Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

đảng cộng sản việt nam lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước nam 2001 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 146 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI – 2013

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

Người hướng dẫn khoa học: TS. LƯU TRẦN LUÂN



HÀ NỘI - 2013

3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3
Chƣơng 1

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CẢI CÁCH NỀN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
1.1.

Bối cảnh đất nước và yêu cầu tiếp tục cải cách nền hành chính

11

nhà nước
1.2.

Vấn đề cải cách nền hành chính nhà nước trong Văn kiện Đại

32

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) và các hội nghị
Trung ương khóa IX của Đảng

1.3.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) và các hội nghị
Trung ương khóa X với chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách

41

nền hành chính nhà nước
Chƣơng 2
TỔ CHỨC THỰC HIỆN CẢI CÁCH NỀN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
2.1.

Thực hiện cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2006

52

2.2.

Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước những năm

73

2006 - 2010
Chƣơng 3
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG
TRONG LÃNH ĐẠO CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƢỚC (2001 - 2010)
3.1.


Thành tựu và hạn chế trong cải cách nền hành chính nhà nước

108

của Đảng giai đoạn 2001 - 2010
3.2.

Một số kinh nghiệm và những vấn đề cần tiếp tục đẩy mạnh
cải cách nền hành chính Nhà nước

12

119


KẾT LUẬN

135

TÀI LIỆU THAM KHẢO

138

13


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (9-1945), một
nền hành chính nhà nước kiểu mới đã được hình thành. Trong mỗi giai đoạn

lịch sử, căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ, hệ thống hành chính nhà nước Việt
Nam có những bước điều chỉnh và phát triển thích hợp, góp phần quan trọng
vào thắng lợi của cách mạng, vào xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Từ cuối năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước chuyển đó
đã mang lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội. Song song với quá trình này, nền hành chính nhà nước cũng
có những đổi mới. Nền hành chính nhà nước mặc dù bị quyết định bởi các
điều kiện kinh tế và các yêu cầu của cải cách kinh tế, nhưng lại là một bộ
phận của hệ thống chính trị nên cũng chịu sự quyết định bởi nội dung và tiến
độ của đổi mới hệ thống chính trị. Cải cách nền hành chính nhà nước được đặt
ra như một đòi hỏi khách quan của thực tiễn, của quy luật phù hợp giữa kiến
trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Cải cách hành chính nhà nước đã góp phần
tích cực bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, tăng
cường khả năng hội nhập quốc tế của đất nước và từng bước cải thiện đời
sống của nhân dân. Cải cách hành chính đã trở thành một bộ phận quan trọng
trong đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, được xác định là trọng
tâm, là khâu đột phá của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Song, nhìn chung cải cách hành chính trong thời gian qua vẫn chưa
theo kịp yêu cầu đổi mới, nhất là đổi mới kinh tế, thậm chí nếu không được
đẩy mạnh hơn nữa với những kết quả tích cực hơn, nền hành chính nhà nước
sẽ là một trở ngại lớn cho quá trình đi lên của đất nước. Nền hành chính nhà

14


nước về cơ bản vẫn mang nặng những dấu ấn của nền hành chính được thiết

lập trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp. Bộ máy hành chính nhà
nước vẫn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Đội
ngũ cán bộ, công chức còn nhiều bất cập.
Để khắc phục những thiếu sót, sửa chữa những khuyết tật, xây dựng
nhà nước vững mạnh, trong sạch, hiện đại; bộ máy nhà nước hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả đáp ứng các yêu cầu quản lý đất nước trong bối cảnh quốc
tế và trong nước có nhiều biến động, xuất hiện thời cơ và thuận lợi mới cũng
như nguy cơ và thách thức mới, thì yêu cầu bức thiết là phải tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện nhà nước, mà trọng tâm là tiến hành cải cách hành chính. Hơn nữa,
càng đi sâu cải cách kinh tế, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự phát triển
nhanh chóng của xu thế hội nhập khu vực và thế giới, càng làm gay gắt các yêu
cầu phải cải cách bộ máy nhà nước, đặc biệt là cải cách nền hành chính.
Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra trong
điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước
trong thời kỳ mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm.
Vì vậy, việc hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công
cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng,
chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi,
sáng tạo không ngừng, là một quá trình nhận thức liên tục, thống nhất trong
tiến trình đổi mới ở nước ta hiện nay.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước, Quốc hội đều thống nhất, tạo mọi điều
kiện để triển khai thực hiện cải cách hành chính. Nhưng tại sao cải cách hành
chính vẫn không thực hiện theo đúng kế hoạch, mục tiêu mà Đảng ta đã đề
ra? Những lực cản gì đã làm cho tiến trình cải cách hành chính chậm chạp?
Tìm ra lời giải đúng cho câu hỏi trên là một vấn đề khó khăn cả về mặt lý luận
cũng như thực tiễn. Mọi sự vội vàng, áp đặt chủ quan sẽ không đem lại kết
quả; mọi sự sao chép, vay mượn từ bên ngoài cũng sẽ trở nên khập khiễng. Vì

