Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Ths-Lich Su Dang-Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộcthiểu số từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.32 KB, 114 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vùng miền núi tỉnh Quảng Nam gồm 6 huyện miền núi cao là: Đông
Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My, Nam Trà My và một
số xã thuộc huyện Tiên Phước và Hiệp Đức, chiếm hơn 80% tổng diện tích tự
nhiên toàn tỉnh. Đây là địa bàn cư trú từ lâu đời của đồng bào thiểu số: Cờ Tu,
Xơ Đăng (gồm các nhóm Cơ Teng, Mơ Nâm, Cà Dong), Gié Triêng (gồm các
nhóm Bh’noong, Ve, Tà Riềng) và Cor với 102.190 người, chiếm hơn 7% dân
số toàn tỉnh. Trong số 113 xã được Chính phủ cơng nhận là miền núi năm
1999, có 63 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn; 12 xã biên giới ở hai huyện Tây
Giang, Nam Giang với 142km đường biên giới Việt - Lào.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ
tỉnh Quảng Nam, kinh tế - xã hội ở các huyện miền núi đã có những sự thay
đổi. Tuy nhiên, vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam là nơi cịn rất nhiều
khó khăn về kinh tế - xã hội, tốc độ phát triển kinh tế còn rất thấp; tỷ lệ hộ
đói, nghèo cịn cao; các dịch vụ về y tế, giáo dục… còn hạn chế. Sở dĩ như
vậy là do: xuất phát điểm về kinh tế rất thấp; phương thức canh tác lạc hậu,
năng lực ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ thấp; điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt, lũ lụt, hạn hán kéo dài nhiều đợt trong năm; mức độ đầu tư phát triển ở
khu vực này thấp; kết cấu hạ tầng yếu kém; kinh tế hàng hóa kém phát triển;
trình độ dân trí thấp…
Ngồi những ngun nhân khách quan trên, cịn có những ngun nhân
chủ quan bắt nguồn từ chính sách kinh tế - xã hội đối với miền núi và trong
việc tổ chức thực hiện các chính sách đó như: chưa nhận thức sâu sắc vị trí
quan trọng cũng như những đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội của miền núi;
chưa thật sự coi trọng sự nghiệp xây dựng miền núi là bộ phận hữu cơ trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như của tỉnh; chưa gắn
bó, liên kết chặt chẽ với việc phát triển kinh tế ở miền núi với miền xuôi; chưa



2
tổ chức nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể các vấn đề chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của miền núi gắn với vấn đề dân tộc trong
việc xác định chủ trương, chính sách đối với miền núi. Sử dụng vốn đầu tư
chưa đúng, nhất là chưa chú trọng đúng mức đến xây dựng kết cấu hạ tầng của
miền núi. Việc xác lập, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền núi
chưa phù hợp, cịn rập khn theo mơ hình của đồng bằng, thốt ly trình độ sản
xuất và điều kiện xã hội ở miền núi. Cách làm đó đã kìm hãm sản xuất phát
triển và gây ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế - xã hội…
Vì vậy, việc nghiên cứu, tổng kết quá trình thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội các huyện vùng miền núi, từ đó
rút ra những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo và tổ chức thực tiễn, đề xuất
những kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn công tác phát triển kinh tế - xã hội ở
vùng dân tộc, miền núi Quảng Nam trong thời gian tới là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp bách. Với những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn vấn đề:
“Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010” làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học lịch
sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi dân tộc thiểu số là một nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và tồn dân ta trong q
trình thực hiện chính sách dân tộc. Xung quanh vấn đề này có khá nhiều các
cơng trình nghiên cứu ở mức độ khác nhau:
- Chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc (2000), do Hội
đồng dân tộc của Quốc hội khoá X biên soạn, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
Sách tập hợp một cách cơ bản, có hệ thống những văn kiện của Đảng từ khi
thành lập đến năm 2000, cùng với Luật và những văn bản pháp quy của Nhà
nước, những bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân tộc và một số văn bản
về hoạt động của Hội đồng dân tộc của Quốc hội.



3
- Cơng trình Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở
miền núi (1996), do GS. Bế Viết Đẳng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia và
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội xuất bản, đề cập đến những quan điểm, đường
lối, chính sách dân tộc, những vấn đề phong phú, sinh động, nóng hổi và cấp
bách về thực trạng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thuộc vùng đồng bào
dân tộc thiểu số ở miền núi. Đồng thời, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất những
ý kiến tham khảo cho việc hoạch định những chính sách đối với đồng bào
vùng miền núi, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
- Cơng trình Phát triển kinh tế - xã hội vùng các dân tộc và miền núi theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa do PGS.TS Lê Du Phong và PTS.
Hồng Văn Hoa (chủ biên) (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã đánh
giá thực trạng kinh tế xã hội vùng dân tộc và miền núi nước ta, từ đó đưa ra
căn cứ khoa học cho các giải pháp phát triển vùng dân tộc miền núi theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phát triển kinh tế hàng hóa trong nơng thơn các tỉnh vùng núi phía Bắc
Việt Nam thực trạng và giải pháp (2000) của TS. Tô Đức Hạnh và TS. Phạm
Văn Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã đề cập đến quá trình
hiện thực hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với miền
núi. Đồng thời, các tác giả cũng đã cung cấp những tư liệu tham khảo với vấn
đề hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa ở nơng thơn vùng núi phía Bắc.
- Cơng trình Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (2002) của tập thể tác giả Viện
Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi tổ chức nghiên cứu, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, ấn hành. Cuốn sách đã trình bày cơ sở lý luận và thực
tiễn về chính sách dân tộc của Đảng ta và những định hướng cơ bản trong
việc quy hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế hàng hóa phù
hợp với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại



