Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 135 trang )






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



BÙI BẢO TRÂM




NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2008

Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội




Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí

Phản biện 1:

Phản biện 2:



Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội



1

2

MỤC LỤC


Trang

Lời cam đoan



Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


Lời mở đầu
1

Chương 1: khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
7
1.1
Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS.

7
1.1.1
Khái niệm quyền bào chữa.
7
1.1.2
Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo.

10
1.1.2.1
Khái niệm.
10

1.1.2.2
Chủ thể thực hiện quyền bào chữa.
11
1.1.2.3
Hình thức thực hiện quyền bào chữa.
12
1.1.3
Cơ sở để quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS.

13
1.1.3.1
Cơ sở lý luận.
13
1.1.3.2
Cơ sở thực tiễn.
16
1.1.3.3
Cơ sở pháp lý.
18
1.2
Vị trí, vai trò của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

18
1.3
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong quan hệ với việc bảo vệ quyền con người trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.


20
1.4
Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam.

23
1.4.1
Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật
TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành.

24
1.4.2
Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến
năm 2003.
29
1.4.3
Giai đoạn từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến nay.
31

Kết luận chƣơng 1.
33

Chương 2: nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật tths việt nam.


34
2.1
Bảo đảm quyền tự bào chữa.
34

2.1.1
Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố.

2.1.1.1
Bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ.
34
2.1.1.2
Bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can.
37
2.1.2
Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn xét xử.
43
2.2
Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa.
50
2.2.1
Địa vị pháp lý của người bào chữa trong pháp luật TTHS.
50
2.2.1.1
Thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa.
52
2.2.1.2
Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
54
2.2.1.3
Việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa.
57
2.2.2
Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn điều tra,
truy tố.

59
2.2.3
Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn xét xử.
65
2.2.4
Nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

66
2.3
Bảo đảm quyền có người bào chữa trong những trường hợp pháp
luật quy định.

2.4
Nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm
quyền bào chữa.

69

Kết luận chƣơng 2.
73

Chương 3: thực tiễn áp dụng và những giảI pháp nhằm hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt nam.



1


2

MỤC LỤC


Trang

Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


Lời mở đầu
1

Chương 1: khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
7
1.1
Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS.

7
1.1.1
Khái niệm quyền bào chữa.
7

1.1.2
Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo.

10
1.1.2.1
Khái niệm.
10
1.1.2.2
Chủ thể thực hiện quyền bào chữa.
11
1.1.2.3
Hình thức thực hiện quyền bào chữa.
12
1.1.3
Cơ sở để quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS.

13
1.1.3.1
Cơ sở lý luận.
13
1.1.3.2
Cơ sở thực tiễn.
16
1.1.3.3
Cơ sở pháp lý.
18
1.2
Vị trí, vai trò của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

18
1.3
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong quan hệ với việc bảo vệ quyền con người trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.

20
1.4
Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam.

23
1.4.1
Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật
TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành.

24
1.4.2
Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến
năm 2003.
29
1.4.3
Giai đoạn từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến nay.
31

Kết luận chương 1.
33


Chương 2: nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật tths việt nam.


34
2.1
Bảo đảm quyền tự bào chữa.
34
2.1.1
Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố.

2.1.1.1
Bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ.
34
2.1.1.2
Bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can.
37
2.1.2
Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn xét xử.
43
2.2
Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa.
50
2.2.1
Địa vị pháp lý của người bào chữa trong pháp luật TTHS.
50
2.2.1.1
Thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa.
52
2.2.1.2

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
54
2.2.1.3
Việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa.
57
2.2.2
Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn điều tra,
truy tố.
59
2.2.3
Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn xét xử.
65
2.2.4
Nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

66
2.3
Bảo đảm quyền có người bào chữa trong những trường hợp pháp
luật quy định.

2.4
Nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm
quyền bào chữa.

69

Kết luận chương 2.
73


Chương 3: thực tiễn áp dụng và những giảI pháp nhằm hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt nam.



3

4

74
3.1
Thực tiễn áp dụng .
74
3.1.1
Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

74
3.1.1.1
Đối với quyền tự bào chữa.
74
3.1.1.2
Đối với quyền nhờ người khác bào chữa và quyền có người bào
chữa trong các trường hợp do pháp luật quy định của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo.