15



vậy, thực tiễn Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước trong 10 năm
đầu thế kỷ XXI rất cần được tổng kết, nhằm đúc rút những kinh nghiệm hữu
ích phục vụ yêu cầu tiếp tục lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước trong
thời gian tới, đặc biệt, khi nước ta đang hướng tới mục tiêu cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Từ những lý do nêu trên, việc thực hiện đề tài Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước từ năm 2001 đến năm
2010 là cần thiết xét trên cả phương diện khoa học lẫn phương diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc cải cách nền
hành chính nhà nước trong những qua có mấy nhóm nghiên cứu sau:
Một là, những công trình có tính định hướng của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Tiêu biểu trong số này là tác phẩm của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: Đổi
mới để tiến lên gồm 4 tập, (1988); Trường Chinh: Mấy vấn đề về Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (1991); Đỗ Mười: Xây dựng nhà
nước của nhân dân - Thành tựu, kinh nghiệm và đổi mới, (1991)... Các tác
phẩm này trong một chừng mực nhất định có tổng kết quá trình hình thành
và phát triển của nền hành chính nhà nước Việt Nam mà mỗi giai đoạn có
những đặc trưng riêng. Từ tổng kết bước đầu các giai đoạn lịch sử đã qua,
các tác phẩm này đã trình bày những quan điểm lớn định hướng cho quá
trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta nói chung và nền hành
chính nhà nước nói riêng. Tuy không nói riêng về nền hành chính nhà
nước, nhưng những quan điểm cơ bản được trình bày trong các tác phẩm
này rất có giá trị, là định hướng để mở rộng nghiên cứu sự lãnh đạo của
Đảng đối với từng cơ quan trong bộ máy nhà nước, mà ở đó nền hành
chính bao giờ cũng chiếm vị trí nổi bật.

Hai là, nghiên cứu của các nhà lý luận và các nhà tổ chức thực tiễn

16


về tổ chức bộ máy nhà nước, về hoạt động của Nhà nước, về nền hành
chính nhà nước. Đáng chú ý trong số này là công trình của nhiều tác giả: Về
nền hành chính nhà nước ta hiện nay - Những kinh nghiệm xây dựng và phát
triển, (1996); Nguyễn Duy Gia: Cải cách một bước bộ máy nhà nước ở
nước ta hiện nay, (1996); Trần Ngọc Đường: Bộ máy nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (1998); Lê Sĩ Dược: Cải cách bộ máy hành
chính cấp Trung ương trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, (2000);
Thang Văn Phúc: Cải cách hành chính nhà nước - Thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp, (2001); ... Đây là nhóm công trình chiếm số lượng
nhiều nhất, phác họa được quá trình đổi mới nền hành chính nhà nước
trong những năm qua, bao gồm từ thể chế hành chính nhà nước, tổ chức bộ
máy nhà nước, đội ngũ công chức, chế độ công vụ... Tuy không đề cập trực
tiếp đến Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước, nhưng những
nghiên cứu này lại gián tiếp phản ánh sự vận động của đường lối đổi mới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ở ngay trong quá trình trình vận hành của
nền hành chính nhà nước. Có tác phẩm đã trình bày những kết quả nhất
định của xây dựng đội ngũ công chức, cải cách chế độ công vụ, điều chỉnh
tổ chức bộ máy... và nhờ vậy có giá trị cung cấp luận cứ khá quan trọng.
Ba là, nghiên cứu của các nhà khoa học lịch sử về quá trình hình
thành của nền hành chính nhà nước, về sự lãnh đạo của Đảng đối với nền
hành chính nhà nước qua các thời kỳ. Đáng chú là công trình nghiên cứu
của Nguyễn Trọng Phúc: Về xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân
trong những năm 1975-1990, (1991); Hồ Xuân Quang: Một số quan điểm
cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân từ 1986 đến nay, (1998); Nguyễn Trọng

Phúc: Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới,
(1999); Đoàn Minh Huấn: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng,
củng cố Nhà nước từ 1986 đến 1996, (2003); Bộ Nội vụ: Lịch sử Bộ Nội
vụ, (2005)... Vì xuất phát từ giác độ khoa học lịch sử, những công trình loại

