thường này, thì ngay cả trong tố
tụng dân sự hoặc trong các vấn đề về phản biện xã hội vẫn tồn tại khái niệm bào

chữa. Điều này là chưa phù hợp với thuật ngữ khoa học pháp lý của nước ta hiện
nay. Vì hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm “bào chữa” chỉ tồn tại khi có sự buộc tội
của cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát Nhân dân, Tòa án),
hay hiểu theo một nghĩa khác, “bào chữa” chỉ xuất hiện trong hoạt động tố tụng
hình sự. Cịn trong hoạt động tố tụng dân sự (hoặc ngay cả hoạt động tố tụng hành
chính) thì khái niệm “Bào chữa” khơng tồn tại.
Một khái niệm khác định nghĩa: “Quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là tổng hợp tất cả các quyền pháp luật dành cho họ sử dụng để
chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.”5 Về mặt lý luận,
khái niệm này đã khái quát được nội hàm của khái niệm quyền bào chữa; tuy nhiên,
khái niệm này chưa chỉ ra được cụ thể hình thức thực hiện quyền bào chữa là như
thế nào, vì người bị buộc tội ngồi quyền tự mình bào chữa thì họ cịn có thể nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình.
Để hiểu rõ hơn bản chất của khái niệm “bào chữa”, tác giả sẽ thông qua
quan điểm về chức năng bào chữa mà theo quan điểm của tác giả, khái niệm về
chức năng bào chữa sẽ giải thích được một cách cụ thể, rõ ràng khái niệm “bào
chữa” nêu trên:
“Chức năng bào chữa là một dạng hoạt động tố tụng hình sự được pháp luật
bảo đảm cho người bị buộc tội khả năng bằng cách tự mình, nhờ người khác đưa ra
Viện ngơn ngữ học (2018), Từ điển tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, tr.47.
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh,
Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.70.
4
5


11
chứng cứ và lập luận nhằm không chỉ bác bỏ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm
cho mình mà cịn đưa ra những gì có lợi cho họ trong q trình tố tụng”6.
Qua đây có thể thấy, chức năng bào chữa là một chức năng có ý nghĩa hết sức

quan trọng, được pháp luật bảo vệ và các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng.
Khi và mỗi khi có chức năng buộc tội xuất hiện thì chức năng bào chữa cũng xuất
hiện theo, nhằm mục đích minh oan hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người bị buộc tội. Đồng thời, thông qua chức năng bào chữa, chúng ta có thể hiểu rõ
hơn về khái niệm quyền bào chữa.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội có thể được thực hiện theo hai hình
thức: người bị buộc tội tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình.
Người bị buộc tội tự bào chữa là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo khi đối diện với sự buộc tội từ phía cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tịa án) thì họ đưa ra các lý lẽ, lập luận và chứng cứ, tài liệu, đồ
vật nhằm bác bỏ các quan điểm buộc tội đó. Lúc này, quyền bào chữa là một quyền
mang tính khách quan và được pháp luật tố tụng hình sự quy định một cách cụ thể
quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội trong việc thực hiện quyền này.
Hình thức người bị buộc tội nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình
(người được nhờ bào chữa ở đây chủ yếu là Luật sư; ngồi ra cịn có bào chữa viên
nhân dân, người đại diện, trợ giúp viên pháp lý) là việc mà người bị buộc tội vì nhiều lý
do khách quan mà khơng có khả năng tự bào chữa cho mình (do hạn chế về trình độ
pháp lý, khả năng phân tích, lập luận, …) nhờ người khác đứng ra bào chữa cho mình.
Cần phải xác định rằng, những người được nhờ bào chữa không phải mặc nhiên tồn tại
quyền bào chữa (hay biện hộ), mà họ chỉ phát sinh quyền bào chữa khi và chỉ khi có
yêu cầu của người bị buộc tội hoặc trong một số trường hợp là do bào chữa chỉ định
theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Việc nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa không làm mất đi quyền tự bào chữa của người bị buộc tội.
Từ các khái niệm và quan điểm đã đưa ra như trên, tác giả đưa ra quan điểm
của mình về khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội như sau:
“Quyền bào chữa của người bị buộc tội là quyền mà chủ thể bị buộc tội đưa
ra các chứng cứ, lý lẽ, lập lập nhằm mục đích bác bỏ hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của mình trước các chủ thể tiến hành việc buộc tội. Người bị buộc tội
Lê Huỳnh Tuấn Duy (2017), Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề Chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự,
Tài liệu lưu hành nội bộ Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr.10.