76
3.1.2
Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

79
3.1.2.1
Về phía cơ quan tiến hành tố tụng.
79
3.1.2.2
Về phía người bào chữa.
87
3.1.2.3
Về phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
89
3.2
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo.

90
3.2.1
Về pháp luật.
90
3.2.2
Nguyên nhân về nhận thức.
93
3.2.3
Nguyên nhân về tổ chức .
94
3.2.3.1
Đội ngũ những người THTT thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.
94

3.2.3.2
Đội ngũ luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp.
97
3.3
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.

100
3.3.1
Về hoàn thiện pháp luật.
100
3.3.2
Về tổ chức.
106
3.3.3
Về nhận thức.
107

Kết luận chương 3.
108

Kết luận
110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
111




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Những thành tựu về mặt kinh tế xã hội kể từ khi chúng ta tiến hành đổi
mới toàn diện đất nước đã khẳng định định hướng đúng đắn cho con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại mới. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho
việc thực hiện công cuộc đổi mới trong các lĩnh vực. Bên cạnh những thành tựu
đã đạt được, về mặt xã hội: tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm xảy ra nghiêm
trọng, diễn biến ngày càng phức tạp, quá trình giải quyết vụ án hình sự còn gặp
nhiều vướng mắc. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đưa ra mục tiêu: "Xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả và hiệu lực cao".
Nghị quyết số 08/NQ-TW đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng hoạt động và
đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp", trong đó có nhiệm vụ cụ
thể là: "nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa, đảm
bảo tranh tụng dân chủ với luật sư (LS), người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác". "Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của KSV, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và
những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo
điều kiện để LS tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên
cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa".


2
Đảng và Nhà nước ta đang tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền

của dân, do dân và vì dân, xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm cho việc
phát triển các quyền tự do dân chủ của công dân. Quyền bào chữa là một quyền
quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo. Quyền bào chữa đã được ghi nhận thành nguyên tắc hiến định trong
tất cả các bản Hiến pháp của nước ta đồng thời đây cũng là nguyên tắc đặc thù
của luật tố tụng hình sự (TTHS).
Việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế đã góp phần không nhỏ vào
việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
giúp cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) và toà án giải quyết vụ án
một cách khách quan, toàn diện và chính xác. Tuy vậy, thực tiễn TTHS cho thấy
việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được
thực hiện triệt để, các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT và người
tham gia tố tụng còn xem nhẹ nguyên tắc này. Chất lượng công tác tư pháp nói
chung và công tác xét xử nói riêng còn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ,
còn bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến
các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân (theo số liệu
thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, tuy số lượng án oan có giảm dần, nhưng
vẫn còn: năm 2002 toàn bộ ngành Tòa án có 23 trường hợp bị kết tội oan, năm 2003
còn 7 trường hợp, năm 2004 còn 5 trường hợp), gây nhiều hậu quả đáng tiếc cho
người bị kết án oan, người thân và xã hội. Tình trạng bắt, giam giữ, xét xử oan sai
vẫn còn tồn tại trong thực tế tố tụng. Việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để
làm sáng tỏ về mặt khoa học các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về
quyền bào chữa, vấn đề áp dụng trong thực tiễn đồng thời đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền này cũng như nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc trong thực tiễn không những có ý


3
nghĩa quan trọng về mặt lý luận - thực tiễn pháp lý mà còn là vấn đề mang tính
cấp thiết.

2. Tình hình nghiên cứu
Là một trong những nguyên tắc quan trọng của pháp luật TTHS, nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cơ sở lý luận,
pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền con người, góp phần xây dựng một nền hành
chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng được yêu
cầu bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được ghi nhận trong pháp luật hình
sự ở nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp, Trung Quốc
Ở Việt Nam, nguyên tắc này được quy định rải rác trong các điều luật
riêng: tại Hiến pháp năm 1992 (điều 132), Bộ luật TTHS năm 2003 (điều 11),
Luật tổ chức toà án nhân dân (điều 13).
Bảo đảm quyền bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình đấu
tranh và chống tội phạm, thể hiện quan điểm nhân đạo, đường lối chính trị mang
đậm nét nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu, bài viết đăng trên một số tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành
nghiên cứu về đề tài này như:
- Hoàng Thị Sơn: Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong luật
TTHS Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, H.2003.
- Hoàng Thị Sơn: Thực trạng thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 4/2002.
- Hoàng Thị Sơn: Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học số 5/2000.