17


này đã chú trọng tổng kết sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mà lãnh
đạo cải cách nền hành chính là một bộ phận hợp thành, trong đó đã làm nổi
bật quá trình hình thành và phát triển các quan điểm của Đảng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, những đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, một số kết quả nhất định từ sự lãnh đạo
của Đảng đã được tổng kết, có công trình bước đầu rút ra một số kinh
nghiệm lịch sử. Đây là nhóm công trình liên quan trực tiếp đến đối tượng
nghiên cứu của đề tài, cung cấp cách tiếp cận chuyên ngành rất có ý nghĩa.
Tuy vậy, do mục tiêu chung của nó, nên nhóm nghiên cứu này chỉ tập trung
tìm hiểu Đảng lãnh đạo Nhà nước nói chung, nên chưa có điều kiện khu biệt
hóa những đặc thù trong lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước với
những khác biệt với lãnh đạo cải cách lĩnh vực lập pháp và tư pháp.
Bốn là, nghiên cứu của các tổ chức hoặc cá nhân nhà khoa học nước
ngoài về công cuộc đổi mới ở Việt Nam, trong đó có đề cập ở mức độ này
hay mức độ khác, góc độ này hay góc độ khác về nền hành chính nhà nước.
Nổi bật trong số này là công trình của Borje Ljunggren (chủ biên): Những
thách thức trên con đường cải cách ở Đông Dương, (1994); Dwight
H.Perkns, David D. Dapice, Jonathan H.Haughton (chủ biên): Việt Nam cải
cách theo hướng rồng bay, (1995); Ngân hàng thế giới: Nhà nước trong
một thế giới đang chuyển đổi, (1998); ... Loại trừ những quan điểm trái
ngược với đường lối Đảng ta, thì những công trình loại này đã cho thấy
cách nhìn của người nước ngoài đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam, mà

ở đó bất cứ lĩnh vực nào cũng liên quan đến nền hành chính nhà nước với
tư cách là chủ thể tiến hành các hoạt động cải cách hoặc đối tượng chịu sự
tác động, chi phối bởi các quyết định quản lý hành chính. Một số nghiên
cứu về các chính sách kinh tế - xã hội cụ thể đều trực tiếp khuyến nghị một
số giải pháp cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng nền hành chính
gần dân, tăng cường khả năng tham gia của quần chúng vào công việc
Chính phủ, mở rộng các dịch vụ hành chính công nhằm đáp ứng tốt hơn xu

18


hướng văn minh, tiến bộ và thúc đẩy cải cách kinh tế, xã hội.
Mặc dù chưa có nghiên cứu riêng về Đảng lãnh đạo cải cách nền
hành chính nhà nước trong những năm 2001 - 2010, song bốn nhóm công
trình nêu trên đã cung cấp một số tài liệu và cách tiếp cận được tác giả kế
thừa khi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích: Làm rõ những quan điểm, đường lối của Đảng cũng như
quá trình tổ chức thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước từ năm 2001
đến năm 2010.
Nhiệm vụ:
Trình bày bối cảnh lịch sử, tính tất yếu và những nhân tố tác động
đến quá trình lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước của Đảng trong
những năm 2001 - 2010.
Phân tích, luận giải, làm sáng rõ những quan điểm, đường lối của
Đảng cũng như quá trình tổ chức thực hiện trong lãnh đạo cải cách nền
hành chính nhà nước của Đảng.
Bước đầu đánh giá những thành tựu, hạn chế, trên cơ sở đó rút ra một
số kinh nghiệm, đề xuất một số giải pháp trong lãnh đạo cải cách nền hành
chính nhà nước.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Nền hành chính nhà nước là khách thể
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, từ hành chính học, luật
học, chính trị học, xã hội học... đến sử học. Đề tài xuất phát từ cách tiếp
cận của khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam để xác định đối tượng
nghiên cứu cho mình là: tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển quan
điểm, đường lối của Đảng về cải cách nền hành chính nhà nước và việc tổ
chức thực hiện đường lối đó trong thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Đề tài giới hạn từ tháng 4-2001 đến tháng 12-2010 -

19


tức là từ Đại hội IX đến Đại hội XI của Đảng. Tuy nhiên, lịch sử là một
quá trình liên tục, giai đoạn sau có quan hệ với giai đoạn trước mà người
nghiên cứu không thể cắt rời một cách cơ học, do đó, luận văn có đề cập
đến một số vấn đề liên quan trước năm 2001 và sau năm 2010.
Về nội dung: Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước từ
năm 2001 đến năm 2010 là một vấn đề rộng, đề tài giới hạn nội dung
nghiên cứu ở những quan niệm tiếp cận sau đây:
"Lãnh đạo" bao gồm nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo, quy
trình lãnh đạo, phương tiện lãnh đạo... đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu nội
dung lãnh đạo được thể hiện ở quan điểm, đường lối và sự hiện thực hóa
kết quả lãnh đạo trong thực tiễn.
Chủ thể lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước gồm các cơ quan
lãnh đạo của Đảng ở nhiều cấp độ cao thấp khác nhau, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu sự lãnh đạo của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng thể
hiện trên những quan điểm, đường lối được phản ánh trong các nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương.

