Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của tòa án nhân dân ở tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 79 trang )

Bộ Giáo dục và Đào tạo

bộ tư pháp

trường đại học luật hà nội

PHAN TH THANH MAI

áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp về hợp đồng dân sự của tòa án
nhân dân ở tỉnh vĩnh phúc
Chuyờn ngnh : Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s

: 60 38 01 01

luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Minh Tâm

Hà nội - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ nêu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Phan Thị Thanh Mai


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỂ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG
DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

6

1.1. Khái quát những vấn đề chung về áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân

6

1.2. Nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng dân sự của Toà án nhân dân

17

1.3

Hiệu quả, các tiêu chí đánh giá hiệu quả và các điều kiện đảm
bảo hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về

hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân

27

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG
DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH VĨNH PHÚC

36

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và tình hình tổ chức, hoạt 36
động của Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc có ảnh hưởng đến
hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng dân sự
2.2.

Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng dân sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2008
đến năm 2012

39

2.3. Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật 62
trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân
dân ở tỉnh Vĩnh Phúc
KẾT LUẬN

70


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam năm 2005

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Kết quả thụ lý và giải quyết sơ thẩm án tranh chấp hợp
đồng dân sự của các huyện, tỉnh năm 2008


48

Bảng 1.2: Kết quả thụ lý và giải quyết sơ thẩm án tranh chấp hợp
đồng dân sự của các huyện, tỉnh năm 2009

48

Bảng 1.3: Kết quả thụ lý và giải quyết sơ thẩm án tranh chấp chấp
hợp đồng dân sự của các huyện, tỉnh năm 2010

49

Bảng 1.4: Kết quả thụ lý và giải quyết sơ thẩm án tranh chấp chấp
hợp đồng dân sự của các huyện, tỉnh năm 2011

49

Bảng 1.5: Kết quả thụ lý và giải quyết sơ thẩm án tranh chấp chấp
hợp đồng dân sự của các huyện, tỉnh năm 2012

50

Bảng 1.6: Kết quả án sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện ở tỉnh
Vĩnh Phúc bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm

51

Bảng 1.7: Kết quả án sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm


51


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cũng như trong cuộc sống hàng ngày
một yếu tố không thể thiếu được là phải có giao lưu dân sự, đó là sự chuyển giao tài
sản, quyền tài sản hoặc thực hiện một dịch vụ nào đó giữa người này với người
khác, giữa tổ chức này với tổ chức khác, giữa pháp nhân này với pháp nhân khác.
Sự giao lưu dân sự đó thường được hình thành thông qua sự thỏa thuận giữa các bên
và được gọi là hợp đồng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, đặc biệt
là những thành tựu đáng trân trọng trong đời sống kinh tế - xã hội theo đường lối
sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thành phần kinh tế có cơ hội tốt để phát
triển. Các hợp đồng có giá trị lớn và rất lớn liên quan đến nhiều người, nhiều tổ
chức trong và ngoài nước được ký kết và thực hiện nhưng các điều kiện về pháp
luật được ghi trong hợp đồng chưa bảo đảm, thiếu tính cụ thể và chặt chẽ, rất dễ
phát sinh tranh chấp gây những thiệt hại cho các bên và gây ra các tiêu cực cho xã
hội. Số lượng tranh chấp trong các lĩnh vực dân sự nói chung và tranh chấp hợp
đồng dân sự nói riêng trong những năm gần đây diễn ra rất phong phú, đa dạng và
không kém phần phức tạp. Có không ít trường hợp vụ án đã được giải quyết theo
đúng quy định của pháp luật từ cấp sơ thẩm, phúc thẩm và hoàn toàn không có căn
cứ để kháng nghị giám đốc thẩm nhưng các đương sự vẫn khiếu nại kéo dài ở nhiều
cấp, nhiều ngành, tới nhiều cơ quan lãnh đạo với hy vọng để được xem xét lại. Có
những vụ án có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ, nhưng hết
thời hiệu xem xét lại hoặc không còn cấp xét xử để xem xét. Trước tình hình đó,
ngành Tòa án trong cả nước đã phải tập trung giải quyết một số lượng lớn các vụ án
tranh chấp hợp đồng dân sự trong điều kiện trình độ Thẩm phán khác nhau. Hầu hết
các bản án và quyết định của Tòa án được ban hành đúng pháp luật, khách quan,
dân chủ, thấu tình đạt lý, đúng thời hạn luật định và có tính giáo dục ý thức tôn

trọng pháp luật trong quần chúng nhân dân. Chính điều này đã góp phần rất quan
trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của