4
- Trần Văn Bảy: Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của người
bào chữa trong TTHS Việt Nam, Tạp chí KHPL số 1/2001.
- Nguyễn Duy Hưng: Bị can và bảo đảm quyền của bị can trong Bộ luật
TTHS 2003 - thực trạng và định hướng hoàn thiện.
- Phạm Hồng Hải: Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người

bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 5/2004.
- Lê Hồng Sơn: Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong
TTHS, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 7/2002
Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định, chưa
nghiên cứu được tất cả các chủ thể của quyền bào chữa theo quy định hiện hành.
Liên quan đến vấn đề này vẫn còn khá nhiều ý kiến trái ngược nhau trong lý luận
nhận thức, quá trình thực thi, xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Bảo đảm quyền bào chữa là một trong những vấn đề có nội dung phong
phú và phức tạp, vẫn đang là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc và
toàn diện hơn nữa trong khoa học Luật TTHS cũng như thực tiễn áp dụng ở nước
ta hiện nay.
3. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn, quá trình hình thành, nội dung của nguyên tắc, chỉ ra những kết
quả và những bất cập còn tồn tại khi áp dụng nguyên tắc ở nước ta hiện nay. Qua
đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc trong thực
tiễn và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo phát huy tối đa tính dân chủ, chính xác, khách
quan và toàn diện trong hoạt động TTHS.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt
ra là:


5
1. Nghiên cứu quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS như: khái niệm, cơ sở
của nguyên tắc; ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nguyên tắc.
2. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam
3. Tìm hiểu nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS Việt Nam

4. Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng, qua đó rút ra những mặt tích cực
cũng như những tồn tại, hạn chế.
5. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng thực
hiện nguyên tắc, luận văn nêu ra những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong TTHS Việt Nam.
4. Phạm vi - nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo dưới góc độ lý luận, phân tích
những quy định của pháp luật về nội dung của nguyên tắc và chỉ ra vướng mắc
trong hoạt động thực tiễn của chế định này. Trên cơ sở đánh giá tổng quan thực
trạng thực hiện nguyên tắc để đưa ra những quan điểm, kiến nghị góp phần thực
hiện tốt các quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử
nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung
Luận văn tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
- Khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo: khái niệm, ý nghĩa, cơ sở quy định, sự hình thành nguyên tắc.


6
- Nội dung cơ bản của nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo: về quyền bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; chủ thể
thực hiện, hình thức thực hiện, trách nhiệm của cơ quan THTT; thời điểm tham gia
tố tụng
- Thực tiễn áp dụng và những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả các chế định của pháp luật TTHS về quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch

sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp
luật, về cải cách tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp so sánh, phân tích và phương
pháp tổng hợp kết hợp với việc phân tích thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa thông qua các vụ án cụ thể, điều luật cụ thể để tổng hợp các tri
thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng để nghiên cứu.
Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp
lịch sử; kết hợp với việc phân tích thực tiễn.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
Luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.


7
Chương 2: Nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng
cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO

1.1. Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS.
1.1.1 Khái niệm quyền bào chữa
Trong khoa học pháp luật TTHS, khái niệm quyền bào chữa được nhìn

nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: TTHS được coi là bắt đầu từ thời điểm vụ án hình
sự được chuyển sang Toà án và quyền bào chữa chỉ thuộc về bị cáo (các nước
theo hệ thống Commonlaw).
Quan điểm thứ hai: quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo [17].
Quan điểm thứ ba: E.ph. Cutsova-Nga cho rằng: “Trong TTHS, bị can,
người bị tình nghi cũng như những công dân khác, trong đó có cả người bị hại
đều cần có sự bảo vệ các lợi ích có thể xâm phạm” [26]. Như vậy, theo quan
điểm này thì quyền bào chữa có cả trong trường hợp mà ở đó không có sự buộc
tội.


8
Một số tác giả khác cũng cho rằng: “Không chỉ có bị cáo mà người bị hại
cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và những người khác
cũng vậy nếu quyền lợi của họ bị xâm phạm” [24].
Quan điểm thứ tư: “Trong TTHS, quyền bào chữa chỉ xuất hiện ở chỗ mà
ở đó có sự buộc tội và quyền bào chữa thuộc về người nào khi người đó bị buộc
tội” “Sự buộc tội đôi khi xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can
trong trường hợp có người bị tạm giữ và kết thúc khi TTHS kết thúc” [30].