6


12
có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa
cho mình.”
1.1.3. Khái niệm về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội theo luật tố tụng hình sự
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được quy định tại Điều 16 – BLTTHS
2015 như sau: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng
báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ
quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Theo hệ thống pháp luật Việt Nam, có thể hiểu nguyên tắc là những tư tưởng,
quan điểm chỉ đạo quá trình nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật và buộc các
chủ thể tham gia vào các quá trình thực hiện pháp luật phải tuân thủ một cách triệt
để. Từ đó, có thể hiểu nguyên tắc trong pháp luật tố tụng hình sự là những tư tưởng,
quan điểm chỉ đạo quá trình nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình
sự hoặc là những phương châm, định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động
tố tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận7. Hay nói một cách tổng quát
hơn, những nguyên tắc của pháp luật TTHS sẽ phải được tuân thủ trong suốt các
giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.
Dựa vào lý luận nêu trên, chúng ta có thể thấy, nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội cũng chính là một nguyên tắc trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố và xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nguyên tắc
này là một phạm trù vừa mang tính khách quan, tính chủ quan và tính quy phạm:
Tính khách quan thể hiện ở chổ, hễ khi nào có yếu tố buộc tội xuất hiện sẽ
kéo theo sự xuất hiện của yếu tố bào chữa. Đây hoàn toàn là hai mặt đối lập với
nhau, nhưng cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất, đó là hoạt động tố tụng
hình sự. Tùy thuộc vào từng mơ hình kinh tế - xã hội khác nhau mà nó sẽ có sự

phản ánh khác nhau, khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Tính chủ quan thể hiện ở chổ, khi các nhà làm luật đã nhận thức được tính
khách quan của nguyên tắc bào chữa, thì họ đưa những tư tưởng, quan điểm đó trở
thành đường hướng chỉ đạo trong việc thực hiện pháp luật tố tụng hình sự và buộc
các chủ thể trong xã hội phải tuân thủ một cách triệt để, đặc biệt là trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.
7

Đặng Văn Hùng (2012), tlđd (2), tr.7.


13
Tính quy phạm thể hiện ở chổ, khi các nhà làm luật đã trải qua quá trình nhận
thức về sự tồn tại của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,
đồng thời đã đưa nó trở thành các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo thì bắt buộc họ phải
có cơng cụ để điều chỉnh các chủ thể khác trong xã hội thực hiện. Cơng cụ đó chính
là pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy, các nhà làm luật buộc phải pháp điển hóa
những quan điểm, tư tưởng nói trên thành các quy phạm pháp luật, để chúng trở
thành những quy tẳc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm
thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đạt được
những mục đích nhất định.
Tính khách quan, tính chủ quan và tính quy phạm nói trên trong nguyên tắc
này có mối quan hệ biện chứng với nhau, tồn tại không tách rời nhau, không thể loại
trừ lẫn nhau. Nguyên tắc bảo đảm quyền chữa của người bị buộc tội là một nguyên
tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, do đó nó phải bảo đảm được ba thuộc tính này. Từ
nhận thức này, chúng ta có thể thấy việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) khi phải đối mặt với sự buộc
tội của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (chủ yếu là Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát) là hết sức cần thiết, bởi lẽ, dù sao đi nữa họ cũng là những chủ thể
yếu, bị hạn chế một số quyền nhất định trước các cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng có đầy đủ quyền hành theo quy định của pháp luật.
Khái niệm “bảo đảm” được hiểu là: “Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ
gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”8. Từ khái niệm này, chúng ta có thể
hiểu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chính là các biện pháp, cách thức
làm cho quyền bào chữa chắc chắn phải thực hiện được, cung cấp cho người bị buộc
tội đầy đủ các yếu tố cần thiết để họ thực hiện quyền bào chữa của mình, xử lý
nghiêm minh các hành vi xâm phạm đến quyền bào chữa của người bị buộc tội. Khái
niệm “bảo đảm” ở đây theo tác giả có thể hiểu theo hai nội dung chính như sau:
- Bảo đảm về mặt vật chất: chúng ta có thể hiểu là bảo đảm cho người bị
buộc tội có đầy đủ các quyền theo quy định của BLTTHS 2015, trong đó phải bảo
đảm về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội, bảo đảm quyền nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời, riêng về mặt kinh tế, nếu
người bị buộc tội khơng có khả năng nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa thì cơ
quan có thẩm quyền phải bảo đảm quyền có người bào chữa cho họ nếu họ thỏa
8

