Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Bản sắc văn hóa của người dao ở huyện tân sơn, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HUYỀN TRANG

BẢN SẮC VĂN HÓA NGƯỜI DAO Ở HUYỆN TÂN SƠN,
TỈNH PHÚ THỌ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Đại học Sư phạm Lịch sử - GDCD

PHÚ THỌ, NĂM 2018
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN

NGUYỄN HUYỀN TRANG

BẢN SẮC VĂN HÓA NGƯỜI DAO Ở HUYỆN TÂN SƠN,
TỈNH PHÚ THỌ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Đại học Sư phạm Lịch sử - GDCD

Người hướng dẫn khoa học: Th.S. Triệu Thị Hương Liên

PHÚ THỌ, NĂM 2018
2



LỜI CẢM ƠN

Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến ban
lãnh đạo trường Đại Học Hùng Vương, Ban lãnh đạo khoa Khoa học Xã hội và
Nhân văn, các Thầy giáo, Cô giáo trong khoa. Đặc biệt, em xin được gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến Cô giáo, Th.S Triệu Thị Hương Liên - người đã tận tình chỉ bảo
và hướng dẫn em trong suốt q trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận này.
Trong suốt quá trình nghiên cứu, em nhận được sự quan tâm, động viên,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cả về cả vật chất và tinh thần của gia đình, bạn bè.
Thơng qua đây, em cũng xin được gửi lời cảm ơn đến những tấm lòng và sự
giúp đỡ quý báu đó.

Em xin chân thành cảm ơn!

Phú Thọ, ngày 16 tháng 05 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Huyền Trang


Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Đất nước ta có 54 dân tộc anh em cùng cư trú trên dải đất hình chữ S, mỗi
dân tộc đều có bản sắc riêng của mình được kết tinh cùng với lịch sử trong q
trình hình thành và phát triển. Cùng với dịng chảy thời gian và những biến động
của lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc cũng vận động và biến đổi theo những quy
luật nhất định, với sự đan xen giữa những yếu tố cũ và yếu tố mới tạo nên những
nét độc đáo riêng, đồng thời góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống
nhất trong đa dạng.

Ngày nay đứng trước xu thế tồn cầu hóa vừa tạo ra những cơ hội lớn cho
sự phát triển của mỗi dân tộc, đồng thời cũng xuất hiện khơng ít những thách
thức, khó khăn nguy cơ về sự đồng hóa văn hóa, sự đánh mất bản sắc văn hóa và
sự bất bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa. Do đó, việc khẳng định hệ giá trị
đang là một vấn đề có tính cấp thiết, vừa có tính thời sự, vừa có tính lâu dài. Cần
phải có những chủ trương chính sách cụ thể trong việc giữ gìn và bảo tồn các giá
trị truyền thống văn hóa dân tộc.
Khẳng định tầm quan trọng của vấn đề, tại Nghị quyết Trung ương V
khóa VIII và Nghị quyết Trung ương IX khóa XII, Đảng ta đã xác định việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong
đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn là mục tiêu xuyên suốt.
Huyện Tân sơn, tỉnh Phú Thọ là nơi định cư của nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số, với những nét văn hóa độc đáo, đặc trưng, trong đó có dân tộc Dao.
Trong q trình lịch sử, đồng bào người Dao chọn nơi địa hình sườn núi từ 700 1000m để định cư. Sống bên cạnh các dân tộc như Mường, Tày, H’Mông...
nhưng người Dao đã sớm xây dựng cho mình bản sắc văn hóa độc đáo mang dấu
ấn của dân tộc mình, đó là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần mà người
Dao đã sáng tạo ra trong quá trình phát triển, đồng thời họ cũng tiếp thu có chọn
lọc những nét đẹp văn hóa của các dân tộc trên địa bàn cư trú để làm phong phú
thêm kho tàng văn hóa của mình.


Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc sống hiện đại, trước tác động của xu thế
tồn cầu hóa, song song với cơ hội được giao lưu, hội nhập là nguy cơ nhiều giá
trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trong đó có dân tộc Dao bị mai
một, lãng qn. Ví dụ như: khả năng đánh mất ngơn ngữ truyền thống, linh hồn
của văn hóa dân tộc, cũng là phương tiện để chuyển tải, trao truyền nghệ thuật,
phong tục tập quán của các tộc người, hay trang phục vốn được coi là bản sắc
của đồng bào cũng đứng trước nguy cơ thất truyền. Trước sức phát triển nóng
của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kỹ thuật làm thủ công các sản phẩm dân gian
truyền thống của đồng bào dân tộc Dao cũng có nguy cơ tiêu vong.

Đứng trước những thách thức ấy, việc khôi phục, bảo tồn, phát triển giá trị
văn hóa cổ truyền của dân tộc Dao nói riêng và của các dân tộc thiểu số khác trở
thành nhiệm vụ cấp bách, vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài.
Với những lí do như trên, tơi mạnh dạn chọn đề tài: “Bản sắc văn hóa của
người Dao ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài trở
thành giá trị quan trọng trong đời sống, đượcgiữ gìn và vun đắp suốt trong q
trình lịch sử. Qua bản sắc văn hóa người ta có thể hiểu được đời sống văn hóa
tinh thần, phong tục tập qn, trình độ văn hóa của một dân tộc. Bởi vậy nó đã
trở thành một trong những lĩnh vực thu hút các nhà nghiên cứu hiện nay dưới
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau theo văn hóa của từng dân tộc.
Qua cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc (Nxb Văn hóa
thơng tin, Hà Nội, 1998), tác giả đi vào phân tích và làm sáng tỏ khái niệm văn
hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và mối quan hệ giữa các không gian văn hóa. Từ
đó đi đến khẳng định “Văn hóa nào cũng cần phải có sự giao tiếp để phát triển”
[12;16].
Bàn về văn hóa, cịn phải kể đến cơng trình nghiên cứu “Cơ sở văn hóa
ViệtNam” của Trần Quốc Vượng (chủ biên), (Nxb. Giáo Dục, 2008). Cuốn sách
giới thiệu các quan niệm về văn hóa và các đặc điểm của văn hóa Việt Nam


trong q trình tiếp biến văn hóa nhân loại. Qua đó, khẳng định sự giao lưu văn
hóa, cần phải có chính sách giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Bên cạnh đó, cuốn “Văn hóa bản sắc văn hóa dân tộc” của tác giả Hồ Bá
Thâm (Nxb. Văn hóa thơng tin. Hà Nội, 2012). Tác giả đã làm rõ bản chất, đặc
trưng của văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và cịn chỉ ra những thách thức
khó khăn trong điều kiện phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay.
Cuốn “Người Dao ở Việt Nam” của tác giả Vũ Quốc Khánh, Nxb Thông
tin, 2009. Cuốn sách là một cơng trình nghiên cứu cơng phu về người Dao ở Việt