2
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân theo quy định của
pháp luật.
Tuy nhiên, thực tiễn việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
ngành Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang đặt ra những yêu cầu vừa cấp
bách, vừa lâu dài để không ngừng nâng cao chất lượng xét xử trong quá trình thực
hiện cải cách tư pháp ở nước ta theo đúng đường lối của Đảng.
Với mong muốn vận dụng những kiến thức lý luận chung về áp dụng pháp
luật vào việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân cho nên
tìm hiểu các quy định của BLDS, BLTTDS về hợp đồng dân sự và việc áp dụng các
quy định này vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự của Toà án nhân
dân, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp
về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp
về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học pháp lý. Đặc biệt, trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; phát huy dân chủ đi đôi với việc tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa và thực hiện cải cách tư pháp thì số lượng các bài viết, công
trình nghiên cứu về cải cách tư pháp, về hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và
áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân
dân nói riêng tăng lên rõ rệt… Có thể liệt kê một cách không thật sự đầy đủ các
công trình đó như sau:
- Đề tài nghiên cứu cấp bộ “Những vấn đề cơ bản về BLDS Việt Nam” năm
1997 của Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm khoa học xã hội

nhân văn;
- Đề tài nghiên cứu cấp trường “Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay”
xuất bản năm 2009 do T.S Nguyễn Thị Hồi (Chủ biên);


3
- TS Lê Xuân Thân với đề tài “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, năm 2004;
- Cuốn “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật Hợp đồng ở Việt
Nam hiện nay”, xuất bản năm 2003 của Đại học quốc gia Hà Nội.
- TS Mễ Lương nghiên cứu đề tài “Hợp đồng dân sự trong pháp luật của của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và pháp luật của Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa”, năm 2010;
- ThS Đào Anh Tuấn với đề tài “Mối tương quan giữa hợp đồng dân sự với
hợp đồng thương mại”, năm 2000;
- ThS Trần Kim Chi với đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp
đồng dân sự”, năm 1997.
Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành như
bài của TS Bùi Đăng Hiếu “Sửa đổi quy định về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân
sự”, Tạp chí Luật học số đặc san 11 năm 2003; Phạm Văn Tuyết “Các thời điểm
trong hợp đồng dân sự”, Tạp chí Luật học số 5 năm 2011; Nguyễn Văn Cường và
Nguyễn Thị Thu Hồng với “Một số khuyến nghị sửa đổi BLDS về vấn đề trách
nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng dân sự”, Tạp
chí Toà án, Toà án nhân dân tối cao số 7 năm 2010; TS Nguyễn Ngọc Khánh “Giao
kết hợp đồng dân sự - một số vấn đề về lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Kiểm sát số 11
năm 2001; Nguyễn Hải An với “Vi phạm thực hiện hợp đồng dân sự”, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật số 1 năm 2011.
Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong giải
quyết các tranh chấp của Tòa án nhân dân dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước
và pháp luật là một việc làm cần thiết để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp đang

đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu
nào phân tích một cách có hệ thống về áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh
chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc. Lần đầu tiên, tác
giả nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp của Tòa án nhân dân hiện nay.


4
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tác giả tập trung nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật để giải quyết tranh
chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc trong khoảng thời
gian từ năm 2008 đến năm 2012.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài này là hệ thống các quan điểm duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về tăng cường pháp chế, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đặc biệt các
quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong lĩnh vực hợp đồng dân sự.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp lịch
sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, quy nạp, diễn giải…
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài “Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng dân sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc”, nhằm đạt được những mục
đích sau đây:
- Nghiên cứu những khái niệm về áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh
chấp về hợp đồng dân sự;
- Phân tích nội dung của hoạt động này trong những năm qua của Tòa án;
- Nêu ra những hạn chế của pháp luật hiện hành về hợp đồng từ đó đưa ra
một số biện pháp pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải

quyết tranh chấp hợp đồng dân sự của Toà án nhân dân, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động áp dụng pháp luật của hệ thống Tòa án nước ta.
5.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài: Để đạt được những mục đích trên
đây, cần có các nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, xây dựng khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về
hợp đồng dân sự và nêu ra các đặc điểm, nội dung cũng như các giai đoạn của việc
áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự;


5
Hai là, đánh giá nội dung của hoạt động này trong những năm gần đây của
Tòa án nhân dân, nêu được những hạn chế, bất cập của hoạt động áp dụng pháp luật
từ đó đưa ra một số biện pháp pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự.
Ba là, đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài
- Phân tích và làm rõ khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp về hợp đồng dân sự;
- Đánh giá nội dung và chỉ ra được những hạn chế, bất cập của hoạt động áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án
nhân dân;
- Đề xuất, phân tích được những giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo áp
dụng pháp luật có hiệu quả trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa
án nhân dân.
7. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về
hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân ở
tỉnh Vĩnh Phúc.