"Cải cách" là một khái niệm gần nghĩa với "đổi mới", nhưng đặt
trong trường hợp cụ thể xây dựng nền hành chính thì thường được sử dụng
khi phản ánh đổi mới có tính mạnh mẽ. "Cải cách" là sự điều chỉnh những mặt
bất hợp lý và bổ sung những nội dung mới mà trước đó chưa có, nhằm làm
cho nền hành chính nhà nước Việt Nam thể hiện ngày càng đầy đủ, toàn diện
và rõ nét hơn bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
"Nền hành chính nhà nước" gồm nhiều cấp độ tổ chức, đề tài chỉ tìm
hiểu những nét chung nhất của cải cách nền hành chính nhà nước trên
phương diện vĩ mô gắn với vai trò của Chính phủ và các bộ, ngành. Còn về
nội dung, đề tài giới hạn ở bốn khía cạnh: tổ chức bộ máy hành chính; thể
chế hành chính; công chức hành chính, chế độ công vụ và tài chính công.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu, phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -

20


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
Các nguồn tư liệu sau đây được sử dụng để nghiên cứu đề tài:
- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước.
- Báo cáo tổng kết, tổng hợp của các cơ quan đảng, Nhà nước, kỷ yếu
các kỳ họp của Quốc hội, báo cáo của Chính phủ, các bộ, ngành Trung
ương, niên giám thống kê hàng năm của Tổng cục Thống kê...
- Kế thừa tài liệu từ công trình nghiên cứu của các học giả trong và
ngoài nước có liên quan đến đề tài được đăng tải trên các báo, tạp chí và
các loại ấn phẩm khác.
Để thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng, kết hợp hai phương pháp
chính là lịch sử và lôgíc. Phương pháp lịch sử được quán triệt trong phân

kỳ, trình bày tiến trình phát sinh, phát triển của mỗi chủ trương, chính sách,
là cơ sở khoa học cho việc đúc rút các nhận xét và kết luận. Phương pháp
lôgíc được thể hiện trong trình bày từng chương, tiết, đặc biệt là những vấn
đề mang tính khái quát như đúc rút nhận xét và tổng kết kinh nghiệm.
Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp khác như thống kê, so sánh...
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Hệ thống hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách
nền hành chính nhà nước từ năm 2001 đến năm 2010.
- Tổng kết một số kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo cải cách nền
hành chính nhà nước từ năm 2001 đến năm 2010.
- Ý nghĩa lý luận: Bước đầu tổng kết lịch sử để rút ra những kinh
nghiệm có tính lý luận về Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Góp phần cung cấp luận cứ khoa học lịch sử cho các nhà tổ chức hoạt
động thực tiễn để phục vụ yêu cầu tiếp tục lãnh đạo cải cách nền hành chính
nhà nước trong tình hình hiện nay.

21


+ Cung cấp thêm tài liệu tham khảo để phục vụ giảng dạy và học tập
bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.

22


Chƣơng 1

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
1.1. Bối cảnh đất nƣớc và yêu cầu tiếp tục cải cách nền hành
chính nhà nƣớc
1.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Bước vào thế kỷ XXI, Đảng ta nhận định thế giới sẽ tiếp tục có nhiều
biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có
vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn
cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt
tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản của thời đại
biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển,
có mặt sâu sắc hơn. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một
quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa
phương. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để lựa
chọn và quyết định con đường phát triển của mình. Hòa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc.
Thế giới đang chuyển từ đối đầu, chạy đua vũ trang sang cạnh tranh
kinh tế, kể cả các quốc gia trước đây vốn ở địa vị thuộc địa, lệ thuộc chủ
nghĩa thực dân đế quốc cũng ý thức rõ rệt về phát triển kinh tế để bứt phá đi
lên. Chỉ có tập trung phát triển kinh tế mới tránh được nguy cơ tụt hậu, tạo cơ
sở nâng cao đời sống của nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, tạo các
nguồn lực mở rộng tái đầu tư. Song phát triển kinh tế không phải là quá trình
tự thân, mà đòi hỏi phải gắn với điều kiện, tiền đề cần thiết, mà ở đó Nhà
nước đóng vai trò là "người dẫn đường", hỗ trợ, dẫn dắt doanh nghiệp. Cạnh
tranh ngày càng quyết liệt, đòi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia, mà cải cách hành chính trở thành yếu tố then chốt để "mở đường" thông
thoáng cho thu hút đầu tư và tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Đối với các

23



nước mới giành được độc lập, vai trò "bà đỡ" của Nhà nước trong xây dựng
và bảo vệ nền kinh tế dân tộc đang ở trạng thái yếu ớt càng có ý nghĩa quan
trọng. Song bảo vệ nền kinh tế dân tộc trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa
không thể tiến hành bằng các biện pháp truyền thống (hàng rào thuế quan),
mà phải bằng chính năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, bằng văn hóa
kinh doanh, bằng phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ, bằng coi trọng
các giá trị vô hình... và theo đó Nhà nước phải không ngừng điều chỉnh cách
thức quản lý để đảm bảo hỗ trợ doanh nghiệp một cách thích ứng và hiệu quả.
Bước vào thế kỷ XXI, thế giới từ đối đầu chuyển sang đối thoại, đã
thúc đẩy khả năng hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà
nước giữa các quốc gia. Chuyển từ đối đầu sang đối thoại tạo ra những khả
năng cho nước ta mở cửa ra thế giới để tham khảo, học tập kinh nghiệm của
mọi quốc gia thuộc mọi chế độ chính trị trong cải cách nền hành chính nhà
nước mà ở thời kỳ "chiến tranh lạnh" trước đây không thể có được. Đặc biệt,
quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là vấn đề mới mẻ đối với Việt
Nam, trong khi các nước tư bản phát triển đã có kinh nghiệm hàng trăm năm điều mà trước đây do quan hệ quốc tế bị chi phối bởi hệ tư tưởng là chủ yếu
nên ít được chú ý nghiên cứu. Hợp tác quốc tế rộng mở đã cho phép nghiên
cứu đầy đủ, toàn diện hơn những thành tựu về xây dựng nhà nước pháp
quyền, về quyền con người trong thế giới hiện đại, về nền hành chính công,
tài chính công... mà một thời kỳ chúng ta hiểu phiến diện. Những mặt tích cực
đã được chọn lọc để kế thừa trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, nhất là sự bùng
nổ của công nghệ thông tin, đã làm cho thế giới ngày càng thu nhỏ hơn, thông
tin ngày càng phong phú, khả năng mở rộng hợp tác thuận lợi hơn. Nhiều
thành tựu của công nghệ thông tin ứng dụng vào quản lý nhà nước tạo ra khả
năng to lớn để nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, mà xây dựng các
mạng thông tin, xa lộ thông tin giữa chính phủ và người dân, giữa nhà nước


