Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.66 KB, 21 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI


TIỂU LUẬN
MƠN: LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Đề số 7:
ANH/ CHỊ HÃY BÌNH LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 30 LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
NĂM 2015? QUA ĐĨ, HÃY NÊU Ý KIẾN CÁ NHÂN CỦA ANH/ CHỊ VỀ
NHẬN ĐỊNH: “LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM CẦN QUY ĐỊNH
MỞ RỘNG THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT
ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH MANG TÍNH NỘI BỘ CỦA
CƠ QUAN, TỔ CHỨC.”
Họ và tên: Đinh Huỳnh Nhi
Sinh viên lớp: K6B
SBD: TKS000192
MSSV: 183801010096
Hà Nội – 2021
1


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................................................ 3
B. NỘI DUNG............................................................................................................. 4
I.

Bình luận về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính quy định tại Điều 30 Luật

tố tụng hành chính năm 2015..................................................................................... 4
1. Một số khái niệm cơ bản.................................................................................. 4


2. Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Tịa án quy định tại Điều 30
Luật tố tụng hành chính năm 2015.......................................................................... 5
2.1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính và các trường hợp
loại trừ................................................................................................................. 6
2.2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống..................................................... 11
2.3. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh......................................................................................................... 13
2.4. Khiếu kiện danh sách cử tri..................................................................... 14
II.

Bình luận về nhận định “Luật tố tụng hành chính Việt Nam cần quy định mở

rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức”........................................................ 15
1. Phân tích nội dung của nhận định................................................................... 15
2. Ý kiến về nhận định........................................................................................ 16
C. KẾT LUẬN........................................................................................................... 19
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... 20

2


A.

MỞ ĐẦU

Tịa Hành chính – tịa chun trách ở các cấp Tòa án và một số địa phương. Sự ra
đời của nó trong hệ thống phân cấp và tổ chức hoạt động của Tòa án Việt Nam cùng
với Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã đánh dấu một

bước tiến lớn đối với cong tác thực thi pháp luật của nhà nước. Không chỉ đặt trọng
tâm và các lĩnh vực nổi bật như dân sự, hình sự mà cùng với các lĩnh vực khác, hành
chính cũng dần khẳng định được vị thế của mình trong xu hướng thời đại mới.
Luật tố tụng hành chính ra đời là phương tiện đảm bảo cho mọi hoạt động tố tụng
trong công tác xét xử vụ án hành chính phải được đi theo một “guồng” định sẵn, chuẩn
mực, hợp pháp. Hiện nay, pháp luật quy định về thẩm quyền xét xử hành chính của
Tịa án nhân dân khơng trải dài trong nhiều khía cạnh, mà chỉ giới hạn với một số đối
tượng và trong một phạm vi cụ thể. Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015 đã đề
cập đến các khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử theo thủ tục tố tụng hành chính của
Tịa án – làm tiền đề cho mọi hoạt động tiếp theo của Tịa án là có cơ sở pháp lý. Và
bên cạnh đó, trong điều luật này, tồn tại một vài cơng trình nghiên cứu hay các đánh
giá chun mơn làm phát sinh các nhận định đi ngược lại với quy định hiện hành, một
trong số đó là nhận định “Luật tố tụng hành chính Việt Nam cần quy định mở rộng
thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính
mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.”
Bài tiểu luận này sẽ làm rõ trọng tâm “Bình luận về thẩm quyền giải quyết vụ án
hành chính quy định tại Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015? Qua đó, hãy nêu
ý kiến cá nhân của anh/ chị về nhận định “Luật tố tụng hành chính Việt Nam cần quy
định mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các quyết định hành chính, hành
vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.”
Danh mục các từ viết tắt
Tố tụng hành chính

TTHC

Luật tố tụng hành chính năm 2015

LTTHC 2015

Vụ án hành chính


VAHC

Tịa án nhân dân

TAND

3


B.

NỘI DUNG

I.

Bình luận về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính quy định tại

Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015
1.

Một số khái niệm cơ bản

“Thẩm quyền” là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề về pháp
luật. Ví dụ: Thẩm quyền xét xử của một cấp Tòa án; Đề án được cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt [2]. Định nghĩa này đã khái quát chung nhất nội hàm của từ.
Hoặc một cách đơn giản, trong từ điển Tiếng Việt: “thẩm quyền” là khả năng
(hay phạm vi) mà chủ thể được quyền làm gì trong những hoạt động gì, phạm vi như
thế nào hay ở mức độ ra sao.
Ở khía cạnh luật học, có nhiều quan điểm khác nhau về “thẩm quyền”. Nhưng

một cách chung nhất, “thẩm quyền” là quyền hạn pháp luật quy định cho cơ quan
công quyền hay công chức giữ chức vụ nhà nước nhất định. Thẩm quyền có thể được
quy định ở các đạo luật hay các văn bản dưới luật và do đó, nó ln được xem là
phương tiện để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ và công vụ của nhà nước [2].
Và trong luật TTHC, cho đến hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể định nghĩa
thế nào là thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào
phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Luật TTHC – điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong q trình Tịa án giải quyết VAHC, tức là giải quyết các tranh chấp giữa các
chủ thể của pháp luật TTHC với nhau – để xác định về cơ bản định nghĩa về thẩm
quyền xét xử hành chính như sau:
Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án là phạm vi thực hiện quyền lực nhà
nước của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp hành chính giữa một bên là
cá nhân, tổ chức với bên còn lại là chủ thể được nhân danh quyền lực nhà nước theo
pháp luật tố tụng hành chính nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Luật TTHC 2015 quy định về phạm vi thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án
bao gồm: 1/. Thẩm quyền theo loại việc (các tranh chấp hành chính mà TAND có khả
năng giải quyết – Điều 30 LTTHC 2015); 2/. Thẩm quyền theo cấp xét xử (Điều 31 và
32 LTTHC 2015) và 3/. Thẩm quyền xét xử theo địa giới lãnh thổ (Tòa án nơi nào có
thẩm quyền giải quyết – Điều 34 LTTHC 2015).
4


Bài tiểu luận này tập trung khai thác thẩm quyền giải quyết VAHC của Tòa án
theo loại việc quy định tại Điều 30 LTTHC 2015.
2.

Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Tịa án quy định tại

Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015

Điều 30 LTTHC 2015 quy định về các “Khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án”. Tại điều luật này vẫn giữ nguyên tinh thần của điều luật quy định về nội
1

dung tương tự trong LTTHC 2010 (Điều 28 ), tuy nhiên đã có một số bổ sung mới
nhằm thích ứng với đời sống xã hội và pháp luật hiện tại, từ đó đáp ứng những địi hỏi
ngày càng cao trong cơng tác khiếu kiện hành chính theo tinh thần cải cách tư pháp tại
Nghị quyết số 49 –NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lước cải cách tư
pháp đến năm 2020 [5]. Trước đây, trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VAHC [7]
chỉ quy định 22 loại việc theo phương pháp liệt kê là thuộc thẩm quyền xét xử VAHC
2

của TAND , nhưng đến LTTHC 2015 đã mở rộng thẩm quyền xét xử VAHC của
TAND từ 22 loại việc này lên hầu hết các loại việc trong quản lý hành chính nhà nước.
Tiến hành phân tích và đánh giá, bình luận thẩm quyền giải quyết VAHC của
Tòa án đối với từng đối tượng khiếu kiện cụ thể như sau:
1Điều 28 LTTHC 2010 quy định về những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: “1. Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức; 2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; 3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục
trưởng và tương đương trở xuống; 4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.”
222 loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của TAND bao gồm: “l. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
2. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; 3. Khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế, thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính; 4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính
bằng một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa
vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính; 5. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện
pháp buộc tháo dỡ nhà ở, cơng trình, vật kiến trúc kiên cố khác; 6. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng

chỉ hành nghề hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến hoạt động kinh doanh, tài
chính của thương nhân; 7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến thương mại hàng hố quốc tế
hoặc trong nước; 8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến chuyển giao tài chính trong nước và
quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ; 9. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng
mua, tịch thu tài sản; 10. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu
thuế, 11. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng phí, thu phí, lệ phí; thu tiền sử dụng đất;
12. Khiếu kiến quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao cơng nghệ;
13. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư; 14. Khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan; 15. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính về quản lý hộ tịch; 16. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối cơng chứng, chứng
thực; 17. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp
hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất; 18. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; 19. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ,
công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống; 20. Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ
luật của Đoàn luật sư; 21 . Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc; 22. Các khiếu kiện khác
theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

5


2.1.

Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính và các trường

hợp loại trừ
Đây là đối tượng khiếu kiện mang tính chủ đạo, quan trọng nhất trong số các
khiếu khiện thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của Tòa án. Các loại khiếu kiện sau (ở
mục 2.2, 2.3 và 2.4) chỉ là các trường hợp đặc biệt bổ sung cho trường hợp này.

2.1.1.

Khiếu kiện quyết định hành chính

Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động
3

quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể .
Căn cứ theo pháp luật hiện hành của nước ta, luật hành chính nói riêng xác định
có ba loại quyết định hành chính, bao gồm: Quyết định hành chính chủ đạo, quyết định
hành chính quy phạm và quyết định hành chính cá biệt. Tuy nhiên, nếu xét kĩ lưỡng
Khoản 1 Điều 3 LTTHC 2015 thì điều luật này đang xác định loại quyết định hành
chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa án – quyết định cá biệt (hay còn gọi là quyết
định hành chính áp dụng pháp luật). Ở một mức khái quát, tức là điều luật này khơng
giải thích khái niệm quyết định hành chính là gì, mà đang giải thích khái niệm và xác
định loại quyết định hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án, còn quyết định
chủ đạo và quy phạm, tuy là quyết định hành chính nhưng nó khơng là đối tượng được
phép kiện ra Tịa án.
Quyết định hành chính – để trở thành đối tượng khởi kiện của VAHC – phải thỏa
4

mãn điều kiện tại Khoản 2 Điều 3 LTTHC 2015 hoặc được quy định một cách tóm
5

lược bằng một điều luật tại Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP [6]
(Lưu ý: Nghị quyết này hướng dẫn thi hành LTTHC 2010 đã hết hiệu lực pháp luật,
3Khoản 1 Điều 3 LTTHC 2015
4Khoản 2 Điều 3 LTTHC 2015 quy định “Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà

quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội
dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
5Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP quy định: “Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu
Toà án giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông
báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ
quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số
đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản thơng báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ
chức trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý vụ
việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó), bao gồm:
a) Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;
b) Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần
hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản này.”

6


tuy nhiên hiện nay LTTHC 2015 lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, đồng thời
vẫn còn nhiều nội dung mà LTTHC 2015 quy định tương đồng với luật cũ, do vậy có
thể đưa ra Nghị quyết này để giải thích một vài nội dung). Gồm các đặc điểm sau:
1/. Về mặt hình thức: Phải được ban hành bằng văn bản.Vì nếu là thơng qua các
hình thức khác như lời nói, tín hiệu, ám hiệu, v.v. thì khơng thể trở thành cơ sở để lưu
giữ lại các bằng chứng, chứng cứ giúp Tòa án giải quyết các VAHC cũng như để người
khiếu kiện khiếu kiện các quyết định hành chính đó.
Tuy nhiên, liệu hình thức bằng “văn bản” đã hồn tồn phù hợp với thực tiễn
hay chưa vì cho đến hiện tại, vẫn tồn tại một số vấn đề gây cản trở vì quy định này. Ví
dụ: UBND huyện X thành phố Y ban hành quyết định thu hồi đất đối với nhóm chủ thể
A trên địa bàn huyện X nhưng lại thu hồi ln cả phần diện tích đất của chủ thể B
(cũng thuộc địa bản huyện X). Đối tượng thu hồi đất trong quyết định không bao gồm