6
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỂ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự và tranh chấp hợp đồng dân sự
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự
Hợp đồng dân sự vốn đã là một phương thức cơ bản để các chủ thể thực hiện
việc lưu thông và trao đổi hàng hoá dịch vụ. Trong nền kinh tế hàng hoá và sự giao
lưu kinh tế trên phạm vi toàn thế giới thì hợp đồng dân sự càng có một vai trò quan
trọng. Để hợp đồng dân sự trở thành một phương thức pháp lý, đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho các chủ thể trong quá trình giao lưu dân sự, bất kỳ một quốc gia nào
cũng đều phải ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về các loại
hợp đồng dân sự, xác định cách thức giao kết, cách thức thực hiện hợp đồng, ghi
nhận quyền, xác định nghĩa vụ của các bên trong các hợp đồng và đảm bảo cho các
quyền, nghĩa vụ đó được thực hiện.
Ở nước ta, hợp đồng dân sự được định nghĩa tại Điều 388 BLDS 2005, như
sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo định nghĩa này ta thấy nổi bật lên hai nét
cơ bản của hợp đồng dân sự. Đó là: Thứ nhất, sự thoả thuận giữa các bên; Thứ hai,
làm phát sinh hậu quả pháp lý (xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
dân sự).

Với nét cơ bản thứ nhất sẽ cho chúng ta thấy rằng sự thoả thuận là yếu tố bắt
buộc phải có trong hợp đồng. Khi nói đến hợp đồng bao giờ cũng có sự thoả thuận
ít nhất của hai bên. Hợp đồng được thiết lập khi có sự thoả thuận của các bên trong
việc làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Nói cách khác, cơ sở


7
đầu tiên và không thể thiếu để hình thành một hợp đồng dân sự là sự thoả thuận
bằng ý chí tự nguyện của các bên. Cũng chính dấu hiệu này cho chúng ta nhận biết
rằng nếu các hợp đồng được thiết lập mà thiếu tính tự nguyện của các bên hoặc một
trong các bên thì hợp đồng đó có thể bị coi là vô hiệu và không làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ giữa các bên tham gia hợp đồng.
Sự thoả thuận của các bên mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để hình
thành hợp đồng. Nếu sự thoả thuận của các bên không nhằm mục đích tạo lập ra
hiệu lực pháp lý (quyền và nghĩa vụ) thì cũng không hình thành hợp đồng. Vì vậy,
hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Có thể hiểu việc xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự
tức là trước đó các bên chưa có quyền và nghĩa vụ nào đối với nhau, mà chỉ qua sự
thoả thuận thì các bên mới tạo ra quyền và nghĩa vụ với nhau; thay đổi quyền và
nghĩa vụ dân sự nghĩa là giữa các bên đang tồn tại một hợp đồng, trong đó quy định
rõ quyền và nghĩa vụ dân sự mỗi bên, nay các bên có thể thoả thuận làm thay đổi
quyền và nghĩa vụ đó; chấm dứt nghĩa vụ có nghĩa là nghĩa vụ dân sự đang tồn tại
nay các bên có sự thay đổi, thoả thuận, chấm dứt nghĩa vụ. Việc làm thay đổi hay
chấm dứt nghĩa vụ trên thực tế là các bên đã giao kết hợp đồng mới, do đó nó đòi
hỏi phải có sự thoả thuận của các bên trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng.
1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp hợp đồng dân sự
Qua quá trình tìm tòi và nghiên cứu tác giả thấy rằng không có văn bản pháp
luật nào định nghĩa “tranh chấp hợp đồng” là gì. Tuy nhiên, tiếp cận ở góc độ khoa
học pháp lý thì tranh chấp hợp đồng được hiểu là những xung đột, bất đồng, mâu
thuẫn giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ

trong hợp đồng. Trên cơ sở đó, có thể hiểu tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dân sự
là tình trạng pháp lý trong quan hệ hợp đồng dân sự, mà ở đó các bên thể hiện sự
xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng dân sự. Một hợp đồng dân sự chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột,
bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài (mặt
khách quan) thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được.