4
hóa, đặc biệt là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,
đồng thời kiến nghị những giải pháp sớm ổn định và cải thiện đời sống
đồng bào dân tộc thiểu số.
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây
Nguyên (2005) của PGS.TS Trương Minh Dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Cuốn sách đã trình bày vấn đề dân tộc, đặc điểm kinh tế - xã hội của các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, những vấn đề lý luận, thực tiễn đặt
ra trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở vùng này.
- Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam (2007),
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, đã đề cập đến các đặc điểm kinh tế, xã hội, văn
hóa, dân tộc, dân cư của các dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam, qua đó
nêu lên quá trình thực hiện và thực trạng việc vận dụng các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong những năm qua nhằm phát triển bền
vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam.
- Lao động, việc làm và phát triển kinh tế - xã hội nơng thơn Việt Nam
(2007) của tác giả Nguyễn Xn Khốt, Nxb Đại học Huế. Cuốn sách gồm 30
bài viết đề cập đến nhiều vấn đề cấp thiết của việc sử dụng nguồn lao động và
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn và miền núi Việt Nam trong các giai
đoạn phát triển. Cuốn sách đã góp phần làm sáng rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc sử dụng hợp lý nguồn lao động và phát triển kinh tế - xã hội ở nông
thôn và miền núi nước ta.
- Cơng trình Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở các tỉnh miền
Trung - Tây Nguyên trong những năm đổi mới (2009) của PGS. TS Trương
Minh Dục, do Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội xuất bản. Nội dung cuốn
sách đề cập đến việc vận dụng chính sách dân tộc của Đảng nhằm phát triển
kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi ở các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên

trong thời kỳ đổi mới.


5
Nghiên cứu vấn đề tổ chức lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện vùng miền núi của
Đảng bộ tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2001 đến 2010 là một hướng
nghiên cứu mới, liên quan đến đề tài này dưới nhiều góc độ và phương diện
khác nhau có một số đề tài khoa học cấp bộ, cấp cơ sở do các cán bộ khoa học
Phân viện Đà Nẵng, nay là Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III thực
hiện như:“Phát triển nơng nghiệp nông thôn ở các huyện miền núi tỉnh Quảng
Nam” (1996) do PTS. Phạm Thanh Khiết chủ nhiệm; “Nghị quyết Trung ương
5 (khóa VII) với việc xây dựng nơng thơn mới ở các tỉnh duyên hải miền Trung
- thành tựu và giải pháp” (1997) do ThS. Nguyễn Văn Hiệp làm chủ nhiệm;
“Các giải pháp phát triển kinh tế vùng miền núi Bắc miền Trung (qua khảo sát
các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế)” (2006) do ThS. Trần Đình
Chín làm chủ nhiệm; “Các đảng bộ tỉnh khu vực Bắc Tây Nguyên lãnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1996 đến 2005” (2007) của tác giả Phạm
Văn Hồ; “Các giải pháp đưa tiến bộ khoa học- công nghệ vào phát triển nông
nghiệp, nông thôn ở vùng miền núi tỉnh Quảng Nam” (2008) do Đỗ Duy Hòa
làm chủ nhiệm; “Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp ở tỉnh
Quảng Nam theo hướng bền vững” (2009) của tập thể tác giả do ThS. Trần
Đình Chín làm chủ nhiệm.
Ngồi ra cịn có các báo khoa học nghiên cứu về dân tộc và chính sách
dân tộc của nhiều tác giả được đăng tải trên các báo, tạp chí như: Tạp chí
Lịch sử Đảng, Nghiên cứu lý luận, Cộng sản, Sinh hoạt lý luận, Dân tộc
học… như:
- “Chính sách dân tộc của Đảng đối với các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Văn Nam, tạp chí Dân tộc số
69, 2006. Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc

trên địa bàn Tây Nguyên, tác giả đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị
nhằm thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc trong thời gian tới.


6
- “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ở các vùng dân tộc thiểu số, cải thiện
đời sống nhân dân” của Đặng Vũ Liêm trong Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số
2, 1999.
- Phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi dân tộc thiểu số tỉnh Quảng
Nam thời gian qua và một số định hướng cần quan tâm trong thời gian tới.
Nguyễn Tri Hùng, phó Trưởng ban dân tộc tỉnh Quảng Nam. http://baoquang
nam.com.vn.
- Miền núi Quảng Nam: Ổn định, nhưng chưa bền vững của tác giả Hữu
Phúc, Báo Quảng Nam. .
Trên cơ sở phân tích các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,
tác giả đã nêu ra những giải pháp trong việc thực hiện chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Những cơng trình trên đây đã đề cập đến nhiều phương diện khác nhau về
lý luận cũng như thực tiễn đối với vấn đề phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
thiểu số trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có tính hệ
thống về q trình thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
thiểu số của Đảng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2000 đến 2010.
Những kết quả nghiên cứu trên đây là nguồn tài liệu quan trọng, là cơ sở để
chúng tôi tiếp thu, kế thừa, bổ sung và phát triển trong quá trình nghiên cứu làm
đề tài luận văn này. Bên cạnh nguồn tài liệu trên, chúng tôi còn tiến hành thu
thập, sử dụng nguồn tư liệu từ các nghị quyết, các chỉ thị của Đảng, Nhà nước và
của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Nam có liên quan đến đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu: Tổng kết quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Nam

lãnh đạo thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc thiểu số giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010; từ đó rút ra những kinh
nghiệm thực tiễn có ý nghĩa đối với sự lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.


7
* Nhiệm vụ: Để hồn thành mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Trình bày đặc điểm vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam, những yếu
tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng này
- Phân tích q trình Đảng bộ tỉnh Quảng Nam quán triệt, vận dụng và tổ
chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, kết quả, vấn đề đặt
ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng
Nam giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010.
- Rút ra những kinh nghiệm trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam từ năm 2001
đến năm 2010 và đề xuất những kiến nghị nhằm phát huy tốt hơn việc phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam thực hiện các đường lối, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo thực hiện các
chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn các
huyện vùng miền núi tỉnh Quảng Nam, cụ thể là: 6 huyện miền núi cao gồm:
Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My, Nam Trà My
và một số xã thuộc huyện Tiên Phước và Hiệp Đức.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam về những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách dân tộc và

vấn đề phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp lơgíc. Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp khác như: đối
chiếu, so sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp của khoa học lịch sử.