Nam. Những bức ảnh, bài viết ngắn gọn trong sách thể hiện một cách khá chân
thực các mặt đời sống cùng những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc
thiểu số Dao trên nhiều vùng khác nhau trong cả nước. Sách gồm các nội dung
sau: Nguồn gốc lịch sử và phân bố dân cư các nhóm Dao ở Việt Nam; trang
phục của người Dao với một số đặc điểm nổi bật, đặc trưng để phân biệt giữa
các nhóm Dao khác nhau. Tác phẩm cịn đề cập đến nơi sinh sống của họ như
các bản, xóm, thơn làng, nhà ở cũng như các hoạt độnng kinh tế xưa và nay của
người Dao, khái quát nét nổi bật, độc đáo trong lĩnh vực ẩm thực, lễ hội truyền
thống của họ.
Cuốn sách “Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Khắc Tụng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2004, trình bày khái quát
trang phục truyền thống tất cả các nhóm Dao trên đất nước ta.
Đề tài nghiên cứu khoa học “Điều tra, nghiên cứu hệ thống hóa các giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc Dao tỉnh Phú Thọ và đề xuất giải pháp bảo
tồn,phát triển”của tác giả Phạm Thị Thiên Nga, Sở Văn Hóa thơng tin Phú Thọ.
Đề tài đã trình bày khái quát về người Dao ở Phú Thọ. Bao gồm các nội dung:
nguồn gốc, địa bàn cư trú, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần…
Khóa luận tốt nghiệp “Trang phục truyền thống người Dao Quần Chẹt, xã
Thạch Kiệt, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ” của Phan Thị Thu Hường tập trung đi
sâu nghiên cứu về trang phục của người Dao Quần Chẹt, xã Thạch Kiệt, huyện
Tân Sơn. Khóa luận đã đưa ra cái nhìn chi tiết, tổng quát về trang phục cổ truyền
của người Dao nói chung và người Dao Quần Chẹt nói riêng.


Như vậy có thể thấy, bản sắc văn hóa của người Dao nói chung và người
Dao ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ nói riêng là một đề tài phong phú hấp dẫn,
thu hút nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Văn hóa người Dao góp
phần khơng nhỏ làm phong phú thêm kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Tuy
nhiên, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả trên chưa đi sâu tìm hiểu vềbản
sắc trong văn hóa người Dao ở huyện Tân Sơn, nên những đặc trưng và sựkhác

biệt của văn hóa người Dao huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ chưa được đề cập đến
cụ thể. Song những cơng trình nghiên cứu đó là cơ sở để tiếp tục đi sâu vấn đề,
trên cơ sở kế thừa một phần cơng trình của những người đi trước. Đây là nguồn
tài liệu quý báu tạo điều kiện cho tơi thực hiện đề tài của mình với chủ đề: “Bản
sắc văn hóa người Dao ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Bản sắc văn hóa người Dao ở huyện Tân Sơn tỉnh Phú
Thọ” tơi hướng đến mục tiêu sau:
Nghiên cứu về bản sắc văn hóa người Dao ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú
Thọgóp phần làm sáng tỏ giá trị, tầm quan trọng cũng như thực trạng giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa người Dao ở huyện Tân Sơn. Từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Dao ở huyện
Tân Sơn trong bối cảnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này khóa luận tập trung hồn thành những nhiệm
vụ sau:
Phân tích khái quát những vấn đề lí luận cơ bản về văn hóa, bản sắc văn
hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, khái quát về dân tộc Dao nói chung và người Dao
ở huyện Tân Sơn nói riêng.
Khảo sát, mơ tả, phân tích để tìm ra đặc trưng giá trị bản sắc văn hóa của
người Dao ở huyện Tân Sơn.
Phân tích, đánh giá tầm quan trọng, vai trị của bản sắc văn hóa của người
Dao ở huyện Tân Sơn.


Phân tích thực trạng biến đổi bản sắc văn hóa và đề xuất một số giải pháp
nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa người Dao ở huyện Tân Sơn trong đời
sống hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bản sắc văn hóa dân tộc Dao
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
Thời gian: Đương đại
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp chuyên ngành
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp chủ yếu:
Phương pháp lịch sử: Phương pháp này tôi sử dụng nhằm khôi phục lại
các giá trị văn hóa về người Dao ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Qua đó thấy
được những nét đặc sắc của văn hóa người Dao huyện Tân Sơn so với các dân
tộc khác.
Phương pháp logic: Phương pháp này được vận dụng trong quá trình
nghiên cứu tổng thể về giá trị văn hóa của người Dao. Các kết luận, nhận định,
đánh giá sẽ được chính xác hơn.
5.2. Phương pháp liên ngành
Phương pháp điền dã, điều tra, khảo sát: Vì văn hóa của người Dao tồn tại
dưới nhiều dạng. Vì vậy qua điền dã, điều tra, khảo sát chúng tôi thu thập tài
liệu, dùng những tài liệu thu thập được để so sánh với các tư liệu thu thập được từ
các cơ quan chức năng để rút ra kết luận chính xác.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để xác minh sự kiện.
So sánh bản sắc văn hóa của người Dao ở huyện Tân Sơn với người Dao ở địa
phương khác ở Phú Thọ và các tỉnh lân cận.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ những tư liệu thu thập được, tơi có
lựa chọn thơng tin chính xác, phân tích, đánh giá, tổng hợp để đảm bảo tính
khoa học của đề tài.


Phần 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢN SẮC VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI

DAO Ở HUYỆN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ
1.1.Khái niệm về văn hóa, bản sắc văn hóa, bản săc văn hóa dân tộc
1.1.1.Khái niệm văn hóa
Từ văn hố có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hố được dùng theo
nghĩa thơng dụng để chỉ học thức (trình độ văn hố), lối sống (nếp sống văn
hố); theo nghĩa chun biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn
hố Đơng Sơn, văn hóa Sa Huỳnh)… Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hố bao
gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục,
lối sống, lao động… Chính với cách hiểu rộng này, văn hố mới là đối tượng
đích thực của văn hố học.
Theo PGS.TS Trần Ngọc Thêm thì “Văn hố là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội” [19;10].
1.1.2.Bản sắc văn hóa
Trong những năm gần đây, cùng với khái niệm văn hoá, các tác giả còn
quan tâm đến một khái niệm gần gũi nữa là bản sắc văn hoá. Bản sắc văn hoá
được đề cập đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu khác nhau về văn hoá Việt
Nam. Nhưng cho tới nay khái niệm này hầu như vẫn chưa tìm được sự đồng
thuận cao độ.
Trong từ điển Tiếng Việt Phổ thông:“Bản sắc chỉ tính chất, màu sắc
riêng, tạo thành phẩm cách đặc biệt của một vật” [17;26]. Tuy nhiên không
phải quan niệm nào cũng được xếp vào bản sắc, mà bản sắc văn hóa là cái cốt
lõi, nội dung của một nền văn hóa cụ thể. Đó là những nét riêng vốn có của mỗi
dân tộc, những nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể. Bản sắc văn hóa là cái thường xuyên