B. Nhận thấy quyết định thu hồi đất đó trực tiếp xâm phạm đến lợi ích của mình, B có
ý định khiếu kiện quyết định hành chính này. Tuy nhiên, vì B khơng là đối tượng của
quyết định nên nếu B muốn thực hiện quyền lợi của mình ra Tịa án buộc B phải đi tìm
quyết định đó. Việc tìm kiếm này rất phức tạp.
2/. Về mặt chủ thể: Phải do cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức
được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan, tổ chức đó ban hành.
Đặt ra câu hỏi: Vì sao chỉ có quyết định cá biệt là thuộc đối tượng khiếu kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của TAND mà không bao gốm các quyết định
khác? Quyết định hành chính quy phạm và quyết định hành chính chủ đạo – nó khơng
đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi của một đối tượng cụ thể nào đó, phạm vi tác động
của nó chỉ có thể xác định một cách bao quát nên hai quyết định này không đáp ứng
điều kiện là một quyết định hành chính thuộc loại việc thuộc thẩm quyền xét xử VAHC
của TAND (Khoản 1 và 2 Điều 3 LTTHC2015) mà chỉ có quyết định hành chính cá
biệt có những đặc điểm đối lập mới thuộc trường hợp này (có hiệu lực áp dụng một
lần, tác động đến một hoặc một số đối tượng cụ thể và phải quyết định về vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước).
3/. Về nội dung: Phải là quyết định hành chính cá biệt và nhằm giải quyết, xử lý
những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
7


4/. Và điều kiện đủ: quyết định hành chính này phải xâm phạm trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Ví dụ: UBND tỉnh Lâm Đồng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 38,5
triệu đồng hai đơn vị kinh doanh vì có hành vi xả chất thải độc hại ra môi trường là
Công ty TNHH Rau Nhà Xanh do ông Ko Yaw Lin làm Tổng giám độc, có trụ sở đóng
tại thơn Tân An, xã Hiệp An, huyện Đức Trọng; và khách sạn Cẩm Đô (thuộc Công ty
Cổ phần Du lịch Đà Lạt) do ơng Tạ Hồng Giang làm Giám đốc, trụ sở đóng tại 24
Trần Phú, phường 3, Đà Lạt.

Trên thực tế hiện nay, có rất nhiều các quyết định hành chính, tuy thuộc trường
hợp khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của Tịa án, nhưng lại vấp phải khá
nhiều khó khăn: Các quyết định hành chính tuy ban hành sai nhưng đối tượng của các
quyết định này lại đạt được lợi ích nên khơng khởi kiện, làm cho Tịa án khơng biết để
giải quyết (Ví dụ: Các quyết định hành chính về cắt đất, chia đất làm lợi cho nông dân)
[3]; Hoặc trường hợp, hiện nay có rất nhiều quyết định thu hồi đất để tránh bị khiếu
kiện nên đã ẩn nấp dưới nhiều dạng rất tinh vi (Ví dụ: trường hợp “tờ trình” – một
dạng văn bản hành chính đã được thừa nhận – liệu có được khiếu kiện VAHC hay
khơng nếu nó mang tính mệnh lệnh bắt buộc xâm phạm đến quyền lợi của đối tượng
được ghi nhận); Hoặc các trường hợp mà đương sự được phép lựa chọn hoặc là khởi
kiện dân sự hoặc là hành chính tùy theo các văn bản hướng dẫn ở mỗi địa phương; v.v.
2.1.2.

Khiếu kiện hành vi hành chính

Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao
thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc khơng thực hiện nhiệm vụ, công
6

vụ theo quy định của pháp luật .
Tương tự với quyết định hành chính, để hành vi hành chính trở thành đối tượng
khiếu khiện thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của Tịa án cần có thêm điều kiện quy
7

định tại Khoản 4 Điều 3 LTTHC 2015 hoặc được quy định cụ thể bằng một điều luật
8

quy định tại Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP . Có các đặc điểm sau:
6Khoản 3 Điều 3 LTTHC 2015

7 Khoản 4 Điều 3 LTTHC 2015 quy định: “Hành vi hành chính bị kiện là hành vi quy định tại khoản 3 Điều này mà hành vi
đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
8Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP quy định: “Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà
án giải quyết vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm
quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Việc xác

8


1/. Về chủ thể: Do cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao quyền thực hiện quản lý hành
chính nhà nước thực hiện.
2/. Về hình thức thực hiện hành vi: Hành động hoặc không hành động.
3/. Về tính chất: Phải thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, cơng vụ được giao.
Ví dụ: Hành vi khơng cấp giấy đăng kí khai sinh cho con của chị A của UBND
TP. Kon Tum, tỉnh Kon Tum trong khi chị đã nộp đủ các giấy tờ theo yêu cầu.
2.1.3.