24


và doanh nghiệp, giữa nước này với nước khác ở không ít quốc gia phát triển
đã đem lại nhận thức mới về công cụ và phương pháp quản lý nhà nước trong
thời kỳ mới.
Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ
đấu tranh oanh liệt giành lại độc lập , tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử
và thời đại.
Hiện nay, nhân dân ta đứng trước cả thời cơ và thách thức. Thời cơ
được tạo nên bởi cả nhân tố khách quan của thời đại và nỗ lực chủ quan của
Đảng ta, dân tộc ta trong suốt tiến trình cách mạng trong thế kỷ XX, mà trực
tiếp là 25 năm đổi mới. Hòa bình, độc lập, hợp tác trở thành xu hướng chủ
đạo; cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, tạo ra khả năng
mới cho sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Thời cơ
được tạo nên còn bởi các tiềm năng của đất nước được khơi dậy bởi đường lối
đổi mới của Đảng, tạo nên thực lực mới thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đi vào chiều sâu. Chính thực lực ấy kết hợp với vai trò chủ động
của mặt trận đối ngoại đã tạo nên một vị thế mới của Việt Nam trong cục diện
địa - chính trị gắn chặt với địa - kinh tế và địa - văn hóa của trật tự thế giới
mới. Vị thế đó lại góp phần tạo nên một khả năng mới để giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, khai thác tốt hơn các nguồn lực bên ngoài phục vụ
sự nghiệp đổi mới.
Bên cạnh đó, Đảng ta và dân tộc ta cũng đang đối diện với những thách
thức không thể xem thường khi khoảng cách về trình độ phát triển giữa Việt
Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới có nguy cơ ngày càng bị đẩy
ra xa hơn. Trong khi đó, quá trình cạnh tranh ngày càng trở nên hết sức gay
gắt, mà các nước phát triển đi trước luôn tạo ra được khả năng vượt trội. Toàn

cầu hóa là quá trình khách quan do sự phát triển lực lượng sản xuất, nhưng
đan xen trong nó cả những toan tính chủ quan của các siêu cường nhằm biến
lợi thế về vốn, khoa học - công nghệ, kiểm soát mạng lưới thương mại toàn

25


cầu... để tiếp tục khống chế, áp đặt ý đồ chính trị đối với các nước kém phát
triển. Trong bối cảnh đó, càng hội nhập sâu thì Việt Nam càng gắn chặt với
thế giới, phải điều chỉnh mọi thể chế, chính sách theo những điều khoản đã
cam kết trong đàm phán. Bất kỳ một thay đổi lớn, nhỏ của thế giới ngày nay
đều tác động nhanh chóng tới Việt Nam, nếu thiếu bản lĩnh và tỉnh táo để xử
lý nhiều khi sẽ bị đẩy vào thế bất lợi. Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ: tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; “diễn biến hòa bình”
do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp,
đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Trong đó, Đảng
ta nhấn mạnh: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của sống của một bộ không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản
trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình
và giảm lòng tin trong nhân dân. Vì thế, vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với
Đảng và nhân dân ta là phải nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển
mạnh mẽ trong thời kỳ mới.
Tóm lại, tình hình thế giới và trong nước trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI
đặt ra trách nhiệm cho Đảng cầm quyền phải tiếp tục lãnh đạo cải cách nền
hành chính nhà nước với chất lượng cao hơn, quy mô rộng hơn, tính chất triệt
để hơn và tinh thần khẩn trương hơn. Chỉ trên cơ sở cải cách nền hành chính
nhà nước mới đảm bảo thúc đẩy cải cách kinh tế đi vào chiều sâu, mở rộng
dân chủ xã hội, hội nhập sâu vào đời sống kinh tế quốc tế. Tình hình đó tạo ra
cả khả năng và thách thức, thời cơ và nguy cơ, thuận lợi và khó khăn đối với

công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Tuy nhiên, biến khả năng thành
hiện thực lại không giản đơn, vì cải cách hành chính trực tiếp đụng chạm đến
lợi ích cục bộ, cá nhân, đến sức ỳ của những nhận thức, thói quen đang cản
trở công cuộc đổi mới, vì vậy đòi hỏi rất lớn nỗ lực bởi nhân tố chủ quan của
mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