8
- Nguồn tư liệu: Nguồn tư liệu để thực hiện đề tài, bao gồm:
+ Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về các chủ
trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng miền núi
Trung Bộ nói chung và Quảng Nam nói riêng.
+ Các văn bản của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam cụ thể hóa việc tổ chức
thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở
các huyện vùng miền núi.
+ Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kết quả của các cơng trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đã được cơng bố.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Trình bày có tính hệ thống chủ trương, đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội ở các huyện vùng miền núi của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam từ
năm 2001 đến 2010, qua đó, đánh giá những thành quả, hạn chế việc lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số của
Đảng bộ tỉnh Quảng Nam thời gian qua.
- Rút ra những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo thực hiện các chủ
trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và đề xuất một số
kiến nghị nhằm thực hiện tốt vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc
thiểu số tỉnh Quảng Nam trong thời kỳ mới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
cấp lãnh đạo, các ngành của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam trong việc thực hiện chỉ
đạo phát triển kinh tế - xã hội các huyện vùng miền núi và vùng dân tộc thiểu số.
- Kết quả đạt được trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề có liên quan đến vùng miền núi và thực
hiện phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


9
Chương 1

QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NAM LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỈNH QUẢNG NAM

1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng
điểm của miền Trung. Phía bắc giáp với thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa
Thiên Huế, phía đơng giáp biển Đơng với trên 125 km bờ biển, phía Tây giáp
tỉnh Kon Tum và nước bạn Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi. Quảng Nam
có 16 huyện: Đơng Giang, Tây Giang, Nam Giang, Nam Trà My, Bắc Trà My,
Phước Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Quế Sơn,
Nông Sơn, Thăng Bình, Phú Ninh, Núi Thành; 2 thành phố: Tam Kỳ và Hội
An. Diện tích tự nhiên tồn tỉnh là 1.040.878ha, trong đó diện tích vùng miền
núi 845.763ha, chiếm 81,25% diện tích tự nhiên tồn tỉnh (trong đó vùng
đồng bào dân tộc thiểu số cư trú 683.792 ha, chiếm 80,8% diện tích tự nhiên
tồn vùng miền núi). Tồn tỉnh có 113 trong số 223 xã được Chính phủ cơng
nhận là xã miền núi, trong đó có 53 xã đặc biệt khó khăn [41].
Vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cư trú của tỉnh Quảng

Nam tập trung nằm ở phía Tây gồm các huyện: Đơng Giang, Tây Giang, Nam
Giang, Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn và một s ố xã thuộc 2 huyện
Hiệp Đức, Tiên Phước. Diện tích của tồn vùng khoảng 845.763 ha được trải
dài từ 15002’ đến 16004’ vĩ độ Bắc, 107012’ đến 103030’ kinh độ Đơng.
Địa hình các huyện miền núi tỉnh Quảng Nam rất phức tạp, nhiều dãy núi
cao dốc lớn rất hiểm trở, xen kẽ có các thung lũng nhỏ hẹp, dạng đất bằng và
đồi núi thấp, lại bị chia cắt mạnh bởi hệ thống các sông suối chằng chịt, nhiều
thác ghềnh, giao thông đường sông bị hạn chế, đường bộ lại vơ cùng khó


10
khăn. Phần lớn đất đai của các huyện thuộc vòng cung của các dãy núi Bắc –
Tây – Nam ôm lấy vùng trung du và đồng bằng của tỉnh và cao dần từ Đông
sang Tây. Thổ nhưỡng của vùng miền núi gồm một số nhóm đất chính: Đất
phù sa bồi sông suối: 14.603 ha chiếm 1,72%; Đất xám bạc màu: 8.203 ha
chiếm 0,96%; Đất vàng- đỏ: 126.134 ha chiếm 14,91%; Đất dốc tụ: 1.657 ha
chiếm 0,19%; các loại đất khác: 695.166 ha chiếm 82,19% [41].
Theo số liệu của Viện điều tra quy hoạch rừng (Bộ Lâm nghiệp) thì diện
tích rừng tự nhiên tại Quảng Nam còn khoảng 477.000 ha với trữ lượng gỗ
khoảng 30 triệu m3 và 50 triệu cây tre nứa, trong đó rừng giàu có khoảng
10.000 ha, phân bố chủ yếu ở các đỉnh núi cao, diện tích rừng cịn lại chủ yếu
là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh, trữ lượng gỗ trung bình khoảng
69 m3/ha, đường kính nhỏ chưa thể khai thác. Ngồi gỗ (sản lượng khai thác có
thể đạt trên dưới 80.000 m3/năm), cịn có các loại lâm sản q hiếm như trầm,
quế, trẩu, song mây… [43].
Diện tích đất trống, đồi núi trọc cịn khoảng 391.000 ha, trong đó có
332,3 nghìn ha đất đồi núi có khả năng phát triển trồng rừng, cây công nghiệp
dài ngày, cây ăn quả và cây dược liệu.
Thời tiết, khí hậu các huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam là khí hậu
nhiệt đới gió mùa và chia làm 2 mùa tương đối cách biệt. Mùa khô từ tháng 2

đến tháng 8 và mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ trung bình
cả năm là: 24,60C; nhiệt độ cao nhất: 400C, thấp nhất: 100C (tại Đông Giang,
Tây Giang); biên độ giữa ngày và đêm: 11 0C. Nhìn chung, nhiệt độ khơng thay
đổi nhiều giữa các tháng trong năm, nhất là các huyện miền núi ở phía Nam.
Các tỉnh miền núi của tỉnh Quảng Nam có lượng mưa thuộc vào lớn của
nước ta. Lượng mưa trung bình tại Nam Trà My, Bắc Trà My: 3.832 mm, tại
Đông Giang, Tây Giang: 4.100 mm; lượng mưa lớn nhất ở Tây Giang, Đông
Giang: 4.800 mm, nhỏ nhất: 2.300 mm. Số ngày mưa trung bình trong năm 189
ngày, tập trung vào 4 tháng (từ tháng 9 đến tháng 12), chiếm khoảng 70% lượng
mưa cả năm, lượng mưa ít nhất tập trung vào 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 7).