8
Tranh chấp hợp đồng nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng phải hội tụ đủ
các yếu tố sau: Có quan hệ hợp đồng tồn tại giữa các bên; có sự vi phạm nghĩa vụ
(hoặc cho rằng là vi phạm nghĩa vụ) của một bên trong quan hệ đó; có sự bất đồng ý
kiến của các bên về sự vi phạm hoặc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm.
Tranh chấp hợp đồng thường hình thành từ sự vi phạm hợp đồng nhưng
không phải sự vi phạm nào cũng dẫn đến tranh chấp hợp đồng. Việc phân loại tranh
chấp hợp đồng hiện nay có ý nghĩa trong việc lựa chọn, phân định thẩm quyền giải
quyết tranh chấp. Đối với tranh chấp hợp đồng dân sự thì thuần túy thuộc thẩm
quyền của Tòa án (dân sự).
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật là phương tiện để thể chế hoá đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô
toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội như kinh
tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, an ninh quốc phòng, khoa học kỹ thuật…là phương
tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình. Tuy nhiên, để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống thì ngoài yếu tố như sự
phù hợp của hệ thống quy phạm pháp luật với các điều kiện kinh tế, lịch sử, trình độ
phát triển của xã hội, Nhà nước còn phải quan tâm đến hoạt động tổ chức thực hiện
và áp dụng pháp luật một cách nghiêm minh. Bởi lẽ, cho dù có ban hành ra những
văn bản pháp luật hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các quy định của những văn bản

đó không thực hiện được trên thực tế thì mục đích điều chỉnh pháp luật vẫn chưa đạt
được mà chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong đời
sống thực tế.
Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật có
những đặc điểm riêng và bao giờ cũng có sự tham gia của cơ quan nhà nước, nhân
viên nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp luật
được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể được
thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật được xử lý


9
nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ xã hội đã và đang được thiết lập. Áp
dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do
nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Trong hoạt động
tư pháp, áp dụng pháp luật thường được Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân…tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng
cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết vụ án nhằm xác định sự thật khách quan;
truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ
pháp luật.
Áp dụng pháp luật vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức
Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật.
Áp dụng pháp luật thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bằng những chế tài thích hợp đối
với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
- Khi các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể không tự phát sinh nếu
không có sự tác động của Nhà nước.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia
các quan hệ pháp luật mà họ không tự giải quyết được.
- Trong trường hợp Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám
sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại

hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì áp dụng pháp luật được hiểu là:
Hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ
quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ
thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn
cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát
sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể
[9, tr.186].


10
Theo cuốn tài liệu Học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật (tập 1) của Viện Nhà nước và pháp luật thuộc Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì:
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật diễn ra trong
hoạt động thực hiện quyền hành pháp và thực hiện quyền tư pháp của
Nhà nước. Đây là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước
được xem như là đảm bảo đặc thù của Nhà nước sao cho các quy phạm
pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong đời sống xã hội [26, tr.245].
Theo cuốn đề tài nghiên cứu cấp trường, trường Đại học Luật Hà Nội về Áp
dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay của chủ nhiệm đề tài là T.S Nguyễn Thị Hồi
cho rằng:
Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do
các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật tiến hành nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành
vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể [28,
tr.12].
Như vậy, thực tế có nhiều quan điểm, cách tiếp cận và biểu đạt khác nhau về
áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, đa số các tác giả đều thống nhất coi áp dụng pháp

luật là một trong các hình thức thực hiện pháp luật và đó là hình thức thực hiện
pháp luật có sự can thiệp của nhà nước với những đặc trưng cơ bản, đặc thù làm cho
áp dụng pháp luật khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác.
1.1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật
Qua nghiên cứu cho thấy, áp dụng pháp luật có một số đặc điểm đặc thù sau:
- Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực
nhà nước. Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành, mỗi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mỗi cá nhân chỉ được giao một số hoạt
động nhất định trong phạm vi thẩm quyền của mình. Hoạt động áp dụng pháp luật
được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước hay những
người có thẩm quyền không phụ thuộc vào ý chí của những chủ thể có liên quan.