được duy trì, tái hiện, hồn thiện trong q trình phát triển. Mặc dù đã trải qua
nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử nhưng giá trị ấy không mất đi, mà nó cịn

tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác để làm phong phú thêm giá trị
văn hóa của dân tộc mình.
Bàn về văn hóa, tác giả Phạm Thái Việt định nghĩa: “Bản sắc là những
yếu tố văn hóa đặc trưng cho từng cấp độ chủ thể văn hóa được xét đến. Bản
sắc giúp khu biệt cộng đồng văn hóa này với cộng đồng văn hóa khác”
[21;328]. Theo định nghĩa này bản sắc văn hóa có thể hiểu là với tư cách là văn
hóa của một cộng đồng, một dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, cách hiểu này chưa
cho ta thấy rõ về cái đặc sắc riêng thể hiện bản sắc văn hóa.
Tác giả Hồ Bá Thâm đưa ra quan niệm về bản sắc văn hóa: “Là một kiểu
tổng hợp, kết hợp những phẩm chất, những giá trị văn hóa nội sinh và ngoại
sinh tạo thành linh hồn, sức sống bền vững của dân tộc, có nét ưu trội đặc biệt
hơn một số dân tộc khác, vừa mang tính ổn định tương đối vừa biến đổi trong
quá trình lịch sử đấu tranh và xây dựng của dân tộc đó” [15;23].
Qua cách tiếp cận trên của các học giả Việt Nam, cho thấy: Bản sắc văn
hóa biểu hiện các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống của từng dân
tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Đó là các giá trị được lưu giữ
qua các thời kỳ lịch sử nối tiếp từ thế hệ này qua thế hệ khác, hòa vào dịng chảy
liên tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã hình thành và trở thành truyền
thống, bản sắc văn hóa mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh
giá, điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng. Song khái niệm bản sắc văn
hóa không phải là sự cố định, bất biến hoặc khép kín mà nó ln vận động và
phát triển, bên cạnh sự phong phú và đa dạng, bản sắc văn hóa cịn mang tính
lịch sử. Mọi sự vật hiện tượng ln tồn tại, vận động, bản sắc cũng vậy, ln
thích nghi với yêu cầu của thời đại. Trong tiến trình phát triển yếu tố đặc thù phù
hợp với thực tiễn sẽ được phát huy, những yếu tố bảo thủ lạc hậu sẽ bị bài trừ.
Bản sắc văn hóa ln thể hiện nội dung bên trong có của văn hóa, đó là
nét riêng phản ánh độc đáo mối liên hệ thường xuyên, phổ biến giữa cái chung


(văn hóa nhân loại) với cái riêng (văn hóa dân tộc). Do đó, bản sắc văn hóa

khơng đứng ngồi văn hóa, mà chúng ln có mối quan hệ bền chặt với nhau.
Như vậy, ta thấy rằng: Bản sắc văn hoá là cái chung nhất, cơ bản nhất của
một nền văn hoá, mọi yếu tố nằm trong bản sắc của một nền văn hố đều thuộc
về chính nền văn hố đó, nhưng khơng phải mọi yếu tố của nền văn hố đều
nằm trong bản sắc của nó. Bản sắc văn hố phải là những nét đặc trưng, độc đáo
và cơ bản nhất để nhận diện một nền văn hoá và để phân biệt nền văn hoá này
với một nền văn hoá khác.
1.1.3.Bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa dân tộc được hiểu một cách chung nhất là hệ thống các
giá trị đặc trưng bản chất của một nền văn hóa được xác lập, tồn tại, phát triển
thơng qua nhiều sắc thái văn hóa cụ thể khác nhau. Đó là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử, nét độc đáo, khác
biệt của dân tộc này so với dân tộc khác.
Trong mối quan hệ giữa các nền văn hóa, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc
bao giờ cũng thể hiện tính hai mặt: thống nhất và đa dạng. Sự thống nhất đó
phản ánh những nét chung của nền văn hóa như văn hóa vùng, văn hóa quốc gia,
văn hóa khu vực. Tính đa dạng phản ánh những sắc thái riêng, đặc thù của mỗi
dân tộc.
Xét trong sự vận động và phát triển, bản sắc văn hóa dân tộc vừa mang
tính ổn định, vừa mang tính biến đổi. Bản sắc văn hóa dân tộc ổn định ở q
trình hình thành và phát triển lâu dài của dân tộc. Tính biến đổi ở chỗ bản sắc
văn hóa dân tộc khơng phải là một thực thể cố định, mà nó ln vận động và
biến đổi khơng ngừng. Vì tiến trình phát triển của lịch sử, bản sắc văn hóa ln
được kế thừa những giá trị của thế hệ trước đó.
Bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm “động” và “mở”. Trong cuốn
“Bản sắc văn hóa Việt Nam”, GS Phan Ngọc đã khẳng định một nền văn hóa là
một cơ thể sống, muốn cơ thể ấy có sinh lực và dũng khí để tồn tại và lớn lên thì
nó buộc phải thích nghi với mọi hồn cảnh, tức là phải biến đổi bản thân và tiếp
biến với các nền văn hóa bên ngồi. Bản sắc văn hóa dân tộc mang tính lịch sử



cụ thể và vận động nên không ngừng đổi mới trên cơ sở loại bỏ những yếu tố
bảo thủ và tiêu cực, tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực và tiến bộ, đồng
thời hình thành các giá trị mới để đáp ứng với yêu cầu phát triển của thời đại.
Tại Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ
ra bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm: “Những giá trịbền vững, những
tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước, tạo thành những nét đặc trưng của cộng đồng dân tộc Việt Nam, con
người Việt Nam. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh
thần đồn kết; tính cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng - nước; lịng
nhân ái , bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đầu óc thực tế; đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động; tế nhị trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản
sắc dân tộc cịn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo”[4;23].
Bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành và phát triển phụ thuộc vào đặc
điểm tộc người, điều kiện tự nhiên, nơi cư trú, thể chế chính trị, cũng như sự
giao thoa giữa các nền văn hóa khác. Bản sắc văn hóa dân tộc cũng giống như
bộ “gen” bảo tồn dân tộc. Được thể hiện ở giá trị dân tộc, ở truyền thống, bản
lĩnh, tâm hồn, lối sống, tình cảm. Trải qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương
bắc đô hộ, chúng ta không bị đồng hóa bởi văn hóa Hán, dân tộc ta khơng những
lưu giữ được bản sắc dân tộc mình mà cịn tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa
làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là sự thống nhất giữa nội dung và hình
thức, giữa trình độ và tư duy, ý chí và bản lĩnh dân tộc giúp cho bản sắc văn hóa
khơng bị đồng nhất với các nền văn hóa khác.
Bản sắc văn hóa dân tộc vừa bao hàm các giá trị do dân tộc mình sáng
tạo ra trong quá khứ và hiện tại, vừa bao hàm các tinh hoa nhân loại mà dân
tộc tiếp nhận một cách sáng tạo biến nó thành nguồn lực bên trong để phát
triển đất nước.
Văn hóa có tính dân tộc vì nó được tạo ra, lưu truyền trong cộng đồng dân
tộc với một điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội lịch sử riêng.Qua quá trình phát