Các trường hợp loại trừ

a)

Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà

nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật.
Đây là trường hợp loại trừ mà không được lựa chọn con đường khiếu khiện theo thủ
tục tố tụng hành chính. Giải thích lý do cho điều này là căn cứ vào Pháp lệnh
30/2000/PL-UBTVQH10 về bảo vệ bí mật nhà nước [8]: ba lĩnh vực an ninh, quốc
phòng, ngoại giao là những lĩnh vực nhạy cảm, cần thiết có sự đảm bảo về tính bảo
mật nhằm bảo vệ an ninh chính trị, hịa bình của quốc gia. Nếu trao cho người dân

quyền được kiện theo thủ tục hành chính đối với ba lĩnh vực này thì vơ hình chung
đang tạo cho nền phòng thủ của quốc gia một mối họa ngầm rất lớn, đe dọa trực tiếp
phá vỡ vận mệnh của một quốc gia.
Hơn nữa, trường hợp loại trừ này có thay đổi một chút so với quy định tương tự
trong luật cũ trước đây, đó là bỏ cụm từ “”theo danh mục do Chính phủ quy định” và
thay thế bằng “theo quy định của pháp luật”. Vẫn có ý kiến cho rằng nên cụ thể hóa
các trường hợp không được khởi kiện theo thủ tục tố tụng hành chính bằng một danh
mục cụ thể, nhưng như thế lại vơ tình làm cho hoạt động xét xử của Tịa án phụ thuộc
vào cơ quan hành pháp. Ý định của LTTHC 2015 khi sửa đổi nội dung này là để Tịa
án linh hoạt hơn trong cơng tác xét xử VAHC, khơng cịn bị gị bó trong một khn
khổ mà khơng kịp linh động thích ứng với sự biến đổi của khách quan.
b)

Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
Đây là một trường hợp loại trừ hoàn toàn mới so với LTTHC 2010 trước đây.

định hành vi hành chính khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, khi nào là của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác và khi nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải căn
cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ, cơng vụ đó và phân biệt như sau:…”

9


Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm
pháp luật về an ninh, trật tự, an tồn xã hội mà khơng phải là tội phạm, bao gồm biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo
9


dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .
Hành vi cản trở hoạt động tố tụng và các biện pháp xử lý được quy định tại
Chương XX (từ Điều 316 đến Điều 326) LTTHC 2015. Đây là các hành vi đi ngược lại
với quyền và nghĩa vụ được quy định đối với người tham gia tố tụng, xâm phạm, gây
cản trở đối với tiến trình các hoạt động tố tụng của Tịa án làm mất thời gian, trình tự
tiến hành, giảm chất lượng, hiệu quả của cơng tác xét xử.
Ví dụ: Ơng A tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHC. Tại phiên tịa, ơng A có
hành vi gây rối trật tự, la hét, gây gổ tại phiên tòa. Trường hợp này Thẩm phán chủ tọa
phiên tịa có quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ơng A như phạt
tiền, đề nghị rời khỏi phòng xử án, v.v. Nếu ông A không đồng ý với quyết định xử
phạt vi phạm hành chính này của Thẩm phán chủ tọa phiên tịa thì ơng A khơng được
phép khởi kiện theo con đường thủ tục tố tụng hành chính.
Trên thực tế, các quyết định hành chính, hành vi hành chính của Tòa án được Tòa
án ban hành nhưng ở mức độ rất hạn chế và chỉ giới hạn ở hai nội dung là các biện
pháp xử lý hành chính và xử phạt hành vi cản trở tố tụng vì hai nội dung này mang
tính khách quan cao. Hơn nữa, xét riêng với trường hợp Tòa án đưa ra các biện pháp
xử lý hành chính – đây là một biện pháp độc lập, khác với các biện pháp mang tính
chất “xử phạt”, áp dụng với các cá nhân có hành vi vi phạm trật tự an tồn xã hội
nhưng khơng đủ mức để truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị áp dụng các biện
pháp xử lý vi phạm hành chính; đồng thời, được Viện kiểm sát cũng tham gia kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính này. Chính
bản thân Tịa án ra các quyết định hành chính, hành vi hành chính này mà người có
quyền khởi kiện lại khởi kiện ngược lại lên Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết chính vấn
đề do mình đặt ra thì điều này là bất hợp lý.
c)

Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ

quan, tổ chức.


9Khoản 3 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012

10


Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức là những quyết định, hành vi chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện nhiệm
vụ, kế hoạch công tác; quản lý, tổ chức cán bộ, kinh phí, tài sản được giao; kiểm tra,
thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ, chính sách, pháp luật đối với cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động và các đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan,
10

tổ chức .
Một số quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan,
tổ chức như quyết định hành chính, hành vi hành chính về việc bổ nhiểm, điều động,
nâng bậc lương, kỷ luật các bộ, công chức (trừ quyết định kỷ luật buộc thôi việc

11

công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống).
Giải thích lý do vì sao quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội
bộ của cơ quan, tổ chức nên được quy định vào vùng loại trừ các trường hợp không
thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của Tòa án và liệu rằng, có nên mở rộng thẩm
quyền xét xử của Tịa án vào trường hợp này hay không. Xem tại phần II.
2.2.

Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ

Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết định

của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỉ luật buộc thôi việc đối
với công chức thuộc quyền quản lý của mình [3]. Đồng thời, cũng khơng phải bất kì
một quyết định kỷ luật buộc thơi việc nào cũng được khởi kiện theo thủ tục tố tụng
hành chính mà chỉ áp dụng đối với đối tượng là công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục
trưởng và tương đương trở xuống, những chức danh từ Tổng Cục trưởng và tương
đương (Cục trưởng, Vụ trưởng, v.v.) trở lên như Chánh văn phịng Chủ tịch nước,
Chánh văn phịng kiểm tốn nhà nước, Thứ trưởng, Bộ trưởng, v.v. (Nghị định số
06/2010/NĐ-CP) do Thủ tưởng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức mà theo
Luật cán bộ, công chức 2008 họ được coi là cán bộ và buộc thôi việc không là một
trong các hình thức kỷ luật áp dụng với họ.
Một số đặc điểm được rút ra từ đối tượng này bao gồm: 1/. Quyết định kỉ luật
phải bằng văn bản và mang tên là “quyết định”; 2/. Người khởi kiện trong VAHC chỉ

10
Khoản 6 Điều 3 LTTHC 2015
11Khoản 5 Điều 3 LTTHC 2015 quy định: “Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là quyết định bằng văn bản của người đứng

đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.”