11
Trong trường hợp cần thiết áp dụng pháp luật được thực hiện bằng cưỡng chế Nhà
nước. Trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan nhà nước và những người có
thẩm quyền phải xem xét cân nhắc thận trọng và dựa trên những quy phạm pháp
luật đã được xác định để ra văn bản áp dụng pháp luật cụ thể. Văn bản áp dụng pháp
luật là hình thức thể hiện chính thức của hoạt động áp dụng pháp luật, là văn bản
pháp lý cá biệt mang tính quyền lực do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền xây
dựng, được nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật
nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của cá nhân tổ chức hoặc xác định
những biện pháp, trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp luật.
- Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động được tiến hành theo trình tự, thủ
tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan
hệ pháp luật được pháp luật quy định rõ ràng nên các cơ quan nhà nước và những
người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định
để tránh sự tuỳ tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng, thiếu chính
xác ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Hình thức thể hiện của áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật được thể

hiện cụ thể bằng các bản án, quyết định…các loại văn bản trên phải phù hợp với
pháp luật, được dựa trên những quy phạm pháp luật cụ thể. Văn bản áp dụng pháp
luật có hai loại là văn bản xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể và văn bản
bảo vệ pháp luật chứa đựng những biện pháp trừng trị, cưỡng chế đối với những cá
nhân, tổ chức vi phạm luật.
- Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt cụ thể đối với các
quan hệ xã hội xác định trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp
luật.
Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật sẽ được cá biệt hoá một cách chính
xác thành mệnh lệnh cụ thể đối với những chủ thể cụ thể. Tuy nhiên, mệnh lệnh cụ
thể không được trái với mệnh lệnh chung đã nêu trong quy phạm pháp luật.
- Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo do vậy các cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật cần phải nghiên cứu kỹ


12
vụ việc và làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để lựa chọn những quy phạm pháp
luật, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật
chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng sáng tạo bằng cách áp dụng
tập quán hoặc áp dụng pháp luật tương tự để giải quyết vụ việc. Để làm được điều
đó, đòi hỏi những người có thẩm quyền phải có tinh thần trách nhiệm, ý thức pháp
luật cao, kinh nghiệm phong phú, đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt.
Ở Việt Nam, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi
hỏi phải đề cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng như Toà án.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh
chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân
1.1.3.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng dân sự của Tòa án nhân dân
Hiện nay, những quy định về hợp đồng dân sự chiếm một vị trí quan trọng

với số lượng điều luật đáng kể, có tính khái quát cao và quy định tương đối đầy đủ,
toàn diện về hợp đồng dân sự trong BLDS (BLDS dành riêng mục 7 chương XVII
gồm 40 điều (từ Điều 388 - 427) và chương XVIII gồm 166 điều (từ Điều 428 593) để quy định về hợp đồng dân sự). Kể từ khi Nhà nước ban hành BLDS đầu
tiên năm 1995 và BLDS sửa đổi năm 2005, thì những quy định của BLDS về hợp
đồng dân sự là căn cứ quan trọng, được Toà án các cấp áp dụng để giải quyết những
tranh chấp về hợp đồng dân sự, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại không ít khó
khăn, lúng túng. Vì trong BLDS vẫn còn có những quy định chưa thật sự phù hợp
với thực tế của đời sống xã hội, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội
nhập nền kinh tế thế giới.
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa
án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu
tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, mặc dù không quy định rõ Tòa án là cơ quan
xét xử, nhưng trên tinh thần của Hiến pháp chúng ta cũng có thể hiểu Tòa án là cơ
quan xét xử. Sau đó, Hiến pháp năm 1959, 1980, và 1992 đã quy định rõ về chức


13
năng xét xử của Tòa án. Tại Điều 27 của Hiến pháp 1992 đã quy định: “Tòa án nhân
dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án
khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định về
chức năng xét xử của Tòa án: “Tòa án xét xử những vụ án về hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo
quy định của pháp luật”. Theo quy định của BLTTDS thì Tòa án là cơ quan tiến
hành tố tụng chủ yếu trong việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
nói chung và tranh chấp về hợp đồng dân sự nói riêng. Ngoài ra, còn có sự tham gia
của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy
định của pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự kịp thời, đúng pháp
luật, nâng cao hiệu quả của chất lượng giải quyết tranh chấp.