triển lâu dài, những đặc điểm dân tộc được in dấu vào các sáng tạo văn hóa dân


tộc, trải qua những thách thức thời gian, được lịch sử định hình tạo thành bản
sắc văn hóa dân tộc từ đó tạo nên đặc trưng, bản lĩnh nội sinh của dân tộc.
Sự đặc sắc trong văn hóa dân tộc Việt Nam là một nền văn hóa vừa đa
dạng, vừa thống nhất; là sự đan xen, tiếp xúc, biến đổi, bổ sung lẫn nhau của văn
hóa các tộc người. Nền văn hóa đó có được là nhờ vào sự đồn kết của cộng
đồng 54 dân tộc anh em trong quá trình dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên
ý thức cộng đồng.
Tuy nhiên, mỗi vùng văn hóa nước ta do điều kiện tự nhiên, phương thức
canh tác, sự giao lưu văn hóa, tâm lý cộng đồng, nguồn gốc lịch sử mà có những
sắc thái văn hóa riêng thể hiện ở tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán, lối sống
sinh hoạt và văn hóa ứng xử. Những khác biệt này có tính thống nhất trong đa
dạng, chúng khơng loại trừ mà bổ sung, phát huy giá trị của nhau. Trong q
trình giao lưu văn hóa, những yếu tố đặc trưng cốt lõi của mỗi dân tộc vẫn được
giữ gìn, duy trì và phát triển tạo nên những sắc thái riêng, độc đáo không bị pha
trộn với các dân tộc khác.
Như vậy, Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị vật chất tinh thần đặc
trưng tiêu biểu, phản ánh diện mạo, phẩm chất và bản lĩnh của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc mà qua đó chúng ta có thể phân biệt được văn hóa của dân tộc này
với dân tộc khác. Đó là tổng thể những màu sắc, những đặc trưng biểu hiện ở
một dân tộc trong quá trình lịch sử tồn tại và phát triển giữ vững được tính duy
nhất, sự nhất qn của mình trong qua trình phát triển.
1.2. Khái quát về huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Tân Sơn là huyện miền núi được thành lập theo Nghị định số
61/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của Chính phủ trên cơ sở điều chỉnh địa giới
hành chính huyện Thanh Sơn để thành lập huyện: Thanh Sơn và huyện Tân Sơn.
Huyện Tân Sơn có diện tích tự nhiên 68.858 ha, dân số trung bình năm 2008 là

76.512 người gồm 8 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó: dân tộc thiểu số
chiếm 82,3% (dân số Mường chiếm 75%, Dao 6,4%, H’Mông 0,67%...). Tân


Sơn có 17 xã, trong đó có 14/17 xã đặc biệt khó khăn; 1 xã An tồn khu, 3 xã
thuộc vùng II.
* Điều kiện tự nhiên:
Huyện Tân Sơn nằm về phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ, phía Bắc giáp
huyện n Lập, phía Đơng giáp huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp
huyện Đà Bắc tỉnh Hịa Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái và
huyện Phù Yên tỉnh Sơn La. Trung tâm huyện lỵ nằm tại xã Tân Phú có trục
đường Quốc lộ 32A chạy qua, cách thành phố Việt Trì 75km, cách thủ đơ Hà
Nội 117km, vị trí địa lý thuận lợi cho giao thương giữa huyện với các trung tâm
kinh tế, chính trị lớn của tỉnh và của cả nước.
* Tài nguyên thiên nhiên:
Đất: Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 68.858 ha, trong đó 57.958
ha là đất nơng, lâm nghiệp (chiếm 84,17%); 2.119,45 ha là đất phi nông nghiệp
(chiếm 3,07%); 8.779 ha đất chưa sử dụng (chiếm 12,74%).
Trong số hơn 52.577,51 ha đất lâm nghiệp có 15.048 ha thuộc vườn Quốc
gia Xuân Sơn với hệ động thực vật phong phú, nhiều hang động độc đáo, có
tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm, nghỉ dưỡng.
Khoáng sản: Một số loại quặng đang được khảo sát, thăm dị là sắt, than,
chì, đá xây dựng, cát sỏi, chủ yếu ở các xã Thu Cúc, Thu Ngạc, Đồng Sơn, Long
Cốc, Thạch Kiệt, Tân Phú, Mỹ Thuận và Văn Luông.
Tài nguyên nước: Tân Sơn có hệ thống sơng Bứa và các chi lưu, có 02 hồ
lớn là hồ Sận Hòa (xã Tân Sơn) và hồ Xuân Sơn (xã Xuân Đài).
1.2.2. Đời sống kinh tế
Tân Sơn là một huyện nghèo của tỉnh Phú Thọ. Khi mới thành lập, kinh tế
- xã hội huyện Tân Sơn cịn gặp rất nhiều khó khăn do điều kiện tự nhiên và xã
hội, cùng với những tác động tiêu cực do sự suy thoái nền kinh tế thế giới, thời

tiết khắc nghiệt, rét đậm rét hại, sâu dịch bệnh hại cây trồng, vật nuôi, gây ra
những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của người dân.
Tổng giá trị sản xuất năm 2007 là 236,7 (tỷ đồng), trong đó sản xuất nơng
nghiệp là 161,3(tỷ đồng) chiếm 61,17%, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây


dựng là 42,1(tỷ đồng) chiếm 15,97% và thương mại dịch vụ là 60,3(tỷ đồng)
chiếm 22,87% [3;7]. Qua đây ta có thể thấy tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ còn rất nhỏ so với nơng nghiệp.
Tình hình sản xuất nơng - lâm - ngư nghiệp của huyện Tân Sơn cịn nhiều khó
khăn. Trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng hầu như chưa có sự
chuyển biến đáng kể, tiểu thủ cơng nghiệp nhỏ lẻ manh mún (giá trị sản xuất
năm 2008 chỉ đạt 18,15% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn) [3;9].
Ngành chiếm tỉ trọng cao đó là chế biến nơng - lâm - thuỷ sản, trong đó
chủ yếu là chế biến chè. Khai thác và chế biến khống sản cịn mang tính cơ sở
và quy mơ nhỏ, đang trong giai đoạn thăm dị khảo sát. Vì vậy, cơng nghiệp
chưa thực sự phát triển, các hoạt động chủ yếu dưới dạng tiểu thủ công nghiệp.
Một số nghề truyền thống như dệt thổ cẩm ở các xã Xuân Đài, Kim Thượng, Lai
Đồng, đan lát ở xã Tân Phú đang được khôi phục.
Mặc dù các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng chưa
phát triển nhưng đã góp phần giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao
động, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển.
Trong dịch vụ còn chưa đồng đều, các ngành dịch vụ nhiều tiềm năng
chưa phát triển như dịch vụ du lịch, các loại hình dịch vụ phục vụ đời sống, đào
tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa có cơ sở phát triển. Việc trao
đổi hàng hố bn bán bị gián đoạn do giao thông kém phát triển.
1.2.3. Đời sống văn hóa - xã hội
Là một huyện miền núi, Tân Sơn có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống.
Bởi vậy, bên cạnh sự phong phú, sinh động, đa sắc màu về văn hóa thì một số
phong tục, tập qn, hủ tục lạc hậu vẫn còn rơi rớt lại, trở thành “rào cản” cho

quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới. Những năm qua, để nâng cao chất
lượng đời sống văn hóa - xã hội của nhân dân, huyện Tân Sơn đã tập trung tăng
cường các hoạt động thông tin tuyên truyền; đẩy mạnh phong trào văn hóa văn
nghệ - thể dục thể thao quần chúng, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa, các thiết chế văn hóa, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống gắn với du


lịch; đưa văn hóa về cơ sở phục vụ nhân dân nhằm nâng cao đời sống tinh thần,
qua đó góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Xác định xây dựng và phát triển đời sống văn hóa, nhằm góp phần tạo nền
tảng tinh thần cho xã hội, nhân rộng và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống, nâng cao sức khỏe, thể chất cho từng người dân. Thời gian qua, huyện
Tân Sơn đã tập trung chỉ đạo và triển khai có hiệu quả phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với phong trào “Tồn dân rèn luyện
thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, đưa phong trào phát triển cả về bề rộng lẫn
chiều sâu, tạo sức lan tỏa và hiệu ứng tích cực trong cộng đồng.
Từ thực tế đó, một mặt huyện tăng cường cơng tác tun truyền, vận
động, đưa công tác này đi trước một bước, thấm sâu vào cộng đồng dân cư, mặt
khác huyện tranh thủ kinh nghiệm, phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản,
người cao tuổi, người có uy tín trong cộng đồng, dòng họ để cùng vận động
nhân dân bài trừ các hủ tục lạc hậu, thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ, chung tay giữ gìn bản sắc, nét đẹp văn hóa
truyền thống của dân tộc mình.
Hiện nay trên địa bàn huyện thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa
văn nghệ, thành lập các câu lạc bộ duy trì đời sống văn hóa cho người dân. Một
trong di sản văn hóa được huyện đặc biệt quan tâm là hát Xoan. Hưởng ứng các
chủ trương chính sách của tỉnh đưa ra, huyện Tân Sơn đã tích cực tham gia các
hoạt động và xây dựng các câu lạc bộ trong huyện nhằm bảo tồn và phát huy giá
trị di sản hát Xoan.
Ngoài ra vào dịp đầu năm, trên địa bàn huyện tổ chức nhiều lễ hội phát

huy truyền thống văn hóa của địa phương như lễ hội tại các đình, đền truyền
thống. Các trị chơi văn hóa dân gian cũng được tổ chức thường xuyên: thi nấu
cơm, kéo co, ném còn...
Nhận thức được tầm quan trọng của đời sống văn hóa - xã hội đối với sự
phát triển kinh tế của huyện, cũng như sự phát triển chung của cả nước, huyện
Tân Sơn luôn cố gắng nỗ lực bảo tồn, lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa
trong đời sống hàng ngày giúp cho xã hội ngày càng phát triển vững mạnh.


1.3. Khái quát chung về dân tộc Dao
1.3.1. Dân tộc Dao trên cả nước
Người Dao có mặt ở nhiều tỉnh thành trong cả nước. Riêng ở miền núi
và trung du Bắc Bộ hầu như tỉnh nào cũng có người Dao. Họ cư trú xen lẫn
với các dân tộc anh em ở những mức độ khác nhau cả trong phạm vi xã lẫn
thôn bản. Mặt khác đây cũng là dân tộc có nhiều nhóm địa phương với các đặc
trưng văn hóa mang phong cách khác nhau mặc dù họ đều ý thức về nguồn
gốc chung. Các nhóm Dao có tên gọi rất phức tạp, thậm chí cùng một nhóm
nhưng ở các địa phương khác nhau, họ cũng có các danh xưng riêng. Các nhà
dân tộc học Việt Nam hiện nay chia người Dao thành hai phương ngữ với
nhiều nhóm khác nhau. Ở phương ngữ thứ nhất từ người gọi là miền (Kiềm
Miền và Dìu Miền) cịn phương ngữ thứ 2 từ người được phát âm là mùn hay
mần. Thuộc phương ngữ thứ nhất có hai nhóm lớn: Đại Bản và Tiểu Bản.
Nhóm Đại Bản gồm nhiều nhóm nhỏ như Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao
Thanh Phán; nhóm Tiểu Bản chỉ có Dao Tiền hay còn gọi là Dao Đeo Tiền.
Thuộc phương ngữ thứ 2 cũng có hai nhóm lớn là Dao Quần Trắng (Dao họ)
và Dao Làn Tuyển gồm hai nhóm nhỏ hơn là Dao Thanh Y và Dao Áo Dài.Để
giải thích về nguồn gốc lịch sử của mình người Dao Việt Nam thường kể lại
câu chuyện Quả bầu tiên hay truyền thuyết về Bàn Hồ.
Quả bầu tiên là chuyện truyền khẩu kể rằng: “xưa kia loài người gặp cơn
đại hồng thủy, nhân loại chết hết chỉ còn lại hai chị em ruột nhà nọ sống sót.

Cuối cùng hai người lấy nhau và đẻ ra một bọc thịt. Họ bèn bổ bọc thịt đó đem
rải khắp trần gian. Những mảnh thịt đó rơi lên núi hóa thành người Dao cịn
những mảnh rơi ở nơi đồng ruộng sinh ra các dân tộc khác” [20].
Truyền thuyết về Bàn Hồ là truyện được ghi chép trong các cuốn sách
của người Dao: “Bàn Hồ là con Long khuyển từ trên trời giáng xuống và được
Bình hồng ni trong cung vì có cơng giúp cho Bình hồng đánh thắng giặc
Thổ Phồn, Bàn Hồ lấy được cơng chúa hai người đem nhau lên núi Cối Kê
(Triết Giang- Trung Quốc) ở và sinh được 12 người con(6 trai, 6 gái). Bình
Hồng ban sắc cho con cháu Bàn Vương thành 12 họ: Bàn, Lan, Mãn, Đặng,