11


có thể là cơng chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng hoặc tương đương trở xuống; và
3/. Công chức chỉ có thể khởi kiện với hình thức kỷ luật buộc thơi việc.
Ví dụ: Ơng A là một cơng chức làm việc tại Sở kế hoạch đầu tư. Do sai phạm
nghiêm trọng trong quá trình làm việc nên vào ngày 1/2/2021, Giám đốc Sở kế hoạch
đầu tư ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với ông A. Không đồng ý với quyết
định này, ông A đã khởi kiện quyết định này lên Tòa án và yêu cầu Tòa án giải quyết
theo thủ tục tố tụng hành chính.
Điều 79 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định về các hình thức kỷ luật đối

với cơng chức bao gồm: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức,
buộc thơi việc. Tuy nhiên, chỉ có “quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ
chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống” mới là khiếu kiện theo loại
việc thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của TAND. Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao
chỉ riêng “quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục
trưởng và tương đương trở xuống” là được khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành
chính mà không thuộc trường hợp loại trừ với tư cách là quyết định hành chính
mang tính nội bộ? Có thể xuất phát từ hai lý do sau: 1/. Trong các hình thức kỉ luật,
hình thức kỷ luật buộc thơi việc là mang tính chất nặng nề nhất và nó ảnh hưởng rất
lớn đền danh dự, uy tín và đời sống vật chất của người bị kỉ luật, đại đa số đều đồng ý
với hậu quả nên cho rằng cần thiết phải để một bên thứ ba (Tòa án) xét xử nếu có
khiếu kiện nhằm đảm bảo tính khách quan, cơng bằng, bảo vệ được quyền lợi chính
đáng bị xâm hại và 2/. Chủ thể sau khi nhận được quyết định ký luật buộc thơi việc thì
tất nhiên đã chấm dứt quan hệ với cơ quan, tổ chức đó, lúc này đã triệt tiêu được tính
nội bộ, do đó trường hợp này không thuộc phạm vi loại trừ không được khiếu kiện vì
là quyết định hành chính mang tính nội bộ. Đây là một quy định phù hợp, đảm bảo
quyền lao động của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp.
Từ đánh giá trên cũng nhận thấy, nếu trường hợp bị kỷ luật buộc thôi việc là
“viên chức” mà không phải là “cơng chức” thì có quyền kiện theo con đường
TTHC hay không? Trường hợp nếu viên chức muốn kiện thì có thể lựa chọn kiện theo
con đường lao động, vì giữa viên chức và người sử dụng viên chức ban đầu phải ký kết
một hợp đồng lao động. Còn nếu trả lời cho câu hỏi có thể kiện theo con đường tố tụng
hành chính hay khơng thì cho đến hiện tại, LTTHC 2015 vẫn chưa có quy định. Tuy
12


nhiên, nếu nghiên cứu sâu hơn về Luật khiếu nại 2010 nhận thấy rằng: Sau khi khiếu
nại lần một, nếu viên chức không được giải quyết hoặc không đồng ý với quyết định
giải quyết khiếu nại đó thì viên chức được thực hiện các hoạt động tiếp theo tương tự
với cơng chức. Mà trong đó mặc nhiên được hiểu là bao hàm vả quyền khiếu kiện hành

chính. Thậm chí hiện này cũng đã có rất nhiều Tịa án chấp nhận xét xử theo thủ tục tố
tụng hành chính trong trường hợp này. Điều này đã chỉ ra một lỗ hổng pháp luật lớn
khiến cho việc áp dụng không được thống nhất trên thực tế giữa các địa phương.
2.3.

Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh
Hiện nay có ba dạng vụ việc cạnh tranh, cụ thể vụ việc hạn chế cạnh tranh, vụ việc
vi phạm quy định về tập trung kinh tế và vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.
Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc đối
tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết VAHC là quyết định của Hội đồng cạnh
tranh, của Bộ trưởng Bộ công thương khi giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh theo quy định tại mục 7 chương 5 của Luật cạnh tranh. Bao gồm: 1/. Quyết
định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ công thương đối với quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh của cục trưởng cục quản lý cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh
12

không lành mạnh ; 2/. Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối
với quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên
13

quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh .
Nhấn mạnh lại trong trường hợp này: Đối tượng mà chúng ta được quyền kiện
theo con đường TTHC, không phải là quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà nó phải là quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng cạnh tranh.
Ví dụ: Công ty A quảng cáo trên thị trường về sản phầm nước hoa của mình. Trong
mục quảng cáo có hành vi so sánh với một sản phẩm nước hoa khác của công ty B, gây
ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của cơng ty B. Đây là trường hợp hành vi cạnh tranh

không lành mạnh tại Điểm b Khoản 5 Điều 45 Luật cạnh tranh 2018. Khi xuất
12
Khoản 6 Điều 3 Luật cạnh tranh 2018 quy định: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp
trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc
có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.”
13
Khoản 2 Điều 3 Luật cạnh tranh 2018 quy định: “Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi gây tác động hoặc có khả
năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
và lạm dụng vị trí độc quyền.”

13


hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh này, Cục quản lý cạnh tranh tiến hành can
thiệp điều tra xem có hay khơng có thực chất sự việc này xảy ra, thuộc loại gì, v.v. Khi
có kết quả sẽ gửi toàn bộ hồ sơ đến và lúc này Cục trưởng Cục quản lý cạnh tranh ra
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong quyết định này yêu cầu bên công ty A bồi
thường cho bên công ty B số tiền là 790.000.000 đồng. Nếu công ty B không đồng ý
với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh này của Cục trưởng Cục quản lý cạnh tranh thì
cơng ty B khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ công thương. Và nếu Bộ trưởng Bộ Công
thương ra quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà
khơng như mong muốn của cơng ty B thì lúc này, cơng ty B có quyền khởi kiện quyết
định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Bộ trưởng Bộ công
thương theo thủ tục TTHC ra Tịa án có thẩm quyền.
Trường hợp này được xem là một trường hợp rất đặc thù vì nó giải quyết bằng một
con đường tố tụng riêng, ra đời cùng với Luật cạnh tranh 2005 gọi là “tố tụng cạnh
tranh”. Bằng con đường này Tịa án khơng được tham gia. Nhưng nếu sau khi có được
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà quyết định này lại bị khiếu nại. Từ lúc có quyết
định giải quyết khiếu nại lại trở về thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
2.4.