Quan điểm thứ năm: Thẩm phán Nguyễn Đức Mai xác định các chủ thể
thực hiện chức năng bào chữa gồm: “Người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo,
người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ. Thuộc nhóm
này, còn có thể người đang thi hành án hoặc người đã thi hành án xong bản án
trong trường hợp có kháng nghị giám đốc thẩm (tái thẩm) đối với họ” [34].
Quan điểm thứ sáu: là quan điểm trong Bộ luật TTHS Việt Nam năm
2003: quyền bào chữa thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11 Bộ luật
TTHS năm 2003).
Ngoài các quan điểm trên, trong Bộ luật TTHS của các nước trên thế giới

cũng có những quan điểm khác nhau về chủ thể của quyền bào chữa.
Bộ luật TTHS Liên bang Nga quy định: “Người bào chữa được tham gia
tố tụng từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp người bị
tình nghi thực hiện tội phạm bị giam giữ hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam trước khi khởi tố bị can thì khi nhận được biên bản về việc bắt hoặc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam” [44].
Theo giáo sư M.X.Xtrôgôvích thì : “Quyền bào chữa là tổng hòa các
hành vi tố tụng hướng tới bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc
nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can” [36].


9
Theo Bộ luật TTHS Nhật Bản thì quyền bào chữa chỉ thuộc về người bị
tình nghi và bị cáo. Điều 30 Bộ luật này quy định: “Bị cáo hoặc người bi tình
nghi có thể lựa chọn luật sư bất cứ lúc nào” [19].

Quyền bào chữa là một trong các quyền cơ bản của công dân. Điều 17
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm…. Nghiêm cấm mọi hình thức bức cung, dùng nhục hình, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của công dân”.
Có thể hiểu: “Bào chữa là hành vi của một người đưa ra các tình tiết và
chứng cứ chứng minh cho sự không có lỗi hoặc làm giảm lỗi của mình”. Vì vậy,
quyền bào chữa chỉ thuộc về người nào bị coi là có lỗi bao gồm cả lỗi kỷ luật, lỗi
hành chính, lỗi dân sự, lỗi hình sự. Quyền bào chữa với ý nghĩa là khái niệm
chung bao hàm cả quyền bào chữa của người bị coi là có lỗi hành chính, lỗi kỷ
luật, quyền bào chữa của bị đơn dân sự (trong tố tụng dân sự) và quyền bào chữa
của người bị coi là có lỗi hình sự (quyền bào chữa trong TTHS).
Người nào bị coi là có lỗi hình sự, bị buộc tội thì có quyền bào chữa
trong TTHS.

“Như một chức năng tố tụng, bào chữa tồn tại ở tất cả các giai đoạn của
TTHS, ở đâu có buộc tội thì ở đó có bào chữa” [30].
“Buộc tội trong TTHS là hành vi của các cơ quan THTT nhằm xác định
trách nhiệm hình sự đối với người buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về hình sự đó
được xác định ở thời điểm ấy” [30].
Bị can bị buộc tội bằng quyết định khởi tố bị can, phải chịu những hậu
quả pháp lý: bị điều tra hình sự, có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế
TTHS…


10
Bị cáo bị buộc tội bằng bản cáo trạng của VKS, hậu quả pháp lý của việc
buộc tội này là bị cáo có thể bị kết án, có thể phải chịu hình phạt… Người bị tạm
giữ tuy chưa bị buộc tội bằng một văn bản có tính chất pháp lý nhưng đối với họ
đã có quyết định tạm giữ và họ đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng là tạm
giữ. “Cơ sở coi một người là người bị tình nghi phạm tội là các dữ kiện khách
quan và không thể bắt giữ một người khi ĐTV và CQĐT “nghi” là họ phạm tội
vì bản thân sự nghi ngờ mang tính chủ quan” [36].
Theo từ điển tiếng Việt: “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh
vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước tòa án hoặc cho
một việc làm đang bị lên án” còn “tự bào chữa là tự mình thực hiện” [42].
Quyền bào chữa trong TTHS được hiểu như sau: “Quyền bào chữa trong
TTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực
hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần
hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách
nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong TTHS quyền bào chữa chỉ
thuộc về những chủ thể: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ngoài những chủ thể
trên, những người khác không chịu sự buộc tội thì không có quyền bào chữa. So
với bộ luật TTHS năm 1988 thì quyền bào chữa được qui định trong bộ luật