11
Tồn vùng do lượng mưa khá lớn; địa hình lại bị chia cắt nên đã tạo ra
nhiều sông suối chằng chịt. Toàn bộ lưu vực này đều đổ về 2 con sơng là Thu
Bồn và Vu Gia. Phía bắc thuộc lưu vực sơng Vu Gia, có các sơng nhánh như
sơng Cầu, sông Bung (huyện Nam Giang), sông Vàng, sông A Vương (huyện
Tây Giang, Đông Giang), sông Thanh (huyện Phước Sơn…). Phía Nam thuộc
lưu vực sơng Thu Bồn, có các sơng Nước Oa, sông Tranh (huyện Bắc Trà My,
Nam Trà My), sông Tranh, sông Trường (huyện Hiệp Đức)…
1.1.2. Các dân tộc thiểu số và đặc điểm kinh tế, xã hội
Vùng miền núi của tỉnh Quảng Nam là địa bàn cư trú từ lâu đời của các
dân tộc thiểu số Cờ Tu, Xơ Đăng (gồm các nhóm Cơ Teng, Mơ Nâm, Cà
Dong), Gié Triêng (gồm các nhóm Bhnoong, Ve, Tà Riềng) và Cor. Đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn 69 xã, 11 huyện trong tỉnh, nhưng tập
trung chủ yếu ở 6 huyện miền núi vùng cao: Nam Trà My, Bắc Trà My, Đông
Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn và một số xã thuộc 2 huyện vùng
trung du - miền núi thấp là Hiệp Đức, Tiên Phước.
Dân số vùng miền núi tỉnh Quảng Nam tính đến cuối năm 2006 khoảng
415.000 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 102.910 người với

19.685 hộ, cư trú ở 389 thôn, làng với 706 điểm dân cư, tập trung ở 69 xã của
11 huyện, trong đó: Cờ Tu có 43.111 người, Xơ Đăng: 32.943 người, Gié
Triêng: 19.295 người, Cor: 5.472 người, dân tộc khác từ phía Bắc di cư tự do
(Tày, Thái, Mường, Nùng…): 2.089 người [46].
Một điểm cư trú của cộng đồng các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam
được coi là một làng (bản) khi cộng đồng đó có đầy đủ các thiết chế xã hội cổ
truyền: chủ làng, hội đồng già làng, thầy cúng, thủ lĩnh quân sự.
Ở miền núi tỉnh Quảng Nam, cộng đồng dân cư bản làng các dân tộc
thiểu số sống chủ yếu trong quan hệ tự quản với các hoạt động kinh tế nương
rẫy, nghề thủ công, chăn nuôi, săn bắn, đánh cá, hái lượm… Thực trạng kinh
tế của cộng đồng dân cư bản làng các dân tộc thiểu số Quảng Nam vì thế cho
đến nay hiện cịn mang nặng tính tự nhiên, tự cung tự cấp.


12
Xuất phát từ nền tảng kinh tế như vậy nên kỹ thuật sản xuất của đồng
bào đều dựa vào khi tàng kinh nghiệm kỹ thuật dân gian: từ khâu chọn đất
đến kỹ thuật “phát, cốt, đốt, trỉa”, cách thu hoạch, chọn giống, bảo vệ hoa
màu… Họ biết cách trồng cây lương thực trong những môi trường khắc nghiệt,
biết cách giữ gìn, bảo vệ nguồn lương thực cho mùa giáp hạt, biết cách kết hợp
các giống cây trồng để tận dụng tối đa màu mỡ của đất, biết cách bảo vệ rừng,
bảo vệ thú rừng cũng như song suối để có môi trường khai thác thường xuyên,
biết cách bảo vệ rừng để có rẫy cho mùa sau, biết cách phân bố thời gian phù
hợp cho các công việc, biết cách quan sát cây cỏ, hoa lá, tiếng kêu của chim
muông, thú rừng để tiến hành các hoạt động sản xuất cho phù hợp, biết cách
chọn các giống cây trồng thích hợp với các loại đất nơi mình canh tác.
Do nắm bắt sự lặp đi lặp lại của các sự vật hiện tượng tự nhiên và trải
qua quá trình lâu dài đúc rút thành kinh nghiệm, nâng lên thành những quy
ước chuẩn trong phong tục tập quán, trong lao động sản xuất, trong cách ứng
xử với môi trường tự nhiên, đồng bào các dân tộc thiểu số Quảng Nam tích

luỹ được kho tàng kiến thức bản địa khá phong phú. Ví dụ, chọn đất phát rẫy
tốt là nơi rừng già có cây cối xanh tốt, đất có màu đen, đất thổ cư là vùng đất
bằng phẳng gần sông suối, đi săn vào mùa đông những đêm không trăng, lấy
mật ong vào mùa hè, con hoẵng kêu là trời nắng, mang kêu là trời mưa…
Bên cạnh cấu trúc kinh tế, thiết chế xã hội dựa trên quan hệ cộng đồng tự
quản, tôn trọng người có tuổi và người hơn tuổi và kinh nghiệm cũng là môi
trường thuận lợi cho việc lưu giữ nguồn tri thức bản địa của đồng bào các dân
tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam..
Làng của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam vừa là đơn vị cư
trú, vừa là đơn vị tự quản. Trong làng có chủ làng đứng đầu với quyền lực tối
cao, thay thần linh quyết định mọi công việc từ nhỏ đến lớn của chủ làng. Chủ
làng là người cao tuổi có kinh nghiệm trong sản xuất, giỏi xem thời tiết, am
hiểu phong tục tập quán.