Viện ngôn ngữ học (2018), tlđd (4), tr.48.


14
mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật TTHS. Ngồi ra, cịn có thể hiểu
rộng ra là bảo đảm đội ngũ bào chữa có chun mơn, nghiệp vụ đáp ứng được khả
năng bào chữa cho người bị buộc tội.
- Bảo đảm về việc xử lý vi phạm (nếu có): chúng ta có thể hiểu là việc nếu
các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hay thậm chí là người bào chữa
vi phạm quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến sự thật khách quan của vụ án,
làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa của người bị buộc tội thì phải có chế tài xử lý vi
phạm cụ thể.
Theo nội hàm của nguyên tắc quy định tại Điều 16 – BLTTHS 2015, ngoài
việc người bị buộc tội được bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của mình (tự bào

chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa), thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội
thực hiện đầy đủ quyền bào chữa. Điều này cho thấy, nhà làm luật đã buộc các cơ
quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho
người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của mình theo đúng quy định của pháp
luật TTHS. Trong một số trường hợp nhất định, cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội, nhằm bảo đảm tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước sự buộc tội từ cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
Từ các phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội như sau: “Nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) là
một phạm trù mang tính khách quan, được quy định cụ thể trong pháp luật tố tụng
hình sự, mang tính xun suốt, chỉ đạo trong tất cả các quá trình tiến hành tố tụng
hình sự, nhằm mục đích bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội
trước các hoạt động buộc tội, để phủ định sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự”.
1.2. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất phát
từ nội dung của quyền con người
Quyền con người là một đặc quyền cơ bản, tự nhiên vốn có của con người,
khơng ai được phép xâm phạm. Trong xã hội loài người hiện đại, quyền con người


15
đã trở thành vấn đề chung, mối quan tâm chung của toàn nhân loại9, cùng với sự
phát triển của xã hội lồi người tiến bộ thì các văn bản pháp luật quốc tế về quyền
con người và bảo đảm quyền con người đang được ngày càng được hoàn thiện và đi
theo xu hướng mở rộng, nâng cao giá trị con người.

Ở nước ta, quyền con người đã được ghi nhận tại Điều 14 – Hiến pháp 2013 như
sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Từ nguyên
tắc hiến định này, có thể thấy ở nước ta, các giá trị cơ bản của quyền con người luôn
được bảo đảm trên mọi phương diện. Quyền con người chỉ bị hạn chế trong một số
trường hợp do luật định, nhằm mục đích chính trị - xã hội nói chung, tuyệt nhiên khơng
được hạn chế, xâm phạm quyền con người trái quy định của pháp luật.
Trong TTHS, việc bảo đảm quyền con người càng đòi hỏi phải được chú
trọng cao hơn nữa. Bởi lẽ, khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, người bị buộc
tội vẫn là một công dân, hơn hết họ vẫn là một con người. Chính vì vậy, để bảo đảm
tốt nhất quyền con người của họ, pháp luật TTHS cần ghi nhận cho họ những quyền
nhất định, trong đó có quyền bào chữa. Đồng thời, cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ các quyền
của mình, trong đó quan trọng nhất là quyền bào chữa (tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa). Thông qua việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội
cũng như sự bảo đảm quyền bào chữa từ phía cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, quyền con người được bảo đảm một cách đầy đủ nhất. Trong đó,
người bị buộc tội có thể bào chữa cho mình, đồng thời bảo vệ tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp cho chính bản thân họ; cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng thông qua sự bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội mà cũng thể hiện
việc tuân thủ quy định của pháp luật, bảo đảm được trình tự, thủ tục của quá trình
tiến hành tố tụng, hướng đến giải quyết VAHS một cách khách quan, đúng đắn.
Có thể thấy rằng, quyền bào chữa là một nội dung cơ bản thể hiện quyền con
người và quyền con người là cơ sở lý luận hình thành nên nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam10. Qua đó cho thấy, việc bảo đảm
9