TTHS năm 2003 có sự sửa đổi quan trọng, đó là sự bổ sung vào nguyên tắc này
là ngoài bị can, bị cáo thì người bị tạm giữ cũng có quyền không những tự bào
chữa mà cả quyền nhờ người khác bào chữa. Quy định này thể hiện quan điểm
bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân nói chung và trong TTHS nói riêng.
1.1.2. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo
1.1.2.1. Khái niệm


11
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
được hiểu như sau: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là một quy định của luật TTHS trong đó xác định người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa đồng thời quy
định các cơ quan THTT có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật”. Để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình họ có thể sử dụng những quyền năng khác
được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện.
Khái niệm đã làm rõ chủ thể thực hiện quyền bào chữa; hình thức thực
hiện; quyền, nghĩa vụ của chủ thể cũng như cơ quan THTT trong việc bảo đảm
quyền đó.
1.1.2.2. Chủ thể thực hiện quyền bào chữa
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đã khẳng định rõ, chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới được bảo đảm
quyền bào chữa theo quy định của pháp luật.
- Người bị tạm giữ: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người
phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (Khoản 1 Điều
48 Bộ luật TTHS năm 2003).
Như vậy chỉ có những người bị bắt trong các trường hợp nêu tại Khoản 1

điều 48 và đã có quyết định tạm giữ nhưng chưa bị khởi tố về hình sự tức là chưa
có quyết định khởi tố về hình sự thì được gọi là người bị tạm giữ.
- Bị can: là người đã bị khởi tố về hình sự (Khoản 1 điều 49 Bộ luật
TTHS năm 2003) tức là một người khi đã có quyết định khởi tố bị can thì được
gọi là bị can.


12
- Bị cáo: là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử (Khoản 1 điều
50 Bộ luật TTHS năm 2003). Kể từ khi có quyết định của toà án đưa bị can ra
xét xử thì người đó được gọi là bị cáo.
Tại các điểm d khoản 2 điều 48, điểm e khoản 2 điều 49 và điểm e khoản
2 điều 50 đều có quy định cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
1.1.2.3. Hình thức thực hiện quyền bào chữa
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện dưới
hai hình thức là tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa.
- Tự bào chữa là hình thức người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng các
quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ
những lợi ích hợp pháp của mình.
- Nhờ người khác bào chữa là hình thức người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
uỷ thác việc bào chữa cho người bào chữa. Người bào chữa được sử dụng mọi
biện pháp do luật định để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp
đỡ họ về mặt pháp lý.
Bộ luật TTHS qui định rất cụ thể những người nào là người bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người nào không được bào chữa.
Tại khoản 1 điều 56 Bộ luật TTHS qui định người bào chữa có thể là:
- Luật sư (LS)
- Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
- Bào chữa viên nhân dân.

Đồng thời tại khoản 2 điều 56 quy định những người sau đây không được
bào chữa:


13
- Người đã THTT trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc
đang THTT trong vụ án đó.
- Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người
giám định hoặc người phiên dịch.
Như vậy theo quy định tại khoản 1 điều 56 Bộ luật TTHS, người bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bao gồm 3 đối tượng là: LS, người đại
diện hợp pháp và bào chữa viên nhân dân. So với qui định tại khoản 1 điều 35
Bộ luật TTHS năm 1988 thì trong khoản 1 điều 56 Bộ luật TTHS năm 2003
được bổ sung thêm người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ cũng có thể là
người bào chữa cho người bị tạm giữ.
1.1.3. Cơ sở để quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS.
Cũng giống như những quy phạm pháp luật mang tính nền tảng, chỉ đạo
cho việc xây dựng và ban hành những quy phạm pháp luật thực định khác. Khi
ban hành quy phạm pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, các nhà làm luật phải căn cứ vào cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn để xây dựng và ban hành quy phạm pháp luật đó được chính xác, có
hiệu lực pháp lý cao.
1.1.3.1. Cơ sở lý luận
Có thể khẳng định rằng những căn cứ đầu tiên có tính chất nền móng và
cơ sở để quy định quyền bào chữa trở thành một nguyên tắc cơ bản, đặc thù
trong pháp luật TTHS xuất phát từ quyền con người. Tìm hiểu những nội dung
về quyền con người ta sẽ thấy rõ điều đó.
Những ý tưởng về: "quyền con người" ra đời rất sớm cùng với sự phân
chia giai cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước. Khác với các Nhà nước