13
Thông thường, chủ làng được bầu lên một cách dân chủ, khơng kỳ hạn;
chủ làng có thể cha truyền con nối (nếu người con có đủ phẩm chất như người
cha) và cũng có thể bị bãi miễn nếu khơng đảm đương được chức vụ, có hành
vi làm mất uy tín của làng, hay vi phạm luật tục, không chăm lo đến lợi ích
của cộng đồng…
Giúp việc cho chủ làng có hội đồng già làng. Hội đồng già làng là tập
hợp những người già trong làng và những trưởng họ, đại diện cho các gia đình
trong làng. Những người già làng nhờ tuổi cao, sống lâu có nhiều kinh
nghiệm trong cuộc sống, hiểu biết nhiều về phong tục tập quán. Hội đồng này
hoạt động theo phương thức bàn bạc dân chủ, quyết định tập thể. Ý kiến của
hội đồng già làng được xem như ý kiến của dân làng và người chủ làng phải
thực thi theo quyết định đó, kể cả quyết định bãi miễn chủ làng.
Giúp việc cho chủ làng và hội đồng già làng là thủ lĩnh quân sự và thầy
cúng. Thủ lĩnh quân sự do làng bầu lên. Đó là người khoẻ mạnh, thơng minh,

mưu trí. thủ lĩnh quân sự có trách nhiệm tập hợp trai làng và nhân dân bảo vệ
phòng thủ làng, chống thú dữ và kẻ xấu có thể gây hại đến dân làng. Cịn thầy
cúng là người lo phần hồn cho dân làng; ông chuyên cúng tế để chữa bệnh và
giúp chủ làng cũng tế lễ làng, ví như lễ đâm trâu, lễ xâu tai, hay các nghi lễ
liên quan đến nơng nghiệp.
Vị trí địa lý, môi trường sống đã ảnh hưởng lớn đến sự hình thành cơ chế
kinh tế và thiết chế xã hội các dân tộc thiểu số Quảng Nam. Đó là những nhân
tố có tính tiền đề cơ sở cho tri thức bản địa hình thành và phát huy tác dụng.
Cộng đồng dân cư các dân tộc thiểu số Quảng Nam cũng như nhiều dân tộc
thiểu số khác trên đất nước ta đang chuyển mình theo nhịp sống mới của xã hội
hiện nay. Trong q trình chuyển mình đó điều tất yếu là cơ cấu kinh tế và thiết
chế xã hội làng bản cổ truyền cũng có nhiều biến đổi. Có những biến đổi tích
cực làm thay đổi bộ mặt đời sống kinh tế - xã hội của các cộng đồng dân cư,
nhưng cũng có những biến đổi tiêu cực làm rạn nứt quan hệ cộng đồng làng
bản, làm phương hại đến truyền thống coi trọng quan hệ cộng đồng, coi trọng


14
lão quyền, coi trọng tự nhiên, coi trọng những giá trị truyền thống của cha ông
để lại… Bởi vậy, không thể chỉ quan tâm phát triển kinh tế - xã hội mà xem nhẹ
vai trò của việc nghiên cứu sưu tầm văn hố truyền thống dân tộc dân cư mà
cịn phải chú ý bảo lưu, giữ gìn các giá trị truyền thống của cha ông, về thiết
chế tự quản, quan hệ cộng đồng, lối sống trọng tình, trọng thiên… Có như vậy,
mới khơng đánh mất bản sắc văn hố và các giá trị tốt đẹp mà các thế hệ dân
tộc thiểu số Quảng Nam đã tích luỹ, giữ gìn.
Do điều kiện địa hình đồi núi dốc, phức tạp, diện tích đất canh tác dành
cho sản xuất nơng nghiệp ít, đất đai có độ phì thấp, lại bị chia cắt, khơng
thuận lợi nên cộng đồng dân cư sống phân bố thưa thớt và không tập trung,
ảnh hưởng đến việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất, đại
bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh Quảng Nam chủ yếu sinh sống

bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi, nền sản xuất tự cung tự cấp, chủ yếu là giải
quyết nhu cầu lương thực tại chỗ. Bình qn đất sản xuất nơng - lâm nghiệp
từ 1.400 đến 1.700 m2/hộ. Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê tỉnh
Quảng Nam, đến cuối năm 2009 bình quân lương thực đầu người đạt 190
kg/năm, trong khi các hoạt động kinh tế khác hầu như khơng có, do vậy đời
sống của hầu hết bà con hiện đang còn rất thấp kém. Công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp hầu như khơng có gì đáng kể, các ngành thương mại, dịch vụ
chậm phát triển, hầu hết lao động chủ yếu hoạt động trên lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp. Về cơ bản, đến nay đời sống vùng miền núi Quảng Nam cái đói
cơ bản đã được giải quyết, song cái nghèo hoặc nguy cơ tái nghèo vẫn cứ đeo
bám mãi, đây là một trong những khó khăn rất lớn trên con đường phát triển
kinh tế - xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số trong vùng.
Trước đây, trong thời kỳ cả nước dồn sức cho cơng cuộc giải phóng nước
nhà cũng như sau khi thống nhất đất nước, bước vào thời kỳ đổi mới, xây
dựng đất nước, đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam ln ln trước
sau một lịng với Đảng, tin tưởng vào chủ trương, đường lối, chính sách của


15
Nhà nước. Tuy nhiên xuất phát điểm kinh tế thấp, nguồn nhân lực kém phát
triển cùng với hàng loạt các khó khăn về cơ sở hạ tầng, nhận thức và tư duy
kinh tế cùng với các tập tục truyền thống, tập quán của đồng bào còn hạn chế
là một trở ngại lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nơi đây.
Phương thức sản xuất canh tác của đồng bào dân tộc thiểu số Quảng
Nam chủ yếu là “phát, cốt, đốt, trỉa” nên đời sống rất bấp bênh, điều kiện
canh tác còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, năng suất sản lượng cây trồng đạt
thấp lại thiếu ổn định. Tuy có hình thành một số hợp tác xã công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, nhưng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hiệu quả
thấp, nhiều cơ sở phải giải tán. Mạng lưới giao thông chưa phát triển, nhất là
vùng cao, vùng biên giới. Nhiều vùng vào mùa mưa thường bị lỡ núi, gây ách