Trần, Lương, Tống, Phượng, Đối, Lưu và Triệu. Những dòng họ đó vẫn cịn
tồn tại và phổ biến ở người Dao hiện nay”[20].
Tên Dao được ghi trong Bình Hồng Khốn Điệp gọi là Quá sơn bảng
văn. Đó là văn bản mà nhiều nhóm Dao cịn được lưu giữ được trong đó có ghi
con cháu của 12 họ Dao Vương được chuẩn y theo tờ khốn này mà đi thơng
đồng trong thiên hạ. Tên Dao còn được ghi trong một số sách cổ của Trung
Quốc tùy theo địa lý chí, Thuyết man, Quế hải ngũ hành chí, Lĩnh ngoại đại
đáo… Các thư tịch nêu trên chứng tỏ tên Dao đã xuất hiện từ thời cổ xưa. Ngoài
tên gọi là Dao họ còn được gọi là Mán, Trại, Dạo, Xá, Động... Tên Mán là bắt
nguồn từ chữ Man. Xưa kia, các tộc người sinh tụ ngoài địa bàn cư trú của người
Hán từ lưu vực sông Trường Giang trở xuống phương Nam đều rất gần với ngơn
ngữ H’mơng vì vậy được sắp cùng nhóm ngơn ngữ H’mơng - Dao.
Tộc người Dao ở Việt Nam theo số liệu công bố năm 2009 hiện có 751.067
người, nhân khẩu đứng vào hàng thứ 9 so với các tộc người trong nước. Họ sống
xen kẽ với người H’mông, Tày, Nùng, Thái, Kinh... dọc theo biên giới Việt Trung, Việt - Lào, một số tỉnh trung du và miền biển Bắc bộ. Người Dao sinh
sống trên cả ba vùng địa hình là núi cao, vùng giữa và vùng thấp, trong đó tập
trung ở vùng giữa. Khơng chỉ cư trú phân tán mà người Dao cịn có rất nhiều
nhóm địa phương khác nhau.
Tộc người Dao là một trong những tộc người hiện nay có nhiều nhóm địa

phương nhất, bao gồm: Dao Đỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy, Dao
Đại Bản), Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hồng, Dụ
Cùn), Dao Lơ Gang (Dao Thanh Phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Đeo Tiền,
Dao Tiểu Bản), Dao Quần Trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẽn (Dao
Tuyển, Dao áo Dài).
Dân tộc Dao vốn cư trú ở các tỉnh dọc biên giới Việt - Trung(Quảng Ninh,
Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu), Việt - Lào (Điện Biên, Sơn
La,Thanh Hóa, Nghệ An) và có tỉnh nội địa như Bắc Kạn, Thái Ngun, Tun
Quang, Phú Thọ, Hịa Bình. Ở các tỉnh này đồng bào Dao đều sinh sống ở miền
núi, từ vùng núi cao đến vùng núi thấp. Hiện nay một số lượng người Dao di cư


tự do vào các tỉnh miền Nam (Đồng Nai, Lâm Đồng, Đăk Lăk) làm ăn. Ngoài
việc cư trú phân tán dân tộc Dao cịn có nhiều tên gọi nhóm khác nhau. Một số
tên gọi do dân tộc khác gán cho, vì vậy có khi cùng nhóm Dao nhưng mỗi địa
phương có tên gọi khác nhau.
Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, quá trình chuyển cư của họ sang
Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Song thời
kỳ mà người Dao di cư vào nước ta đông nhất là thời Minh. Ngun nhân của
các cuộc di cư đó là vì hạn hán mất mùa và đói kém liên tục, một phần là vì bị
áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Họ tự nhận mình là con cháu của Bàn Hồ
(Bàn Vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và rất thiêng liêng đối với
người Dao.
Dao Quần Trắng vào Việt Nam khoảng thế kỷ XIII. Họ từ Phúc Kiến tới
Quảng Yên, ngược lên Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên rồi mới tới Tuyên
Quang; một bộ phận nhỏ xuôi về Vĩnh Phúc rồi ngược sông Hồng lên Yên Bái,
Lào Cai, bộ phận này còn gọi là Dao Họ.
Dao Quần Chẹt và Dao Tiền vốn có nguồn gốc Quảng Đơng (Trung
Quốc) di cư tới Quảng Yên rồi phân tán đến Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Giang,
Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái.

Dao Thanh Y đến Việt Nam cuối thế kỷ XVII. Họ từ Quảng Đơng vào
Móng Cái qua Lục Ngạn, tới sơng Hồng rồi ngược lên Tuyên Quang. Một bộ
phận khác lên Yên Bái, Lào Cai về sau gọi là Dao Làn Tẽn.
Dao Đỏ và Dao Tiền từ Quảng Đông và Quảng Tây đến vào khoảng
cuối thế kỷ XVIII, hiện nay sinh sống ở Cao Bằng, Lạng Sơn Thái Nguyên,
Tuyên Quang Hà Giang.
Do nhiều biến cố lịch sử đã làm cho người Dao ở Trung Quốc phân tán
thành nhiều nhóm nhỏ và rời khỏi cái nơi của mình là đất Châu Dương và Châu
Kinh tản mát đi các nơi để sinh sống, trong đó có một số nhóm đã vào Việt
Nam.Trên đường di cư, các nhóm Dao này đã tiếp thu thêm những yếu tố văn hóa
của các tộc người khác, đồng thời các yếu tố văn hóa mới cũng được nảy sinh và
hình thành những tính cách riêng, những tên họ khác nhau. Mặc dù vậy, các nhóm


vẫn luôn luôn nhận rõ mối quan hệ giữa họ với nhau là có cùng một nguồn gốc,
cùng một số phận lịch sử, đặc biệt là cịn duy trì được tiếng nói chung.
1.3.2. Dân tộc Dao ở huyện Tân Sơn
Ở Tân Sơn có hai nhóm Dao, đó là Dao Quần chẹt và Dao Đeo tiền.Họ
cư trú chủ yếu ở năm xã đó là Vinh Tiền, Thạch Kiệt, Đồng Sơn, Thu Cúc và
Xuân Sơn. Trong đó xã Vinh Tiền chiếm tỉ lệ người Dao sinh sống cao nhất
với 100% là người Dao.
Xưa kia người Dao thường sống du canh du cư tại các khu vực đồi núi,
quanh năm phát nương, làm rẫy, cuộc sống nay đây mai đó, khơng có sự ổn
định. Vì vậy, trình độ nhận thức cịn có phần hạn chế hơn so với các dân tộc
khác trong khu vực. Năm 1988 dưới sự vận động của chính quyền địa phương,
người Dao đã hạ sơn xuống định cư sống hòa nhập cùng các dân tộc khác.
Đời sống kinh tế - xã hội của Người Dao ở đây cũng không có sự khác
biệt lớn so với các dân tộc khác trên địa bàn huyện. Kinh tế chủ yếu là làm nghề
nông trồng lúa nước, chăn nuôi và trồng các loại lương thực thực phẩm phổ biến
như ngô, khoai, sắn, đỗ, các loại rau...