14
phong kiến và tư bản phương Tây, chế độ Nhà nước phong kiến Việt Nam trải
qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn mang tính hà khắc. Song, thời kỳ đó
"phép vua" và "lệ làng" có tính dân tộc, nhân đạo, tiến bộ và được thể hiện rõ nét
trong Quốc triều Hình luật năm 1843. Thời kỳ này con người cũng có được một
số yếu tố về các quyền dù còn nhỏ nhặt và mang tính cộng đồng.
Khi cách mạng tư sản nổ ra thắng lợi với những tiền đề tư tưởng và thành
tựu của khoa học tự nhiên thì vấn đề quyền con người mới được đặt ra như một
học thuyết, hay nói cách khác, quyền con người bắt đầu được chính thức công
khai thừa nhận. Có thể nói rằng, sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên ngôn
độc lập của Hoa Kỳ 1776 và sau đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Pháp 1789.
Tiếp theo đó, các quyền và tự do của con người được ghi nhận tại Hiến
chương Liên hiệp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm
1948. Cụ thể hoá quyền con người trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hiệp
quốc thông qua Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (ngày
24/9/1982 Việt Nam gia nhập 2 Công ước này). Ở Việt Nam, Tuyên ngôn độc
lập năm 1945 đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho thời kỳ phát triển mới về
quyền con người trên đất nước ta.
Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất, được
hiểu là những đặc quyền mà con người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc
quyền mang tính tự nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự
do phát triển.
Như vậy, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được xã
hội thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con người mang
hai đặc tính cơ bản là tính nhân đạo và tính pháp luật.



15
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác
động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Pháp luật ghi nhận các quyền của
con người được xã hội thừa nhận. Thông qua pháp luật, quyền con người được
bảo vệ. Để bảo đảm quyền con người, pháp luật đưa ra những điều cấm và
những hành vi bắt buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi
phạm quyền con người. Quyền con người được pháp luật xác lập là thiêng liêng,
không thể xâm hại một cách tuỳ tiện và được bảo vệ bằng các biện pháp giáo
dục, thuyết phục và cưỡng chế của xã hội, Nhà nước. Điều 50 Hiến pháp 1992
khẳng định: quyền con người được quy định trong Hiến pháp và luật - là những
văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, nó buộc mọi người phải tôn trọng, phục tùng.
Nhà nước ban hành pháp luật là tạo cơ sở vững chắc cho mọi người tôn
trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các giá trị xã hội được thừa nhận,
bảo vệ, mà nổi bật trong các giá trị đó là quyền con người "Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật" (Điều 12 Hiến pháp 1992). Pháp luật là công cụ sắc bén, hữu
hiệu của Nhà nước để bảo đảm thực hiện quyền con người.
Quyền con người, quyền công dân được chia thành các nhóm chính sau:
- Các quyền tự do, dân chủ về chính trị: tham gia quản lý nhà nước, bầu
cử, bình đẳng nam nữ
- Các quyền về kinh tế – xã hội: quyền lao động, quyền tự do kinh doanh,
quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền thừa kế
- Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân): quyền được pháp luật bảo hộ
về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền khiếu nại, tố cáo … [27].
Tuyên ngôn về nhân quyền ngày 10/12/1948 khẳng định: “Bị cáo về một
tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp


16
trong một phiên toà xét xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền
biện hộ” Khoản 1 điều 11 [41].