tắc giao thơng, có huyện (huyện Tây Giang) bị cơ lập hồn tồn với bên ngoài
hơn nửa tháng khi bị lở núi, tắc đường, trong khi đó vào mùa nắng thì khơ hạn
khơng có đủ nước tưới và sinh hoạt. Hệ thống liên lạc còn lạc hậu, điện năng
còn hạn chế,... Tất cả những yếu tố trên làm cho giao lưu kinh tế không phát
triển được trong cơ chế thị trường hiện nay. Đồng thời việc trao đổi kinh
nghiệm trong sản xuất cũng bị hạn chế.
Trình độ dân trí cịn thấp, giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số tuy có tiến
bộ nhưng vẫn cịn nhiều khó khăn trong cơ sở vật chất trường lớp tuyến
thơn, nóc và đội ngũ giáo viên tại chỗ cịn thiếu, ngành học mầm non chưa
phát triển được ở diện rộng. Hầu hết ở các buôn, làng vùng sâu, vùng cao
thanh niên chỉ học xong chương trình tiểu học, tỷ lệ người học lên trung
học cơ sở và phổ thông trung học, trung cấp rất thấp, số người học đại học
rất hiếm. Bên cạnh đó, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng miền núi Quảng
Nam có tính cộng đồng theo dịng họ sâu sắc. Mỗi dịng họ có luật tục
riêng. Các dân tộc thiểu số ở vùng này ít chịu ảnh hưởng của tôn giáo, nhưng
rất tin vào thần linh và ma quỷ. Ngoài các tập tục, truyền thống tốt đẹp như
quan hệ làng xóm, họ hàng, tương thân, tương ái, trung thực, nhân ái, giàu
lịng u nước... thì cịn nhiều tập tục lạc hậu gây ra lãng phí và cản trở sản


16
xuất. Với trình độ dân trí thấp của hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số và phong
tục canh tác còn lạc hậu, cổ truyền nên khả năng tiếp nhận kiến thức và ứng
dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào trong sản xuất, phát triển kinh tế xã hội gặp khơng ít khó khăn, nhiều vùng tuy rất có tiềm năng nhưng vẫn
chưa được khai thác tốt để cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Mặt khác, một số địa bàn vùng dân tộc thiểu số thường xuyên có tiềm ẩn
bùng phát dịch bệnh, nhất là dịch sốt rét. Chất lượng nguồn lao động dân tộc
thiểu số cịn thấp. Tình trạng khai thác tài ngun rừng, khoáng sản trái phép
vẫn xảy ra, tài nguyên rừng ở một số địa bàn bị suy giảm. Năng lực và trình
độ của đội ngũ cán bộ cơ sở chưa ngang tầm, nhất là trong chỉ đạo và tổ chức

phát triển kinh tế trên địa bàn thơn, xã.
1.2. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC
THIỂU SỐ CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
QUẢNG NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000

1.2.1. Chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số trong thời kỳ đổi mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã vạch ra con đường đổi mới về
mọi mặt của đất nước. Đối với các dân tộc thiểu số, Báo cáo chính trị tại Đại
hội chỉ rõ:
Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố,
phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường
tính cộng đồng, tính thống nhất là một q trình hợp quy luật, nhưng
tính cộng đồng, tính thống nhất khơng mâu thuẫn, khơng bài trừ tính
đa dạng, tính độc đáo của mỗi dân tộc [12, tr.98].
Đại hội Đảng lần thứ VII một lần nữa khẳng định: “Thực hiện chính sách
bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân
tộc phát triển, đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự
phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam” [14, tr.16].
Thực hiện các nghị quyết của các kỳ đại hội của Đảng, từ Đại hội lần thứ
VI- Đại hội của sự đổi mới, đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành một hệ


17
thống các chính sách phát triển kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội và an ninh
quốc phịng ở vùng dân tộc và miền núi. Tính đến năm 2000, Nhà nước Việt
Nam đã ban hành một khối lượng lớn (hơn 90 văn bản) bao gồm các điều luật
liên quan do Quốc hội ban hành, các nghị định số, chỉ thị của Chính phủ liên
quan đến các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội vùng dân tộc và miền
núi. Ngồi ra cịn có hàng trăm văn bản liên quan của các cấp, các ngành

Trung ương và địa phương trong cả nước.
Mốc đánh dấu sự đổi mới của Đảng về vấn đề dân tộc và miền núi là Nghị
quyết 22 (27/11/1989) của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Về
một số chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội miền núi và
Quyết định 22/HĐBT (13/3/1990) của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
Về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi. Nghị quyết 22 đã nêu quan
điểm chỉ đạo quan trọng: Phát triển kinh tế - xã hội miền núi là một bộ phận hữu
cơ của chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân. Một mặt, các địa phương miền
núi có trách nhiệm góp phần thực hiện chủ trương chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước. Mặt khác việc cụ thể hố và tổ chức thực hiện những
chủ trương, chính sách chung ở miền núi phải tính đến những đặc điểm về tự
nhiên, lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán của miền núi nói
chung và của riêng từng vùng, từng dân tộc; trong việc này cần đặc biệt nhấn
mạnh vai trò năng động, sáng tạo của địa phương và cơ sở.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
miền núi là sự nghiệp của toàn dân, trước hết là sự nghiệp của nhân dân các
dân tộc miền núi và đồng bào miền xuôi lên định cư ở miền núi. Trong việc
phát triển kinh tế - xã hội miền núi, phải quán triệt phương châm “Trung ương
và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Một mặt, phải
khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào ngân sách trung ương, xem nhẹ nỗ lực
của địa phương. Mặt khác, Nhà nước cần cố gắng bố trí vốn đầu tư thích đáng
hơn cho miền núi, trước mắt tập trung đầu tư cho phát triển giao thông vận