Nguyễn Văn Tuân (2018), Quyền bào chữa và vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự, Nxb Dân Trí, tr.7.
Đặng Văn Hùng (2012), tlđd (2), tr.11.

10


16
quyền con người chính là một trong những nội dung cốt lõi trong chính sách pháp
luật của các nhà nước tiến bộ. Đồng thời, việc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị buộc tội trước những cáo buộc bất lợi cho mình trong TTHS chính là một vấn đề
hết sức quan trọng, nhằm bảo đảm cho việc thực hiện quyền con người. Do đó, việc
bảo đảm quyền con người và việc bảo đảm quyền bào chữa có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó việc bảo đảm quyền con người đóng vai trị là cơ sở hạ
tầng, cịn việc bảo đảm quyền bào chữa đóng vai trị là kiến trúc thượng tầng; chúng
tác động qua lại lẫn nhau nhằm hướng đến một mục đích chung, đó là bảo vệ giá trị
vốn có của con người.
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội hình thành
từ bản chất của Nhà nước ta
Khi đề cập đến vấn đề về bản chất của nhà nước, các nhà luật học thường đề
cập đến hai thuộc tính: tính giai cấp và tính xã hội. Tính giai cấp thể hiện ở chổ, nhà
nước sinh ra trong xã hội có giai cấp nên bao giờ nhà nước cũng thể hiện tính giai
cấp một cách sâu sắc. Nhà nước là công cụ để quản lý xã hội của giai cập thống trị,
do đó nhà nước chính là một thực thể thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị; nhà nước đặt ra pháp luật, quận đội, tòa án… đều nhằm mục đích là duy
trì trật tự xã hội theo ý chí của giai cấp thống trị. Tính xã hội thể hiện ở chổ, nhà
nước quản lý xã hội và giải quyết các vấn đề phát sinh trong xã hội; bởi vì, ngồi
việc phục vụ ý chí của giai cấp thống trị, nhà nước còn phải điều tiết các mối quan
hệ của các giai cấp khác trong xã hội, nhằm duy trì xã hội ổn định, bảo đảm lợi ích
chung cho tồn xã hội.
Tại Điều 2 – Hiến pháp năm 2013 quy định như sau:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”
Qua đây cho thấy, ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhân dân
là người chủ của đất nước, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nước ta là
nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, mà trước hết là nền tảng liên


17
minh giữa giai cấp công – nông và đội ngũ trí thức. Điều này là hồn tồn phù hợp
với tiến trình lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng nhà nước
pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa.
Pháp luật ra đời cùng lúc với khi nhà nước ra đời, và đồng thời bản chất của
pháp luật cũng là bản chất của nhà nước. Pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật
TTHS Việt Nam nói riêng cũng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhân dân, bảo vệ lẽ công bằng xã hội. Đặc biệt, pháp luật TTHS Việt Nam bảo vệ
một chủ thể mà có nguy cơ cao phải đối diện với hậu quả pháp lý bất lợi cho họ, phải
chịu trách nhiệm nặng nề nhất trong tất cả các loại trách nhiệm pháp lý là trách nhiệm
hình sự, đó là người bị buộc tội. Pháp luật TTHS đã cho họ nhiều quyền để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó nổi bật nhất chính là quyền bào chữa.
Quyền bào chữa, với vai trò vừa là một quyền hiến định, vừa là một quyền căn bản
trong pháp luật TTHS đã góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội trước những cáo buộc bất lợi đối với họ, giúp cho họ có cơng cụ để bác bỏ
sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ.
Với việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
tại Điều 16 – BLTTHS 2015, các nhà làm luật đã thể hiện được ý chí của mình, đó