Như vậy, trước khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn chưa bị coi là có tội, họ vẫn là những công
dân, những con người, chỉ khác là họ đang chịu sự buộc tội và phải chịu những
biện pháp tố tụng. Những biện pháp tố tụng được tiến hành đối với họ có thể hạn
chế quyền tự do hay động chạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền
được pháp luật bảo hộ về danh dự, nhân phẩm … những nội dung cơ bản của
quyền con người. Để đảm bảo các biện pháp đó được tiến hành một cách cần
thiết và hợp pháp tránh được sự độc đoán một chiều từ phía các cơ quan THTT,
pháp luật đã quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền bào chữa và cơ
chế bảo đảm quyền bào chữa được bảo đảm thực hiện.
Có thể thấy rằng quyền bào chữa là một nội dung cơ bản thể hiện quyền
con người và cơ sở lý luận của việc ban hành quy phạm pháp luật về nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo xuất phát từ quan
điểm xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân theo học thuyết của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời dựa trên quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta về xây dựng nhà nước Việt Nam
trở thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải tăng cường hiệu
lực quản lý Nhà nước, tăng cường vai trò bảo vệ của Nhà nước đối với xã hội,
đối với công dân. Trong đó có việc đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công
dân theo quy định của pháp luật.
1.1.3.2 Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các hoạt động của cơ quan
THTT ảnh hưởng tới các quyền của công dân, đặc biệt là các quyền cơ bản như:
quyền tự do thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh


17
dự, nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín,
điện tín, điện báo Vì vậy, Luật TTHS qui định các nguyên tắc nhằm đảm bảo
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bảo đảm quyền bào chữa của người

bị tạm giữ, bị can, bị cáo góp phần đảm bảo cho việc giải quyết vụ án nhanh
chóng chính xác, đòi hỏi CQĐT, cơ quan THTT thực hiện nghiêm chỉnh chức
năng, nhiệm vụ của mình. Điều 4 Bộ luật TTHS qui định: “Khi THTT, Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS,
KSV, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện
pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy
có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa”.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ được đảm bảo
khi các cơ quan THTT, người THTT thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình. Vì
vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan THTT cần tạo điều kiện thuận
lợi để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện được quyền bào chữa mà pháp
luật đã qui định. Mọi biểu hiện ngăn cản người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa đều là vi phạm pháp luật nghiêm trọng và bị xử lý.
Do vậy, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan THTT,
người THTT trong các hoạt động TTHS, tránh việc cơ quan và người THTT lạm
quyền trong khi thi hành công vụ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
đã được pháp luật bảo vệ.
Thực tiễn cho thấy việc tôn trọng thực hiện quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo còn hạn chế; đó là trong các việc thu thập, đưa ra các tài
liệu, đồ vật, yêu cầu để chứng minh sự vô tội hoặc tình tiết giảm nhẹ TNHS;
quyền được gặp gỡ bị can, bị cáo khi bị tạm giam; đảm bảo để bị cáo thực hiện


18
quyền bào chữa tại phiên toà, tranh luận với KSV mà ta sẽ xem xét tại Phần 3
luận văn này.
Trước tình hình vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ theo thủ tục
tố tụng ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, làm mất lòng tin của quần

chúng nhân dân đối với các cơ quan THTT, đòi hỏi việc đảm bảo quyền bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để hạn chế những sai sót nói trên, giúp
cho việc xử lý chính xác các hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội. Vì vậy việc ban hành quy phạm pháp luật về nguyên tắc đảm
bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS là một yêu
cầu tất yếu.
Như vậy, việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là rất cần thiết xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm quyền
con người và từ thực tiễn của quá trình tố tụng.
1.1.3.3. Cơ sở pháp lý
Xuất phát từ điều 132 Hiến pháp 1992 qui định: "Quyền bào chữa của bị
cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho
mình".
Để cụ thể hoá quy định trên. Bộ luật TTHS năm 2003 đã qui định một
nguyên tắc quan trọng tại điều 11 đó là: "Đảm bảo quyền bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo". Nguyên tắc này có ý nghĩa lớn đối với việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và là cơ sở để ban
hành quy định tại các điều 56, 57, 58 và điều 305 Bộ luật TTHS.
1.2. Vị trí, vai trò của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.


19
Đất nước ta đang trên đà phát triển song Nhà nước luôn chú ý tới việc
phát huy toàn diện quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm các quyền con
người. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước cơ quan THTT và cơ chế bảo
đảm việc thực hiện là nhiệm vụ của cơ quan đó chứng tỏ bản chất ưu việt của
Nhà nước ta.
Nguyên tắc này có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự.
Thứ nhất: Là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS,
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cho ta
cái nhìn tổng quan, thấy được bản chất của nguyên tắc cũng như những bất cập,
hạn chế của nó để định hướng cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Đồng
thời góp phần vào việc bảo đảm cho quá trình THTT được thực hiện một cách
thống nhất.
Thứ hai: Nguyên tắc là cơ sở quan trọng cho việc bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân khi tham gia TTHS,
Thứ ba: Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính dân chủ XHCN
trong hoạt động TTHS.
Nguyên tắc được quy định tạo điều kiện thuận lợi cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có cơ hội đưa ra những chứng cứ minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội
cho mình, cơ hội được tranh tụng bình đẳng trước Toà án.
Thứ tư: Việc thực hiện nguyên tắc góp phần tích cực vào việc bảo vệ
pháp chế XHCN, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của
hệ thống tư pháp hình sự; góp phần động viên và tạo điều kiện để các cơ quan, tổ