18
tải, thông tin liên lạc, điện và nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt phù hợp,
tạo điều kiện và động viên mạnh mẽ nhân dân miền núi khai thác tiềm năng
và thế mạnh của mình, phát triển kinh tế hàng hố, kinh doanh có hiệu quả,
từng bước tích luỹ để đầu tư xây dựng và phát triển miền núi. Nắm vững chủ
trương, phát triển có kế hoạch nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi lên
chủ nghĩa xã hội, điều chỉnh lại quan hệ sản xuất ở miền núi cho phù hợp với

tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, phải phát triển miền núi toàn diện
cả về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh, trong đó trọng
tâm là phát triển kinh tế - xã hội, gắn với việc thực hiện tốt chính sách dân tộc
của Đảng. Quan tâm đúng mức đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, cải
thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị xác định, phát triển kinh tế - xã hội trong
q trình thực hiện chính sách dân tộc là nhu cầu bức thiết, là một nhiệm vụ
trọng tâm của cơng tác dân tộc. Bởi vì, chỉ có phát triển kinh tế - xã hội ở các
vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số mới tạo ra điều kiện để khai
thác tốt tài nguyên thiên nhiên ở các vùng này, khắc phục quan điểm lệch lạc:
chỉ chú trọng khai thác tài nguyên mà xem nhẹ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Thông qua việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền
núi để thu hút các nguồn vốn đầu tư (trong và ngoài nước) nhằm đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nơng thôn.
Việc đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh nhịp độ phát triển ở
vùng dân tộc và miền núi là đòi hỏi bức xúc của việc quy hoạch phát triển
kinh tế vùng, điều chỉnh dân số, dân cư, tạo điều kiện tốt cho định canh, định cư,
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số.
Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi là nhu cầu gìn
giữ an ninh quốc gia, an tồn biên giới, hải đảo, ổn định chính trị và trật tự xã
hội nơi địa bàn xung yếu, phên dậu của đất nước.
Việc bảo vệ môi trường sinh thái, ngăn chặn việc phá rừng, khai thác tài
nguyên bừa bãi làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân mà


19
trực tiếp là đồng bào các dân tộc thiểu số cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi phải
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, khai thác và bảo vệ, nuôi dưỡng
nguồn tài nguyên của đất nước.
Từ những quan điểm đúng đắn trên, sau khi có Nghị quyết 22 của Bộ
Chính trị, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành hàng loạt

chương trình, dự án đã được thực hiện ở các vùng nông thôn miền núi, vùng
dân tộc thiểu số như: Chương trình trồng rừng 327, PAM, các chương trình
xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn, Chương trình 135,
Chương trình xố mù chữ phổ cập giáo dục tiểu học, Chương trình trợ giá, trợ
cước, Chương trình 134… đã tạo ra bước chuyển biến tích cực trong phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào.
Đánh giá những thành tựu cơ bản liên quan đến việc thực hiện chính sách dân
tộc trong thời kỳ đổi mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung
ương (khoá IX) chỉ rõ: Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất
là từ khi có Nghị quyết 22/TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị, tình hình miền
núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có bước chuyển đổi quan trọng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội VII (1991), nêu lên 6 đặc trưng cơ bản của mơ hình
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Một trong những đặc
trưng Đảng ta cho rằng: “Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ” [15, tr.9]. Cương lĩnh cũng nhấn mạnh:
Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các
dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc đi lên con đường văn minh,
tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Tơn trọng lợi ích, truyền thống, văn hố, ngơn
ngữ, tập qn, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc
lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc [15, tr.16].
Báo cáo chính trị tại Đại hội VII của Đảng xác định: “Thực hiện chính
sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các


20
dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự
phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam” [14, tr.16].
Xuất phát từ tình hình phát triển khơng đồng đều giữa các dân tộc trong

lịch sử và sự chênh lệch về đời sống kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, các
vùng, miền, Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận rõ sự cần thiết phải khắc
phục sự chênh lệch đó nhằm đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, thực hiện cơng
bằng xã hội, bình đẳng dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996)
chỉ rõ: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện “bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước”.
Từ nay đến năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực và vững
chắc, thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ yếu: xố được đói, giảm
được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khoẻ của đồng
bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xoá được mù
chữ, nâng cao dân trí, tơn trọng và phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp
của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và
đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch, vững
mạnh [17, tr.16].
Ba mục tiêu chủ yếu mà Nghị quyết Đại hội VIII đề ra cho các vùng
nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng chính là những nội
dung phát triển kinh tế, văn hố, chính trị, xã hội trong chính sách dân tộc của
Đảng ta những năm cuối thế kỷ XX.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) tiếp tục khẳng định:
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc ln có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau phát triển, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo
đời sống vật chất tinh thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí,
giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp


21
của các dân tộc, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa

miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn,
vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực
hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc
thiểu số. Động viên và phát huy vai trị của những người tiêu biểu,
có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kì thị, chia rẽ dân
tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan,
khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc [19, tr.127].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương (khoá IX) về
công tác dân tộc thể hiện sự quan tâm sâu sắc, cụ thể, thiết thực của Đảng
trong giải quyết vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc trong tình hình
mới, điều kiện mới.
Nghị quyết đã đánh giá những thành tựu cơ bản, những hạn chế, yếu kém
trong việc thực hiện chính sách dân tộc, cơng tác dân tộc trong thời kỳ đổi
mới, chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế,
yếu kém, từ đó xác định những quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề dân tộc,
đoàn kết dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ mới:
• Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
• Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương
trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu
chia rẽ dân tộc.
• Phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội và quốc phịng,
an ninh trên địa bản vùng dân tộc, miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi
dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ


22

gìn và phát huy những giá trị, bẳn sắc văn hoá truyền thống của các dân tộc
thiểu số trong sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
• Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng đi đôi với bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
• Cơng tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của tồn bộ hệ thống
chính trị [20, tr.35]. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức, lý luận về
vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ta.
Nghị quyết xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2010 là:
• Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào
các dân tộc. Đến năm 2010, các vùng dân tộc và miền núi khơng cịn hộ đói,
giảm hộ nghèo xuống dưới 10%...
• Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức hưởng thụ
văn hoá của đồng bào; đẩy mạnh việc dạy và học chữ dân tộc.
• Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng
lực đáp ứng được yêu cầu của địa phương; củng cố hệ thống chính trị cơ sở
trong sạch, vững mạnh; nâng cao vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân trong việc tham gia thực hiện tốt chính sách dân tộc.
• Giữ vững an ninh- quốc phịng ở vùng dân tộc và miền núi; kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh- quốc phòng ở các địa bàn
xung yếu vùng sâu, biên giới; ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo để phá hoại khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, làm mất ổn định xã hội
[20, tr.35 - 37].
Nghị quyết cũng xác định những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách sau:
• Đẩy mạnh cơng tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa.