Từ phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân như sau:
Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự là hoạt
động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt
động của Thẩm phán (trong trường hợp giải quyết tranh chấp không phải mở phiên
tòa xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử) căn cứ
vào các quy định của pháp luật dân sự, tố tụng dân sự, các quy định khác của pháp
luật để ra một quyết định cá biệt hoặc một bản án làm phát sinh, thay đổi hay chấm
dứt các quan hệ pháp luật về hợp đồng dân sự.
Như vậy, áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự
của Tòa án nhân dân là hết sức quan trọng góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
1.1.3.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng dân sự của Tòa án nhân dân
Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa
án nhân dân là một hình thức cụ thể của áp dụng pháp luật nên khi thực hiện, người


14
áp dụng pháp luật phải tuân theo những nguyên tắc chung. Tuy nhiên, do tính chất
riêng biệt của các quan hệ hợp đồng cùng với trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng dân
sự trong giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự của Tòa án có những đặc điểm riêng
biệt, vì vậy có thể xem xét, nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu một số đặc điểm cơ bản như sau:
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự của Tòa án
nhân dân là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước được thực hiện thông qua
những người có thẩm quyền là Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử.
Tính chất nhân danh quyền lực Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật trong
giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân trước hết được thể hiện
ở chủ thể áp dụng pháp luật. Trong trường hợp này là Toà án nhân dân. Đây là cơ

quan được thành lập theo quy định của Hiến pháp, có chức năng xét xử và giữ vị trí
trung tâm trong hoạt động tư pháp. Toà án thực hiện chức năng xét xử của mình
thông qua những người có thẩm quyền là Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử. Thẩm
phán hoặc Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước để xét xử và ra bản án, quyết định
áp dụng pháp luật đối với những hành vi vi phạm. Mỗi một bản án, quyết định đúng
đắn, chính xác, nghiêm minh và công bằng của Tòa án nhân dân là mỗi viên gạch
xây dựng nên nền công lý xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển niềm tin yêu của
nhân dân đối với cơ quan Tòa án, đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có sức mạnh và tác dụng
giáo dục to lớn ý thức tôn trọng pháp luật trong quần chúng nhân dân; sống và làm
việc, xử sự theo đúng pháp luật và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của mình. Mỗi một bản án, quyết định oan sai trong quá trình áp dụng pháp
luật của Tòa án nhân dân đều là những sai lầm nghiêm trọng vì nó ảnh hưởng trực
tiếp đến uy tín của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến sự tín
nhiệm của nhân dân đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, đến quyền và lợi ích chính
đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Như vậy, có thể thấy rằng việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp
hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân càng chính xác, khách quan, công bằng,


15
nghiêm minh thì càng thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Ngược lại, những sai lầm khi áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân, đặc biệt là xét xử oan, sai
đều là những sai lầm nghiêm trọng và phải trả giá rất đắt.
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự của Toà án
nhân dân được tiến hành chủ yếu tại phiên toà.
Khác với hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác, áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân được tiến hành chủ yếu
tại phiên toà. Phiên toà xét xử trở thành một thuật ngữ chuyên dùng của Toà án

nhân dân với các nghi thức trang trọng, các thủ tục chặt chẽ thể hiện quyền uy của
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được tiến hành một cách công
khai, trừ một số trường hợp xử kín theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà, Hội
đồng xét xử tiến hành thẩm tra, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ án để từ đó có căn cứ ra văn bản áp dụng pháp luật chính xác, đúng quy
định. Phiên tòa xét xử của Tòa án nhân dân là nơi quần chúng nhân dân, các cơ
quan ngôn luận, báo chí trực tiếp chứng kiến và mong mỏi sự thật khách quan của
vụ án được làm sáng tỏ thông qua các thủ tục dân chủ, công khai. Phiên tòa xét xử
của Tòa án nhân dân cũng là nơi các quyền của con người, các quyền tự do dân chủ
của công dân, lợi ích của Nhà nước xã hội chủ nghĩa được bảo vệ; là nơi sự thật
khách quan của vụ án được xác định, công bằng xã hội được thực hiện một cách dân
chủ, triệt để và nghiêm túc.
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự của Toà
án phải tuân theo những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục do BLTTDS quy
định.
Trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự, việc áp dụng pháp luật của
Toà án luôn theo một trình tự, thủ tục nhất định, được các quy phạm pháp luật hình
thức quy định, cụ thể là được quy định trong BLTTDS. Đây là điểm khác biệt giữa
việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và tranh
chấp hợp đồng dân sự nói riêng với việc áp dụng pháp luật của nhiều ngành luật