Trong quá trình sinh sống người Dao đã tiếp thu các giá trị văn hóa của
các dân tộc khác trong khu vực, vì vậy hiện nay trình độ nhận thức cũng như
cách sinh hoạt hàng ngày khơng có sự khác biệt lớn. Khi xã hội đang thay đổi
từng ngày, từng giờ và kinh tế thị trường đang tác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội thì những yếu tố văn hóa vật chất của người Dao cũng có những
biến đổi mạnh mẽ, đặc biệt nó chịu ảnh hưởng văn hóacủa người Kinh rất mạnh
mẽ qua cách ăn, mặc, ở, đi lại.
Sự cư trú xen kẽ giữa các dân tộc trên cùng một địa bàn cùng với việc xây
dựng thiết chế làng xã văn hóa mới cũng làm cho thiết chế bản, xóm của người
Dao thay đổi. Hiện nay những ngôi nhà truyền thống của người Dao gần như đã
khơng cịn, thay vào đó là những ngơi nhà xây, nhà đất theo kiểu người Kinh.
Như vậy, có thể thấy rằng đời sống văn hóa xã hội của người Dao ở Tân
Sơn hiện nay đã có sự phát triển, hịa nhập chung với xu thế thời đại, góp phần
vào công cuộc xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp,tiến bộ.


Tiểu kết
Văn hóa đối với mỗi quốc gia, dân tộc có vai trị vơ cùng quan trọng. Vì
vậy, trong thời kỳ đổi mới cần phải có những chính sách giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế đất nước. Bản
sắc văn hóa là nền tảng của mỗi dân tộc, đó cũng chính là nội dung quan trọng
khẳng định niềm tự hào dân tộc khi hội nhập với thế giới, hịa nhập mà khơng
hịa tan.
Là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam, Người Dao tuy có dân số không
đông nhưng các bản làng của họ trải rộng tại các miền rừng núi phía Bắc (Cao
Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang...) đến một số tỉnh
trung du như: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hịa Bình và miền biển Quảng Ninh (người
Dao Thanh Y). Ngoài ra, người Dao cịn chia ra thành nhiều nhóm khác nhau,
với những nét riêng về phong tục tập quán mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang
phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo dài, Dao

Quần Trắng.
Ở Tân Sơn - Phú Thọ chỉ có hai nhóm Dao sinh sống đó là nhóm Dao
Quần chẹt và nhóm Dao Đeo tiền. Tuy dân số khơng đơng, nhưng dân tộc Dao ở
đây trong quá trình sinh sống, họ đã duy trì, phát triển và phát huy tốt bản sắc
văn hóa dân tộc mình, góp phần làm phong phú màu sắc văn hóa của huyện Tân
Sơn nói riêng và của tỉnh Phú Thọ nói chung.


Chương 2: GIÁ TRỊ BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA NGƯỜI DAO Ở HUYỆN
TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ
2.1.Giá trị văn hóa vật chất của người Dao ở huyện Tân Sơn
2.1.1. Phương tiện sản xuất
Xưa kia do cuộc sống du canh du cư, quanh năm phát nương làm rẫy nên
công cụ lao động chính khơng thể thiếu đượccủa người Dao là rìu, dao, gậy,
chọc lỗ, nạo và hái nhắt. Điều này cũng hồn tồn giống với các nhóm Dao khác
sống trên cùng địa bàn như ở Thanh Sơn, Yên Lập. Bởi họ có cùng nguồn gốc
với nhau, cùng sống trên địa hình đồi núi, với những tập tục canh tác truyền
thống của tổ tiên truyền lại.
Ngồi ra, người Dao cịn biết trồng bông dệt vải, làm nghề rèn,nghề trạm
bạcvà nghề lấy thuốc nam.
Ngày nay, người Dao bắt đầu làm quen với công cụ sản xuất tiên tiến, tiết
kiệm sức lao động như đưa máy tuốt lúa vào sản xuất, dùng máy cày bừa thay
cho sức kéo của gia súc. Máy sát lúa, ngô, máy bơm nước... ngày càng phổ biến
trong đời sống sinh hoạt của người Dao giúp tăng năng suất lao động tiết kiệm
thời gian, sức lao động của con người.
2.1.2. Nhà ở
Người Dao có 3 loại hình nhà khác nhau: Nhà nền đất, nhà nửa sàn nửa
đất và nhà sàn. Nguyên liệu để làm nhà chủ yếu là gỗ, các loại tre nứa, cỏ gianh,
dây rừng. Những nguyên liệu này thường có sẵn ở trong rừng, các gia đình tự
khai thác. Dụng cụ để làm nhà khá đơn giản, nếu làm nhà ngỗm thì chỉ cần rìu

và dao, cịn nếu làm nhà mộng có đục lỗ thì cần thêm cưa các loại đục và bào.
Người Dao khơng có thợ làm nhà chun nghiệp vì mọi người đều làm được.
Khi có gia đình làm nhà mới thì các gia đình trong bản sẽ cử người đến giúp.
Nhà ở truyền thống của người Dao ở Tân Sơn chủ yếu là loại nhà nửa sàn
nửa đất. Loại hình nhà nửa sàn, nửa đất được hình thành do trước đây người Dao
sống bằng nương rẫy du canh du cư và thường cư trú trên nền đất dốc. Vì làm
nương rẫy du canh du cư nên nhà chỉ mang tính chất nhà tạm. Mặt khác, do điều
kiện kỹ thuật và cơng cụ cịn thơ sơ nên khơng cho phép người ta có thể làm


cơng việc đó trong một thời gian ngắn. Loại hình nhà nửa sàn nửa đất cũng phổ
biến ở các nhóm Dao khác trên cùng địa bàn. Bởi người Dao ở Phú Thọ đều
thuộc hai nhóm là Dao Quần chẹt và Dao Đeo tiền.
Trước đây, cách bố trí bên trong của ngơi nhà cũng có sự thay đổi là do họ
biết lợi dụng phần sàn để nằm ngủ không phải làm giường, nền đất để sinh hoạt
và làm bếp. Vì sống du canh du cư nên những vật dụng trong nhà cũng rất đơn
giản để mỗi lần chuyển chỗ ở họ không phải vận chuyển theo.
Nhà nửa sàn nửa đất không phải là bước phát triển của loại hình nhà đất
mà là một biến dạng của loại hình nhà nền đất để thích hợp với điều kiện sản
xuất du canh du cư và cư trú trên nền đất dốc.
Tuy nhiên, hiện nay do điều kiện kinh tế phát triển, cũng như sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước, đồng thời có sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc trên
địa bàn huyện, loại hình nhà nửa sàn nửa đất dần được thay thế bằng các loại
hình nhà của người kinh với kết cấu bê tông, cốt thép hiện đại, mẫu mã đa dạng.
2.1.3. Trang phục
* Trang phục nam giới
Trang phục nam giới của người Dao ở Tân Sơn khơng có sự khác biệt so
với các nhóm Dao khác trong tỉnh cũng như trong cả nước. Trước đây đàn ông
Dao ở Tân Sơn thường để tóc dài búi sau gáy hoặc để một chỏm tóc dài trên
đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Đàn ơng Dao ít khi để đầu trần, họ thường vấn