Khiếu kiện danh sách cử tri

Danh sách cử tri là danh sách những người đạt độ tuổi nhất định, đủ năng lực
hành vi, không bị hạn chế quyền công dân trên một địa bàn, một khu vực bầu cử sẽ
tham gia bỏ phiếu bầu cử trong một giai đoạn nhất định. Danh sách cử tri có thể là
danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc là danh
sách cử tri trưng cầu ý dân. Chính “danh sách cử tri trưng cầu ý dân” cùng với Luật
trưng cầu ý dân năm 2015 là lý do giải thích tại sao so với LTTHC 2010, LTTHC 2015
đã bỏ cụm từ “bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân” và chỉ sửa thành “khiếu kiện danh sách cử tri” là đối tượng khiếu kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của TAND.
Hơn nữa, khiếu kiện về danh sách cử tri có những đặc điểm riêng và cần một
trình tự thủ tục giải quyết riêng nhằm đảm bảo không ảnh hưởng đến quyền bầu cử của
công dân, đảm bảo việc bầu cử diễn ra thuận lợi, việc khiếu kiện và giải quyết khiếu
kiện phải diễn ra nhanh chóng, kịp thời. Một số đặc điểm rút ra được từ khiếu kiện
danh sách cử tri thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của Tòa án: 1/. Phải khiếu nại
14


trước khi khởi kiện; 2/. Kiện về việc cử tri khơng có tên, ghi sai họ, tên, ngày tháng
năm sinh, nơi cư trú, có tên ở hai tổ bầu cử; 3/. Cử tri không được kiện về tư cách ban
kiểm phiếu, tư cách đại biểu; 4/. Chỉ thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện; v.v.
Điều này chứng minh nhà nước ta đặt sự quan tâm rất lớn đền quyền bầu cử của
công dân. Tuy nhiên cho đến hiện nay, trên thực tế Tịa án chưa giải quyết bất kì một
VAHC nào mà đối tượng khiếu kiện là danh sách cử tri, có thể xuất phát từ một số lý
do như: công dân chưa thực sự quan tâm đến quyền bầu cử của mình nên khơng phát
hiện ra sai phạm để thực hiện quyền khiếu kiện; hoặc có thể là lý do chính trị, có nhiều
phức tạp trong dây chuyền các cơ quan, tổ chức lập danh sách cử tri nhằm che đậy sai
sót, cẩu thả của cá nhân có chức vụ, quyền hạn; v.v.

II.

Bình luận về nhận định “Luật tố tụng hành chính Việt Nam cần quy

định mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các quyết định hành chính,
hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức”
Khoản 1 Điều 30 đã đưa “quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính
nội bộ của cơ quan, tổ chức” vào vùng loại trừ là đối tượng không thuộc thẩm quyền
giải quyết VAHC của TAND. Có nhận định cho rằng: “Luật tố tụng hành chính Việt
Nam cần quy định mở rộng thẩm quyền xét xử của Tịa án đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.” Như vậy, liệu rằng
có hay khơng nên đưa tồn bộ các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang
tính nội bộ của cơ quan, tổ chức (bao gồm cả quyết định kỷ luật buộc thôi việc) vào
thẩm quyền xét xử VAHC của Tòa án, mở rộng phạm vi xét xử hành chính của TAND
so với pháp luật hiện hành hay khơng.
1.

Phân tích nội dung của nhận định

Từ nhận định được đưa ra có thể khai thác một số thông tin sau:
Một là, trải qua nhiều giai đoạn cải cách đổi mới bằng các dự thảo, công văn sửa
đổi, bổ sung, hủy bỏ điều luật và cho đến LTTHC 2015 hiện tại đang được lưu hành,
pháp luật nước ta vẫn chưa thừa nhận TAND có thẩm quyền xét xử theo thủ tục tố tụng
hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính chất nội bộ
của cơ quan, tổ chức.
Hai là, dù như thế nhưng thơng qua các cơng trình nghiên cứu, các cuộc đánh giá
và theo dõi tình hình thực tiễn, vẫn tồn tại khơng nhiều nhưng vẫn có một số các tác
15



giả nhận định, đề nghị về việc nên mở rộng thẩm quyền xét xử VAHC của Tòa án, cụ
thể là thẩm quyền xét xử hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Ba là, một vài lý do dự đốn giải thích vì sao lại có các nhận định này như: cho
rằng hiện nay pháp luật quy định thẩm quyền của Tòa án trong hoạt động xét xử
VAHC còn hạn chế, khá hẹp so với các lĩnh vực như dân sự, hình sự, v.v. khác; hoặc
cho rằng nếu quyết định kỷ luật buộc thôi việc cũng là đối tượng khiếu kiện theo loại
việc thuộc thẩm quyền giải quyết VAHC của Tịa án thì hiển nhiên các quyết định hành
chính, hành vi hành chính khác mang tính nội bộ cũng nên được đưa vào trong thẩm
quyển xét xử tương tự nhằm đảo bảo tính thống nhất pháp luật; hoặc cho rằng các
quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức phải
được xét xử bằng con đường tố tụng hành chính bởi Tịa án thì mới đảm bảo được tính
cơng bằng, khách quan nhất có thể so với các con đường giải quyết khác; hoặc có thể
đề cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt
động nhiệm vụ, công vụ; v.v.
Trên đây là những ý kiến thu được từ quan điểm của tác giả, tiến hành đánh giá
nội dung quan điểm trên từ đó kết luận tính phù hợp của quan điểm trong tình hình
thực tiễn xã hội nước ta hiện nay.
2.