16
khác. Do đó, tính chặt chẽ và logic của các quy phạm pháp luật trong giải quyết
tranh chấp về hợp đồng dân sự thường ở mức độ cao.
Các hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng dân
sự phải đảm bảo tính chặt chẽ và có căn cứ pháp luật. Mọi hành vi của người tiến
hành tố tụng và tham gia tố tụng trong quá trình xét xử từ khi thụ lý hồ sơ vụ án đến
khi bản án có hiệu lực pháp luật đều được BLTTDS quy định chặt chẽ. Các quan hệ
phát sinh trong quá trình xét xử đều được BLTTDS dự liệu trước để quy định các

quyền, nghĩa vụ của các chủ thể. Việc Toà án áp dụng các quy định của BLTTDS là
điều kiện bắt buộc và là tiền đề cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung
(quy phạm pháp luật Dân sự) để đi đến việc ra văn bản áp dụng pháp luật cuối cùng
là bản án. BLTTDS đã quy định rõ ràng, chặt chẽ từng bước tiến hành, từng thủ tục
trong quá trình xét xử một vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự. Những quy định đó đã
đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, chính xác và có cơ sở pháp lý.
- Nguyên tắc áp dụng luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự của
Toà án nhân dân: Toà án là cơ quan thụ lý và giải quyết tranh chấp hợp đồng dân
sự, nhân danh Nhà nước ra các phán quyết nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của các
đương sự. Chính vì vậy, đòi hỏi khi Tòa án áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh
chấp về hợp đồng dân sự, Toà án phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của
BLDS, BLTTDS cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đến việc áp dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự. Quá trình giải quyết tranh
chấp hợp đồng dân sự, nguyên tắc hòa giải luôn được Tòa án nhân dân quan tâm và
chú trọng nhằm đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình.
Thực hiện hòa giải cũng là việc vận dụng tối đa cơ hội rút ngắn quá trình tố tụng,
nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, đỡ tốn kém cho đương sự, thể hiện trách nhiệm
của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời
còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ
gìn khối đoàn kết cộng đồng.
Ngoài ra, như chúng ta đã biết, tranh chấp hợp đồng dân sự là một vấn đề
phức tạp, không ngừng vận động, biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội, hơn


17
nữa nước ta có nhiều dân tộc khác nhau và ở mỗi dân tộc lại có những phong tục,
tập quán khác biệt, trong khi đó các quy phạm pháp luật lại có sự ổn định trong từng
giai đoạn nhất định. Như vậy, những trường hợp không có quy phạm pháp luật điều
chỉnh một tranh chấp đang tồn tại là tất yếu. Thực tế hoạt động lập pháp ở nước ta
còn nhiều thiếu sót, hạn chế bởi trình độ chuyên môn của các nhà lập pháp chưa cao

nên vẫn còn những “lỗ hổng”. Khi ban hành các văn bản pháp luật, các nhà lập pháp
tuy có dự tính trước nhưng vẫn để cho phong tục, tập quán điều chỉnh và có những
trường các nhà lập pháp khó có thể dự liệu hết các quan hệ xã hội cần thiết phải
điều chỉnh và có thể phát sinh trong thực tế. Đây là một hiện tượng khá phổ biến, ví
dụ như việc không có quy định về thu mua, hụi, họ…Trong những trường hợp như
vậy cần phải vận dụng sáng tạo bằng cách áp dụng tập quán hoặc áp dụng pháp luật
tương tự để giải quyết vụ việc.
1.2. NỘI DUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.2.1. Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân
sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
1.2.1.1. Áp dụng pháp luật trong thụ lý vụ án
Thụ lý vụ án dân sự nói chung và tranh chấp hợp đồng dân sự nói riêng là
một thủ tục pháp lý khẳng định sự chấp nhận của Tòa án đối với việc giải quyết vụ
án. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thì Tòa án phải thông báo ngay cho người
khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường
hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày
nhận được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện
phải nộp tiền tạm ứng án phí. Toà án sẽ thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho
Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp người khởi kiện được miễn
hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi
nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.