khăn theo kiểu “đầu rìu” bằng khăn dài làm từ vải nhuộm chàm. Ngày nay đa số
đàn ông đã để tóc ngắn và chuyển sang đội mũ lưỡi trai của Trung Quốc hoặc
mũ nồi.
Đàn ơng Dao có hai loại áo: áo ngắn và áo dài. Áo ngắn được mặc thường
xuyên, hàng ngày. áo dài chỉ được mặc trong những ngày lễ hội, chợ phiên...
Áo ngắn gồm có 4 loại khác nhau:
+ Áo năm thân giống như áo của người Kinh trước đây, kiểu này hiện nay
rất ít người mặc.
+ Áo ngắn theo kiểu áo của người Hoa ở Quảng Ninh. Áo có cổ cao, nẹp
ngực to, đính rất nhiều khuy tết bằng vải hoặc khuy đồng.


+ Áo cánh như áo của nông dân người Kinh, màu chàm hoặc nâu, hiện
nay là thông dụng nhất trong người Dao.
+ Kiểu áo cổ truyền của tộc người thì cổ thấp, xẻ trước ngực, thân bên trái
có lai thêm một cái nếp từ cổ áo xuống gần gấu. Nẹp thêu rất cơng phu, có người
cịn đính thêm nhiều mảnh bạc trịn hoặc sao tám cánh có đường kính khoảng l,5
cm, nẹp này người Dao gọi là “van kin” . Khuy áo nhỏ bằng bạc hoặc bằng
đồng. Cửa tay áo thêu bằng chỉ màu, sau lưng áo giữa hai bả vai cũng được thêu
và hình thêu này mệnh danh là “ấn của Bàn Vương”.
Quần của nam giới người Dao may bằng vải nhuộm chàm, cắt theo kiểu
chân què, cạp lá tọa, nhuộm màu chàm hoặc để trắng. Ngày nay đã có nhiều
người (nhất là thanh niên) mặc quần tây giống như người Kinh.
Đàn ơng Dao cũng có đồ trang sức, được làm bằng bạc hoặc đồng, nhơm
như: Nhẫn, vịng tay, vịng cổ. Nhìn chung, trang phục dùng trong ngày lễ hội
hay trong cưới xin của đàn ông người Dao không khác gì trang phục dùng trong
ngày thường.
* Trang phục nữ giới
Khác với trang phục nam, trang phục nữ còn giữ lại được rất nhiều yếu tố
mang tính cổ truyền dân tộc. Khơng những thế trang phục của mỗi nhóm lại có

những đặc điểm riêng làm cho trang phục phụ nữ Dao càng thêm phong phú về
chủng loại cũng như hình thức trang trí.
+ Nhóm Dao Quần Chẹt
Phụ nữ Dao Quần Chẹt cắt tóc ngắn, chải sáp ong, đội khăn dài màu
chàm.Khăn của người Dao Quần chẹt có hai loại: Loại thứ nhất, là loại khăn
khơng có hoa văn trang trí, đó là một đoạn vải dài 180 cm, bản rộng 30 cm. Loại
thứ hai, là khăn có thêu hoa văn trang trí, có màu sắc sặc sỡ được quấn bên
ngồi khăn trên. Khăn được nhuộm chàm, dài khoảng 45 cm, rộng khoảng 40
cm. Tồn bộ khăn đềuđược thêu kín các họa tiết hoa văn với chỉ nhiều màu, mép
khăn có đính các quả bơng nhiều màu sặc sỡ để trang trí. Hoa văn gồm các họa
tiết: hình răng cưa, hình cây và chim. Giữa khăn thêu hình sao tám cánh tượng
trưng cho mặt trời. Khăn được gấp làm bốn theo chiều dọc, các mép ở hai đầu


khăn được khâu chập lại để giữ nguyên nếp. Khăn sử dụng được cả hai mặt vì
mặt nào cũng có hoa văn trang trí.
Phụ nữ Dao Quần chẹt cũng mặc áo dài nhưng thêu ít hoa văn, nẹp ngực
khơng có tua và núm bông đỏ. Phần cửa tay áo không thêu mà ghép vải đỏ. Gấu
áo có thêu một ít và ghép thêm những miếng vải hình vng màu trắng, đỏ hoặc
bằng vải hoa. Sau lưng áo thêu hình cái ấn của Bàn Vương. Yếm được làm bằng
vải nhuộm chàm, trang trí nhiều hoa văn bằng chỉ màu ở phần cổ và đính thêm
hai bán cầu hoặc hai ngơi sao bằng bạc có đường kính từ 5- 6 cm.
Quần của nhóm phụ nữ này cũng làm bằng vải chàm, độ dỗng của
quần khá lớn, ống quần hẹp, bó sát vào chân và chỉ dài dưới đầu gối một
chút, gấu quần có thêu những hoa văn đơn giản. Hoa văn chính là hình lá
cây, hình cái bừa, các đường thẳng song song và các vạch chéo.
+ Nhóm Dao Tiền
Phụ nữ Dao Tiền cũng cắt tóc ngắn và chải sáp ong giống như phụ nữ
Dao Quần Chẹt. Phụ nữ Dao Tiền đội khăn màu chàm có độ dài khoảng 1,2 - l,5
m, hai đầu khăn thêu hình cái “ấn của Bàn Vương” bằng chỉ màu.

Trong khi làm lễ cưới hay ma chay, người ta cũng đội một chiếc mũ rất
đặc biệt. Khung mũ được làm bằng tóc sau đó phết sáp ong lên trên. Người ta
phủ lên khung mũ này một chiếc khăn thêu và đính xung quanh thành mũ những
mảnh bạc hình trịn và hình sao.
Áo của phụ nữ Dao Tiền cùng kiểu với áo của phụ nữ Dao Đỏ nhưng các
mẫu thêu được trang trí ít hơn, nẹp ngực áo cũng nhỏ hơn. Cổ áo phía sau gáy có
đính 7 hoặc 9 đồng tiền. Riêng áo mặc trong đám cưới hay ma chay là loại áo
kép. Áo ngoài được thêu trang trí nhiều hơn áo trong, phía hai bả vai của áo
trong thêu hình mặt trăng và mặt trời. Khuy áo của phụ nữ Dao Tiền là hai hình
bán nguyệt bằng bạc được chạm trổ rất công phu, phần trung tâm của nó là hình
sao tám cánh. Hai bán nguyệt đính ở hai thân áo, khi cài thì ngoắc vào nhau
thành hình trịn.
Khác với tất cả các nhóm Dao khác, phụ nữ Dao Tiền mặc váy nhuộm
chàm và in sáp ong màu xanh lơ. Hoa văn trang trí ở đây gồm có ba mơ típ khác


×