23
Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở và vấn đề tranh
chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây
Bắc, vùng đồng bào dân tộc Khơme Nam Bộ.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng biên
giới; công tác quy hoạch, sắp xếp, phân bố lại hợp lý dân cư, nguồn nhân lực
theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố và phát triển bền vững, gắn với
đảm bảo an ninh quốc phịng.
• Tiếp tục thực hiện chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình; tăng
cường các hoạt động văn hố, thơng tin, tuyên truyền hướng về cơ sở; tăng
cường thời lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc
thiểu số; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị,
truyền thống tốt đẹp trong văn hố của các dân tộc.
Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục - đào tạo, nhất là của hệ thống trường phổ thông dân tộc nội
trú các cấp.
Tăng cường cơ sở khám, chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, bản, thôn,
ấp; nâng cao hơn nữa chất lượng cơng tác chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào
dân tộc thiểu số; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian.
• Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng
dân tộc thiểu số, thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng, luân chuyển cán bộ. Đẩy mạnh phát triển đảng viên trong đồng bào dân
tộc, khắc phục tình trạng cơ sở khơng có tổ chức đảng và đảng viên.
• Xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân,
phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các
thế lực thù địch.
• Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tích cực,

chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính


24
sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phịng ở
địa phương.
Như vậy, chính sách dân tộc nói chung và chính sách phát triển kinh tế xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng của Đảng khơng chỉ nêu lên
những nội dung xuyên suốt, bao trùm cả một thời kỳ dài (thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước) mà còn được xác định những mục
tiêu, nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng trong từng thời kỳ, thời đoạn.
Thông qua các hệ thống văn bản, từ văn kiện Đảng, Chính phủ, pháp luật
của Nhà nước đến các văn bản dưới luật, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta ngày càng được quan tâm cả trong phương diện hoạch định chính
sách đến việc thể chế hố và thực hiện trong đời sống xã hội. Chính sách dân
tộc ngày càng được nhận thức đúng với tầm chiến lược, đặc biệt là chính sách
phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền
núi, vùng sâu, vùng xa.
Trên những nét tổng quát nhất, có thể thấy các chủ trương, chính sách,
các chỉ thị, Nghị quyết nêu trên của Đảng và Chính phủ tập trung vào một số
vấn đề trọng yếu sau:
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN phù hợp với
điều kiện đặc thù về tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội của từng vùng sao cho
đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương, của cộng đồng
và từng cá nhân để phát triển kinh tế, làm giàu cho bản thân và góp phần vào
sự phát triển chung của đất nước.
Định hướng này đặt ra nhiệm vụ là phải xác định quyền làm chủ đất đai,
bao gồm cả đất rừng và rừng, đây là tư liệu sản xuất chính, nguồn sống chính
của đồng bào các dân tộc ở miền núi. Cùng với việc xác định quyền sử dụng
đất là việc thực hiện chính sách định canh định cư ổn định, lâu dài, bảo vệ và
phát triển vốn rừng của đất nước. Trên cơ sở đó, cần từng bước chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ở các vùng dân tộc và miền núi, tập trung phát triển cây con có
lợi thế thành vùng sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ
sản phẩm, thúc đẩy sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng. Nhằm hỗ trợ cho sự


25
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng vừa nêu trên, Đảng và Nhà nước đã có
chính sách ưu tiên đầu tư tiền vốn, chuyển giao công nghệ, xây dựng kết cấu
hạ tầng (giao thông, liên lạc, năng lượng...).
Thứ hai, ưu tiên đặc biệt cho sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo cán
bộ người dân tộc thiểu số ở các vùng dân tộc và miền núi. Đi theo hướng này,
Nhà nước đã có những chính sách tăng cường vốn đầu tư cho các trường học,
xây dựng các trường phổ thông dân tộc nội trú, tăng cường đãi ngộ với giáo
viên và học sinh con em dân tộc thiểu số.
Thứ ba, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực
văn hố ln ln coi trọng việc bảo tồn, kế thừa và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống đặc sắc của tất cả các dân tộc thiểu số.
Nhằm đạt được mục tiêu này, Nhà nước đã đầu tư khơng ít cơng sức, trí
tuệ và tiền bạc cho việc nghiên cứu, sưu tầm, triển khai và giới thiệu văn hoá
truyền thống đặc sắc của các dân tộc. Thúc đẩy sự giao lưu văn hoá giữa các
dân tộc nhằm tăng cường sự hiểu biết và tình đồn kết giữa các dân tộc, xã
hội hoá các hoạt động văn hố thơng tin.
Thứ tư, các chính sách của Đảng và Nhà nước hướng vào việc hỗ trợ đặc
biệt đối với đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng
nhằm ổn định và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của một
số đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng này. Thực hiện chủ trương này, Nhà
nước ta có nhiều chính sách cụ thể như: Cung cấp ưu đãi những mặt hàng
thiết yếu như gạo, muối, dầu thắp sáng, giấy viết học sinh, thuốc chữa bệnh
cho đồng bào tộc thiểu số, quan tâm đến cơng tác y tế, chăm sóc sức khoẻ cho
đồng bào các dân tộc thiểu số, thực hiện chương trình quốc gia về phịng

chống bệnh sốt rét, bệnh bướu cổ, xoá bỏ các ổ dịch bệnh nguy hiểm đe doạ
trực tiếp tính mạng của đồng bào; thực hiện chương trình dân số và kế hoạch
hố gia đình, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng, giáo dục
kiến thức vệ sinh, phịng bệnh góp phần nâng cao dân trí cho đồng bào dân
tộc thiểu số.


×