26


1.1.2. Quá trình cải cách nền hành chính nhà nước Việt Nam giai
đoạn 1986 - 2001
Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng sự nghiệp đổi mới đất nước, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, cùng với đổi mới kinh tế, đổi mới từng bước hệ
thống chính trị một cách vững chắc đã tạo ra bước chuyển biến hết sức
quan trọng về kinh tế và xã hội, đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng
khủng hoảng và phát triển đi lên với tốc độ cao. Quá trình đó cũng là quá
trình xuất hiện và tác động mạnh mẽ của các nhu cầu kinh tế - xã hội, trở
thành tiền đề của chủ trương cải cách bộ máy nhà nước, trong đó cải cách
hành chính ngày càng trở thành một nội dung trọng tâm, mang tính chất đột
phá, làm cơ sở cho toàn bộ quá trình đổi mới hệ thống chính trị, kiện toàn bộ
máy nhà nước.
Cơ sở xuất phát điểm của sự hình thành đường lối, quan điểm, nội dung,
chương trình và các giải pháp cải cách hành chính thời gian này chính là việc
nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội
phục vụ các nhiệm vụ trọng yếu sau đây: thứ nhất, cải cách hành chính phục vụ
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường; thứ hai, đáp ứng nhiệm vụ dân chủ hoá;
thứ ba, do yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quá trình hình thành đường lối, chủ trương, quan điểm về cải cách
hành chính nhà nước ở nước ta là một quá trình tìm tòi, nhận thức liên tục

trong suốt tiến trình đổi mới và thể hiện nhất quán trong các văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII; trong các Nghị quyết Hội nghị
đại biểu giữa nhiệm kì khoá VII, Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII), Nghị
quyết Trung ương 3 (khoá VIII) , Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII).
Chủ trương cải cách hành chính nằm trong tổng thể cải cách các cơ
quan nhà nước đã được đặt ra ngay từ đầu thời kì đổi mới. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã chỉ ra nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội chính là công tác

27


tổ chức, nhất là tổ chức bộ máy hành chính còn yếu kém. Xuất phát từ đó,
Đảng ta đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy
các cơ quan nhà nước nhằm xây dựng một cơ chế quản lý nhà nước thực hiện
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Chủ trương cải cách hành chính
được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) của Đảng khẳng định rõ
hơn: “Cải cách bộ máy nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực quản lí, tăng cường
pháp quyền, trọng tâm cải cách nhằm vào hệ thống hành chính”. Tiếp đến,
Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kì (khoá VII) tháng 1-1994,
lại khẳng định “xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, xúc tiến cải cách hành chính”. Có thể nói, với nghị
quyết này, cải cách hành chính đã bắt đầu thực sự được tổ chức triển khai trên
thực tế và trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược ổn
định kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII)
tháng 1-1995 có thể được coi là nghị quyết chuyên đề về cải cách hành chính,
đánh dấu một bước phát triển mới về chủ trương, phương hướng, nội dung cải
cách hành chính ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo cơ bản
được hoàn thiện; nội dung và phương hướng thực hiện cải cách đã được thể
hiện một cách tương đối cơ bản, toàn diện và có cơ sở khoa học. Tại Hội nghị

này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã nêu rõ lý do tại sao phải cải
cách một bước nền hành chính nhà nước, vì sao cải cách hành chính là trọng
tâm của việc kiện toàn bộ máy nhà nước. Hội nghị đã ra nghị quyết Tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng
tâm là cải cách một bước nền hành chính. Tư tưởng chủ yếu của nghị quyết
này về cải cách nền hành chính là: xem cải cách nền hành chính nhà nước là
yêu cầu bức xúc và là trọng tâm của việc hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; mục tiêu của cải cách hành chính là xây dựng một nền
hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước
hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc

28


đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân
dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội.
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) có ý nghĩa quan trọng đối với cải
cách hành chính: thứ nhất, đã xác định rõ ràng cải cách hành chính trở thành
một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng
sản Việt Nam, là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước; thứ hai, đã xác định đúng đắn
ở mức độ tổng quát về mục tiêu, quan điểm, nội dung, phương hướng tạo ra
những nhân tố động lực cơ bản cho việc đẩy nhanh quá trình cải cách hành
chính trong những năm tiếp theo.
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII (6-1996) của Đảng tiếp tục khẳng định
cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc biệt, cải cách hành chính đã được
nghị quyết xác định là một trong những giải pháp cơ bản để thực hiện các
nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
1996 - 2000.

Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) họp
tháng 6-1997 đã bàn và ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp
tục thực hiện cải cách hành chính là một trong những chủ trương và giải pháp
lớn được nhấn mạnh trong nghị quyết quan trọng lần này của Đảng, nhằm
mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp
của Nhà nước, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân dân còn diễn ra nghiêm trọng trong bộ
máy nhà nước. Nghị quyết đã cụ thể hóa các chủ trương quan trọng của Nghị
quyết Đại hội VIII đã đề ra, qua đó nghị quyết đã đánh dấu một bước chuyển
mới trong nhận thức về cải cách hành chính. Nếu như trước đó, cải cách hành
chính chủ yếu xuất phát từ các yêu cầu của việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới
kinh tế và phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, tháo gỡ khó khăn, tạo môi

29


trường cho các hoạt động kinh tế, thì tới thời điểm này, nhiệm vụ cải cách
hành chính không chỉ dừng lại ở đó, mà cải cách hành chính còn là yêu cầu
bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, nhằm
phát huy tốt hơn nữa, nhiều hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân.
Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 6 (lần II) và đặc biệt là Nghị quyết
Trung ương 7, tháng 8-1999 (khóa VIII) của Đảng đã biểu thị một quyết tâm
chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành cải cách hành chính, đặt cải cách
hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị.
Căn cứ vào các nội dung, chương trình, giải pháp cải cách hành chính,
có thể chia tiến trình cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian này làm
hai giai đoạn chính:
- Từ năm 1986 đến năm 1994:
Nội dung cơ bản của cải cách hành chính trong giai đoạn này là cải

cách bộ máy hành chính đặt trong tổng thể cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ
máy các cơ quan nhà nước. Nội dung này có các yêu cầu cụ thể sau: Xây
dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động; xây dựng bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương thành một hệ thống, có sự phân định rành mạch chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ; phân biệt
chức năng quản lý hành chính - kinh tế với chức năng quản lý sản xuất - kinh
doanh, kết hợp quản lý theo địa phương và lãnh thổ, phù hợp với tình hình
kinh tế - xã hội; triển khai những nội dung này, bộ máy nhà nước từng bước
chuyển sang thực hiện chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can
thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ
sở, tổ chức bộ máy nhà nước đã bước đầu được sắp xếp lại theo hướng gọn
nhẹ, giảm bớt đầu mối. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, tổ chức và biên chế của
bộ máy nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nặng nề, đặc biệt bộ máy hành chính
hầu như chưa có sự chuyển động, hoạt động quản lý điều hành của bộ máy
hành chính vẫn tiếp tục gây khó khăn trở ngại cho các tổ chức và công dân,

30


những thủ tục hành chính trong quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức, công
dân, cũng như giữa các cơ quan nhà nước với nhau hết sức phiền hà và trở
thành vấn đề bức xúc.
Trong tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(1991) đã nêu vấn đề nội dung cải cách hành chính theo hướng tập trung hơn
và cụ thể hơn: “Trọng tâm cải cách nhằm vào hệ thống hành chính với nội
dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà
nước thông suốt từ trung ương đến cơ sở”. Tiếp tục theo hướng đó, Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì của Đảng (1-1994) xác định nội dung của
cải cách hành chính là: đổi mới và tăng cường hệ thống hành pháp cả về tổ

chức, cán bộ, cơ chế hoạt động, phát huy vai trò điều hành của bộ máy hành
pháp. Đặc biệt, xuất phát từ tình hình thực tiễn, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 38/CP ngày 4-5-1994 quyết định thực hiện “cải cách một bước thủ
tục hành chính” lựa chọn thủ tục hành chính là khâu đột phá, là nội dung
trọng tâm của công tác cải cách hành chính trong tình hình mới. Như vậy đến
lúc này, nội dung công tác cải cách hành chính được xác định bao gồm cả ba
phương diện: thể chế, thủ tục hành chính; tổ chức bộ máy và công chức, công
vụ nhưng vấn đề tổ chức bộ máy vẫn là khâu trọng tâm.
Tuy nhiên, những nội dung mới trong công tác cải cách hành chính
chưa được thực sự triển khai thực hiện. Trên thực tế, cho đến cuối giai đoạn
này, cải cách hành chính vẫn nằm trong khuôn khổ của những thay đổi cục bộ
và không triệt để về tổ chức bộ máy hành chính.
- Từ năm 1995 đến năm 2000:
Đây là giai đoạn Đảng và Nhà nước tập trung sự chỉ đạo cải cách hành
chính nhà nước trên diện rộng và chú ý tập trung chỉ đạo điểm theo phương
châm: Cải cách nền hành chính nhà nước là trọng tâm của việc xây dựng hoàn
thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, công cuộc cải cách hành chính
phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể

31


chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ, cán bộ công
chức hành chính.
Như vậy trong giai đoạn này, cải cách hành chính được tiến hành đồng
thời trên ba nội dung: cải cách thể chế và thủ tục hành chính; tổ chức bộ máy;
xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức hành chính. Vấn đề tài chính
công tuy chưa được nêu thành một nội dung cải cách riêng biệt nhưng đã
được đề cập trong nội dung cải cách thể chế hành chính với tinh thần là hoàn
chỉnh thể chế quản lý tài chính công và tài sản công.