là cho phép người bị buộc tội bảo vệ chính mình, xun suốt các giai đoạn của
TTHS. Đồng thời, thông qua việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,
nguyên tắc này cũng chính là một cơng cụ hiệu quả để giám sát đối với các hoạt
động của người, cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật tố tụng hình sự buộc những
người và cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện thuận lợi theo đúng quy
định của pháp luật TTHS cho người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của mình,
địi hỏi sự bảo đảm quyền bào chữa đến từ nhận thức của cơ quan, người tiến hành
tố tụng. Điều này đã thể hiện được bản chất của nhà nước ta ở chổ: bảo đảm quyền
làm chủ, quyền giám sát của nhân dân, bảo vệ sự công bằng xã hội, bảo vệ lẽ phải,
hạn chế được các tiêu cực trong các tiến trình của tố tụng hình sự, tránh để án oan,
án sai nhưng đồng thời cũng trừng trị những người phạm tội, tránh bỏ lọt tội phạm.
Qua việc quy định nguyên tắc này, nhà nước cũng thể hiện được bản chất nhà nước
pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa, đó là các cơ quan nhà nước nói chung và người, cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự nói riêng phải tuyệt đối tn thủ những quy định của
pháp luật trong việc giải quyết các VAHS, tuân thủ các quy trình, biện pháp nghiệp
vụ theo đúng quy định của pháp luật xuyên suốt các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy
tố và xét xử trong TTHS.


18
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất phát
từ nhiệm vụ và thực tiễn của tố tụng hình sự
Tại Điều 2 – BLTTHS 2015 quy định cụ thể nhiệm vụ của TTHS như sau:
“…Bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ
tội; góp phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân…”. Qua quy định trên, có thể thấy, TTHS đã đặt ra nhiệm vụ phát
hiện tội phạm và các vấn đề có liên quan khác của TTHS để hướng tới mục đích
làm rõ sự thật khách quan của vụ án, nhằm xét xử đúng người, đúng tội, không để

lọt tội phạm, không làm oan người vô tội11. Để đạt được mục đích nêu trên, ngồi
việc xuất hiện chức năng buộc tội từ phía cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng (chủ yếu là cơ quan điều tra, viện kiểm sát) khi phát hiện tội phạm hoặc
người bị tình nghi phạm tội thì đồng thời, các nhà làm luật phải bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội bằng cách quy định cho họ những quyền nhất
định, mà nổi bật nhất là quyền bào chữa. Như một thực tế khách quan, khi mà có sự
buộc tội xuất hiện thì đồng thời, kéo theo đó quyền bào chữa cũng xuất hiện. Quyền
bào chữa chỉ chấm dứt, khi và chỉ khi quyền buộc tội chấm dứt.
Trong TTHS, nếu chỉ tồn tại một chức năng duy nhất là chức năng buộc tội
thì TTHS lúc này sẽ đi vào con đường phiến diện, chủ quan, mang nặng sự đặt định
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Điều này sẽ hết sức tai hại khi
mà, để đạt được mục đích của sự buộc tội, trong khi khơng có sự gỡ tội (bào chữa),
các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ tiến hành việc bức cung,
nhục hình, mớm cung, dụ cung, … nhằm đạt được mục đích buộc tội; và, dù cho có
chức năng gỡ tội (bào chữa) xuất hiện, nhưng chỉ cần chức năng gỡ tội bị khuyết
trong bất kỳ giai đoạn nào của TTHS ( khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử) thì cũng
có thể gây ra những hậu quả khơng lường trước được, khơng bảo đảm tính khách
quan khi giải quyết vụ án. Hệ quả của việc khơng có hoặc có mà bị khuyết chức
năng gỡ tội nói trên trong thực tiễn sẽ dẫn đến việc đưa ra những bản án làm oan
người vô tội, làm sai lệch bản chất khách quan của vụ án, bỏ lọt tội phạm.
Do đó, xuất phát từ nhiệm vụ và thực tiễn trong TTHS, các nhà làm luật đã quy
định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội trở thành một nguyên
Nguyễn Ngọc Anh – Phan Trung Hoài (Đồng chủ biên) (2019), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.12-13.
11


×