18
Theo quy định tại Điều 172 BLTTDS thì: “Trong thời hạn ba ngày làm việc
kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ
án”
Như vậy, thụ lý vụ án là hoạt động đầu tiên của quá trình áp dụng pháp luật

trong giải quyết vụ án tranh chấp về hợp đồng dân sự. Điều kiện để thụ lý vụ án
tranh chấp hợp đồng dân sự đòi hỏi trước khi thụ lý Toà án phải xem xét nhiều vấn
đề liên quan như tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án, thẩm quyền theo vụ việc,
thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo cấp xét xử, xem xét người khởi kiện
có quyền khởi kiện hay không, có đủ năng lực hành vi dân sự không... sau khi có
đầy đủ các điều kiện để thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng thì Toà án
phải thụ lý vụ án đúng thời hạn của BLTTDS đã quy định.
1.2.1.2. Áp dụng pháp luật trong điều tra vụ án
Điều tra vụ án là giai đoạn quan trọng và khó khăn nhất trong quá trình giải
quyết vụ án, bởi chỉ khi thu thập chứng cứ đầy đủ, khách quan thì Toà án mới có thể
ra được phán quyết chính xác và đúng pháp luật. Do đó, đòi hỏi Thẩm phán giải
quyết vụ án phải thận trọng khi điều tra thu thập chứng cứ. Sau khi thụ lý vụ án,
Thẩm phán được Chánh án phân công giải quyết vụ án tiến hành các công việc như:
Thông báo thụ lý vụ án; yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án; thực
hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 BLTTDS thì nguyên tắc chung:
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân,
cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng
minh như đương sự [34, tr.86].
Đồng thời, tại Điều 79 BLTTDS cũng quy định về nghĩa vụ chứng minh:
Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ
và hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình


19
phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ
để chứng minh [34, tr.136]

Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu thấy chứng cứ mà đương sự giao nộp
chưa đầy đủ để giải quyết vụ án thì Toà án yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung
chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 85 BLTTDS. Trong trường hợp đương sự
không thể tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án được và có đề nghị thì
Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp như: lấy lời khai của đương
sự; đối chất; trưng cầu giám định; định giá tài sản… được quy định tại khoản 2 Điều
85 BLTTDS để thu thập tài liệu, chứng cứ.
Việc lấy lời khai của đương sự phải tuân theo quy định tại Điều 86 BLTTDS:
“Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai
hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ”. Từ kết quả lấy lời khai, nếu thấy có mâu
thuẫn thì cho đối chất giữa các đương sự với nhau nhằm làm sáng tỏ những vấn để
mâu thuẫn, việc đối chất phải được ghi lại thành biên bản có chữ ký của những
người tham gia đối chất.
Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể tiến hành ra một hoặc
một số quyết định như: Quyết định trưng cầu giám định, quyết định định giá tài sản,
quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ…Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự, Toà án có thể ra quyết định uỷ thác để Toà án khác hoặc cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ.
Quá trình điều tra cần tuân thủ nghiêm ngặt, chính xác các quy định của
BLTTDS thì mới đảm bảo tính khách quan, làm rõ bản chất sự thật khách quan và
giải quyết vụ án được chính xác, đúng quy định của pháp luật.
1.2.1.3. Áp dụng pháp luật trong tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có quyền ra quyết định
tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp được quy
định tại Điều 189 hoặc Điều 192 BLTTDS.
Khi ra quyết định tạm đình chỉ vụ án, Toà án không xoá tên vụ án bị tạm
đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số, ngày, tháng, năm


20

của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án và quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án đó có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án tranh chấp về hợp
đồng dân sự thì:
+ Đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án
dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án không có gì khác với vụ án trước về nguyên
đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 168, các điểm c, e và g khoản 1 Điều 192 của BLTTDS và các trường
hợp khác theo quy định của pháp luật.
+ Trong trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
theo quy định tại các điểm a, b, d, đ, e và k khoản 1 Điều 192 của BLTTDS thì tiền
tạm ứng phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước.
+ Trong trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
theo quy định tại các điểm c, g, h và i khoản 1 Điều 192 BLTTDS thì tiền tạm ứng
án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho họ.
+ Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm [34, tr.202].
1.2.1.4. Áp dụng pháp luật trong trường hợp hòa giải thành
Hoà giải là một thủ tục do Toà án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thoả
thuận với nhau về giải quyết vụ án. Việc hoà giải phải tuân theo quy định tại các
Điều 180, 181, 184, 185, 186 BLTTDS.
Trước khi tiến hành phiên hoà giải, Toà án phải thông báo cho các đương sự,
người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên
hoà giải, nội dung các vấn đề cần hoà giải.
Thành phần phiên hoà giải bao gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải; Thư
ký Toà án ghi biên bản hoà giải; Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của
đương sự, nếu đương sự không biết tiếng Việt thì phải có người phiên dịch.
Để hoà giải đạt kết quả cao, ngoài kiến thức pháp luật, Thẩm phán cần phải
hiểu biết sâu sắc về con người và xã hội, trên cơ sở đó có phương pháp hoà giải phù



×