Để thực hiện các nội dung nêu trên, Đảng và nhà nước ta đã nêu ra
nhiều nhiệm vụ và những giải pháp cụ thể trên các lĩnh vực, các giải pháp
chính là:
Cải tiến sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và
Chính phủ để đảm bảo tính kịp thời và nâng cao chất lượng xây dựng pháp
luật. Tăng cường công tác lập quy của Chính phủ nhằm cụ thể hoá và triển
khai thực hiện luật được nhanh chóng, có hiệu quả. Kịp thời có quy định pháp
lý cho những vấn đề chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật. Bảo đảm việc
ban hành văn bản pháp quy theo đúng thẩm quyền. Văn bản luật chỉ ban hành
khi đã cơ bản chuẩn bị được văn bản hướng dẫn. Nghị định của Chính phủ
phải cụ thể để chấp hành; thông tư của bộ, liên bộ quy định chi tiết và hướng
dẫn thực hiện văn bản pháp quy của Chính phủ.
Tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh thể chế kinh tế mới, tập trung vào ba lĩnh
vực: xây dựng, bổ sung hệ thống luật và văn bản pháp quy tạo khuôn khổ pháp
lý cho việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Hoàn chỉnh hệ thống quản lý tài chính công (ngân sách, kho bạc, vốn đầu
tư xây dựng cơ bản của Nhà nước) và các tài sản công khác. Phân loại các doanh
nghiệp nhà nước và xây dựng thể chế quản lý phù hợp với tính chất của từng loại
doanh nghiệp.

32


Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sửa đổi, bổ sung các luật và pháp lệnh hiện
hành về thuế, về khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tập trung cải cách thủ tục trong các lĩnh vực tác động trực tiếp tới đời
sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân. Quy định chế độ công vụ và quy
chế phối hợp của các cơ quan có trách nhiệm giải quyết công việc của dân
một cách công khai, minh bạch, chống cửa quyền. Nhà nước giảm tối đa cơ

chế xin phép - cho phép trong từng vụ việc; rút kinh nghiệm về cơ chế “một
cửa” đã thực hiện có hiệu quả ở một số địa phương để chỉ đạo áp dụng rộng ở
các ngành, các cấp. Loại bỏ những khâu xin phép, xin duyệt không cần thiết,
giảm phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, hối lộ, vi phạm
pháp luật. Lập lại trật tự trong việc ban hành thủ tục hành chính và quy định lệ
phí. Chính phủ nắm quyền ban hành thủ tục hành chính, đồng thời quy định
phạm vi giao quyền cho cấp tỉnh, thành phố được ban hành một số loại thủ tục
mang tính đặc thù của địa phương.
Đẩy mạnh việc giải quyết các khiếu kiện của dân. Soát xét, bổ sung và
thể chế hoá các chính sách, trước hết đối với những lĩnh vực mà dân khiếu
kiện nhiều như tranh chấp về nhà đất. Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng
cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Xử lý
nghiêm minh các hành vi trì hoãn, chậm trễ, làm sai lệch, can thiệp trái pháp
luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Có
quy chế tạo thuận lợi cho người dân trình bày ý nguyện, thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo của mình, ngăn chặn những hành vi lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối.
Mở rộng dân chủ và tính công khai trong hoạt động của bộ máy nhà
nước, bảo đảm một môi trường công khai để nhân dân kiểm soát hoạt động
của bộ máy nhà nước, trước hết là công khai hoá việc sử dụng ngân sách của
các cơ quan nhà nước với một số biện pháp chủ yếu như: mở rộng dân chủ
trực tiếp ở cấp cơ sở; nâng cao vai trò của Quốc hội, và đặc biệt là đối với hội

33


đồng nhân dân các cấp ở địa phương, đề cao hoạt động kiểm toán và thanh tra
tài chính; quy định nghĩa vụ của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã,
phường định kỳ phải báo cáo công khai với dân; phát triển các hình thức tự
quản theo khu dân cư, khôi phục truyền thống hương ước... Rà soát, sửa đổi, bổ

sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật với các quy chế cụ thể, rõ ràng về
quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo
hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và
quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ theo hướng giảm dần số
lượng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ. Nâng cao chất
lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp.
Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ
quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ
cương xã hội.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công
chức, chú trọng cả yêu cầu về phẩm chất, đạo đức và trình độ, năng lực. Đẩy
mạnh việc đào tạo đội ngũ công chức, từng bước hiện đại hoá công sở. Tăng
cường đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, bố trí lại và đưa ra
khỏi bộ máy những người không đủ năng lực thực thi nhiệm vụ, kiên quyết
xử lý và sa thải những người thoái hoá, biến chất, tăng cường các biện pháp
và phối hợp lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa
quyền trong bộ máy quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước.
Về mặt tổ chức chỉ đạo, để tăng cường chỉ đạo công tác cải cách hành
chính trước các yêu cầu của tình hình mới, tháng 10-1998, Chính phủ đã
thành lập Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ do Thủ tướng
Chính phủ đứng đầu (thay thế cho Tổ tư vấn cải cách của Chính phủ).
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ đã tích cực triển khai thực hiện
các chủ trương về cải cách hành chính. Bộ máy nhà nước ta từng bước chuyển

34



×