20
chức và mọi công dân tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm và dân
chủ hóa quá trình tố tụng.
Thứ năm: Việc thực hiện nguyên tắc góp phần vào việc xác định sự thật
khách quan của vụ án, bảo đảm trong quá trình tố tụng không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, bảo đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật; tránh sự áp đặt duy ý chí chủ quan của một bên.
Thứ sáu: Khi đã hiểu sâu, nắm vững bản chất của nguyên tắc sẽ giúp cho
các chủ thể trong quan hệ TTHS chủ động sử dụng quyền cũng như nghiêm
chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng các yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật,

đây chính là cơ sở tiền đề cho quá trình TTHS được vận hành một cách đồng bộ,
thống nhất và có hiệu quả. Qua đó ta có thể kịp thời sửa đổi bổ sung điều chỉnh
quyền bào chữa cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh tố tụng nước ta.
Tóm lại: nghiên cứu về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có ý nghĩa thiết thực trên tất cả các phương diện lý luận
nhận thức và áp dụng pháp luật.
1.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong quan hệ với việc bảo vệ quyền con ngƣời trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không những được
pháp luật ghi nhận mà còn được pháp luật bảo vệ. Quá trình giải quyết vụ án
hình sự phải tuân thủ những trình tự, thủ tục được quy định chặt chẽ trong pháp
luật.
Đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ là những người mà quyền
con người dễ có nguy cơ xâm hại từ phía các cơ quan THTT. " Sự xâm hại đó có
thể do trình độ non kém trong tổ chức quản lý, do năng lực làm việc hoặc do


21
thiếu tinh thần trách nhiệm và cũng có thể do một bộ phận công chức thoái hoá
biến chất, vô đạo đức" [35].
Khác với các quan hệ pháp luật khác (hành chính, dân sự, kinh tế), trong
quan hệ pháp luật hình sự (cả hình sự và TTHS), hàng loạt các quy định riêng
được đặt ra nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân của các bên tham
gia tố tụng nói chung và của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng. Đó là các
quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân, nghĩa vụ của Nhà nước,
của các cơ quan, người THTT, quy định về tội phạm, hình phạt, trình tự, thủ tục
THTT. Tổng thể các quy định đó được tập hợp thành những tư tưởng, nguyên
tắc: công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế mà hướng tới mục tiêu chung là bảo
đảm quyền con người. Các quy định đó không chỉ nhằm tạo cơ sở pháp luật cần

thiết cho các cơ quan, cá nhân THTT và tránh được lạm dụng mà trước hết và
chủ yếu là để bảo vệ con người, giúp mọi người biết rõ pháp luật để phòng tránh
việc vi phạm điều cấm của pháp luật, đồng thời cũng biết được quyền của mình
mà thực hiện, bảo vệ.
Để bảo đảm quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
pháp luật đưa ra một loạt các quy định buộc các bên tiến hành và tham gia tố
tụng phải tuân thủ. “Pháp luật bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự là
tổng thể các qui phạm pháp luật qui định về tội phạm, hình phạt và xét xử hình
sự cùng các quy định khác nhằm bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của
bị cáo và các bên có liên quan không bị xâm hại trái pháp luật”.
Như vậy, việc bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự phải được thể
hiện trên tất cả các phương diện vừa nêu. Nó không dừng lại ở việc qui định tội
phạm, hình phạt mà còn qui định việc xét xử các vụ án hình sự. Có nghĩa là nó phải
được bảo đảm ở trong cả lĩnh vực lập pháp và áp dụng pháp luật, ở cả trong luật nội
dung và luật hình thức. Ở đó, quyền, nghĩa vụ của các bên tiến hành và tham gia tố

×