Ý kiến về nhận định

Cho đến hiện tại, nhận định được đưa ra vẫn chưa hồn tồn là thích hợp đối với
tình hình thực tiễn và pháp luật, vẫn không nên mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án
đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan,
tổ chức – xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, mở rộng thẩm xét xử hành chính của Tịa án vơ hình chung làm cho
Tịa án can thiệp quá sâu vào quản lý hành chính nhà nước, ảnh hưởng đến hoạt động
14


tự do, tự chủ, tự quản của cơ quan, tổ chức này .
Một trong những lý do nổi bật nhất để “khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi
việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống” thuộc
thẩm quyền giải quyết VAHC của TAND đó là việc khi đã có quyết định buộc thơi
việc, tính nội bộ đã chấm dứt. Bản thân các quyết định hành chính, hành vi hành chính
14

Phát biểu của Đại biểu Huỳnh Ngọc Ánh tại kỳ họp thứ 9 ngày 23/6/2015 về dự án luật tố tụng hành chính (sửa đổi)

16


mang tính nội bộ khác nó có mối liên hệ chặt chẽ đến hệ thống tổ chức và hoạt động
trong nội bộ các cơ quan, tổ chức. Mỗi một cơ quan, tổ chức, để vận hành được trơn
tru theo một chỉnh thể thống nhất cho đến hiện tại, buộc phải có một cơ chế giám sát,
xử lý mọi bất cập trong nội bộ công tác và làm việc giữa các cá nhân trong đó. Do vậy,
đảm bảo cho hoạt động độc lập của cơ quan, tổ chức không chỉ là vấn đề cả bản thân
các cơ quan, tổ chức đó mà cịn là trọng tâm phát triển các chính sách thúc đẩy sự hoàn
thiện từ các cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền.
Nhưng nếu đặt giả thuyết, hệ thống tổ chức và hoạt động của nội bộ cơ quan, tổ
chức ln phải chịu sự “giám sát ngầm” từ Tịa án, Tịa án ln có quyền đưa tay can
thiệp vào bất kì một quyết định hành chính hay hành vi hành chính nào được ban hành
trong nội bộ nếu có cá nhân khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành chính, hệ quả dẫn đến
là nghiễm nhiên, mọi quyết định hay hành vi hành chính được triển khai vơ hình chung
sẽ bị ràng buộc bởi Tòa án, các cá nhân hay cơ quan chun mơn có thẩm quyền đối
với các quyết định hành chính, hành vi hành chính đấy trở nên khơng cịn tính mệnh
lệnh đối với các đối tượng chịu sự ràng buộc của quyết định hành chính, hành vi hành
chính. Đối tượng chịu sự tác động của các quyết định, hành vi hành chính này sẽ nảy
sinh tính ỷ lại vào Tòa án, cho rằng nếu cấp trên ban hành các quyết định hành chính,
thực hiện các hành vi hành chính sai thì ngay lập tức có thể khởi kiện lên Tịa, mặc kệ

cấp trên làm gì. Tính quyền lực giữa các cấp chức vụ trong nội bộ cơ quan, tổ chức
hoàn toàn bị ảnh hưởng nghiêm trọng, do đó, hoạt động tự do, tự chủ, tự quản của cơ
quan, tổ chức bị đục khoét một lỗ hổng khá lớn, sự phát triển bị trì trệ, kéo theo đó là
một loạt các hệ lụy cho các cơ quan, tổ chức có liên hệ khác.
Mặt khác, nhắc lại rằng, đối tượng khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử hành
chính của TAND phải là các quyết định hành chính mà là quyết định hành chính cá
biệt. Khơng thể cam đoan tồn bộ các quyết định hành chính trong nội bộ cơ quan, tổ
chức đều thỏa mãn điều kiện này. Mục đích của xét xử VAHC là xem xét tính hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Các quyết định hành chính, hành
vi hành chính nào xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của cơng dân. Các văn bản
khác nếu không trực tiếp xâm phạm, chỉ chỉ đến các đối tượng chung chung thì cũng
có nghĩa là Tòa án đang can thiệp vào hoạt động hành chính điều hành của bộ máy
hành chính. Ở một khía cạnh nào đó, điều này là vi phạm pháp luật.
17


Thứ hai, mở rộng thẩm xét xử hành chính của Tòa án lại khiến cho phạm vi giải
quyết các VAHC của TAND trở nên quá rộng, gây áp lực hay tạo gánh nặng cho cơng
tác xét xử hành chính của Tịa án nói riêng và các cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng
nói chung (Viện kiểm sát chẳng hạn).
Mỗi một cơ quan, tổ chức với chức năng hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau
nên các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong nội bộ cơ quan, tổ chức đó
trở nên vơ cùng đa dạng, phong phú. Nếu Tịa án có thẩm quyết xét xử hành chính đối
với cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ trong cơ quan,
tổ chức thì không thể phủ nhận rằng phạm vi về thẩm quyền này là quá rộng, nó bao
trùm đến mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của một vấn đề: từ những vấn đề về hoạt động
triển khai các nhiệm vụ, kế hoạch công tác của cơ quan, tổ chức, v.v đến những vấn đề
nhỏ hơn chỉ liên quan đến quyết định điều đồng, nâng lương, hạ lương, v.v. của một cá
nhân. Những vấn đề quá chi tiết như thế hoàn toàn là khơng cần thiết phải trải qua q
trình xét xử tại Tịa án.

Có quan điểm cho rằng những vấn đề trên phải thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa
án thì mới có thể đảm bảo tính cơng bằng, khách quan, đề cao tin thần trách nhiệm của
lãnh đạo cơ quan, tổ chức trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ. Điều
này là khơng hồn tồn chính xác. Chính sự tham dự của Tịa án nếu có thể thúc đẩy
tinh thần trách nhiệm thì đi cùng với nó sẽ là sự kìm hãm tính linh động, tìm tịi cái
mới, tinh thần dám thử thách của cơ quan, tổ chức. Bản thân cơ quan, tổ chức sẽ từ
ràng buộc vào trong một khn khổ truyền thống, cịn Tịa án sẽ ràng buộc mình vào
trong một “danh sách hàng loạt các vấn đề khơng quan trọng nhưng buộc phải giải
quyết vì pháp luật quy định”. Các vấn đề nội bộ trong cơ quan, tổ chức là vơ cùng
nhiều, hay nói cách khác các vấn đề ấy là “chín người mười ý”, để mà giải quyết tồn
bộ các khúc mắc đó hồn tồn là một thách thức lớn đến Tịa án. Nên nhớ rằng, Tịa án
khơng chỉ giải quyết các VAHC mà còn phải giải quyết các vụ việc khác trong lĩnh vực
dân sự, hình sự, kinh doanh thương mại, v.v.
Hơn nữa, khơng chỉ Tịa án chịu gánh nặng này mà các cơ quan, người tiến hành
tố tụng khác có liên quan, chẳng hạn như Viện kiểm sát, với chức năng hiến định của
mình là thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, cũng bị buộc phải
tham gia vào các phiên xét xử.
18


Thứ ba, mở rộng thẩm xét xử hành chính của Tịa án sẽ khơng đảm bảo được
tính thống nhất trong khiếu kiện hành chính.
Như đã biết, pháp luật Việt Nam ta đang khơng ngừng sửa đổi, đổi mới hay thậm
chí là hủy bỏ những nội dung cần thiết để đảm bảo tính thống nhất cao nhất trong hoạt
động áp dụng pháp luật hiện nay, hạn chế đến mức thấp nhất sự chồng chéo pháp luật.
Một vụ việc không thể do hai cơ quan đồng thời thụ lý giải quyết. Hiện nay, một quyết
định hành chính nếu phát hiện có sai phạm, có thể lựa chọn giải quyết bởi một trong
hai con đường: khiếu nại hoặc khiếu kiện hành chính. Nếu các quyết định hành chính,
hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức đã được khiếu nại theo Luật
khiếu nại hiện hành và đã có quyết định xử lý, nhưng người đã khiếu nại không đồng ý

nên lại đem quyết định hành chính sai phạm đó khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành
chính lên Tịa án. Như vậy cuối cùng, một quyết định hành chính sai phạm mà có tới
hai quyết định hoặc bản án giải quyết, vậy phải lựa chọn như thế nào. Và dù lựa chọn
cái nào thì điều đó cũng đã làm giảm tính có hiệu lực của quyết định giải quyết từ cơ
quan còn lại, gây nên sự mâu thuẫn. Phải nhận thức được rằng: nếu một quyết định
hành chính đã được giải quyết trong quản lý hành chính nhà nước và đã có hiệu lực
pháp luật thì khơng thể bị phủ định bởi một quyết định khác, trừ trường hợp quyết định
đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Nếu vấn giữ nguyên quan điêm cho rằng nên mở
rộng thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án đối với trường hợp này thì kéo theo đó
là một loạt vấn đề sửa đổi khác để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật
hiện hành, điều này là vô cùng phức tạp.
C.

KẾT LUẬN

Luật tố tụng hành chính ban hành được xem như là “xương sống” cho thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính của Tịa án nhân dân. Trong đó, các quy định về thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính của Tịa án cũng được quy định chi tiết nhằm giới
hạn phạm vi mà pháp luật cho phép Tòa án tiến hành chức năng hiến định của mình.
Cho đến hiện tại, phải thừa nhận rằng các vụ án hành chính được xét xử khơng
nhiều như các vụ án dân sự hay hình sự khác, và rõ ràng tính chất phức tạp của nó là
vơ cùng cao, gây áp lực rất lớn đối với những người hay cơ quan tiến hành tố tụng. Rất
nhiều những vấn đề cón bỏ ngõ thì chưa được quy định cụ thể hoặc chưa có văn bản
hướng dẫn dẫn đến việc áp dụng còn thiếu thống nhất giữa các địa phương. Chưa kể
19


đến các quy định về các vấn đề khác có liên quan, chỉ xét riêng Điều 30 Luật tố tụng
hành chính năm 2015 cũng đã có những thay đổi nổi bật so với quy định tương tự tại
Điều 28 Luật tố tụng hành chính năm 2010 hay thậm chí trong tương lai sẽ khơng

ngừng đổi mới nhằm thích ứng kịp thời sự biến đổi của thời đại. Một số nhận định
được ra, hay trong bài tiểu luận là nhận định về “Luật tố tụng hành chính Việt Nam
cần quy định mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức” – có thể đúng, có
thể sai nhưng khơng thể phủ nhận việc khơng ngừng đưa ra các quan điểm đang góp
phần rất lớn vào tiến trình xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp nhất với nhà nước
hiện nay.
D.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Tố tụng hành chính, luật số 93/2015/QH13, ngày 25 tháng 11 năm 2015.
2. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng – Trung
tâm từ điển học, Hà Nội.
3. ThS. Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (Chủ biên) (2017), Giáo trình
Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Luật tố tụng hành chính, luật số 64/2010/QH12, ngày 24 tháng 11 năm 2010.
5. Nghị quyết số 49 –NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lước
cải cách tư pháp đến năm 2020
6. Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29 tháng 7 năm 2011 về Hướng dẫn
thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính.
7. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính, số 29/2006/PL-UBTVQH11 ngày 05 tháng 04 năm 2006
8. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc Hội số 30/2000/PL-UBTVQH10 ngày
28 tháng 12 năm 2000 về bảo vệ bí mật nhà nước
9. Luật cạnh tranh, luật số 23/2018/QH14, ngày 12 tháng 06 năm 2018

20



21



×