Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Giáo dục lịch sử địa phương ở huyện đoan hùng – tỉnh phú thọ qua hệ thống các di tích lịch sử, văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

CHU THỊ ANH

GIÁO DỤC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở HUYỆN ĐOAN HÙNG – TỈNH
PHÚ THỌ QUA HỆ THỐNG CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ, VĂN HĨA
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Đại học Sư phạm Lịch sử - GDCD

PHÚ THỌ, NĂM 2018
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN

CHU THỊ ANH

GIÁO DỤC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở HUYỆN ĐOAN HÙNG – TỈNH
PHÚ THỌ QUA HỆ THỐNG CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ, VĂN HĨA
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Đại học Sư phạm Lịch sử - GDCD

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Hùng

PHÚ THỌ, NĂM 2018
2


LỜI CẢM ƠN


Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu trường
Đại học Hùng Vương, các phòng ban trong trường và các sở Ban ngành huyện
Đoan Hùng đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa khoa học xã hội
và nhân văn đã định hướng, hướng dẫn, chỉnh sửa và tạo điều kiện giúp đỡ em
hồn thành khóa luận.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo TS. Trần
Văn Hùng, thầy ln tận tình, hướng dẫn, chỉ bảo và từng bước chỉnh sửa những
thiếu sót trong q trình làm, để bài khóa luận của em làm có giá trị và khoa học
nhất.
Lời cuối cùng em xin gửi lời biết ơn đến những người thân trong gia đình,
bạn bè đã ln động viên, khích lệ, đã giúp đỡ em trong q trình thực hiện khóa
luận.
Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và năng lực nghiên cứu có hạn, chắc
chắn đề tài khóa luận nghiên cứu khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự góp ý và bổ sung của q thầy cơ.
Phú thọ, ngày tháng năm 2018
Sinh viên

Chu Thị Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ......................................................................................... 3
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 7
6. Cấu trúc đề tài ................................................................................................ 8

NỘI DUNG ........................................................................................................ 9
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT Về HUYệN ĐOAN HÙNG VÀ VấN Đề GIÁO
DụC LịCH Sử ĐịA PHƯƠNG ........................................................................... 9
1.1. Khái quát huyện Đoan Hùng ....................................................................... 9
1.1.1. Lịch sử hình thành huyện Đoan Hùng ...................................................... 9
1.1.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên ................................................................ 10
1.1.3. Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân Đoan Hùng12
1.2. Giáo dục lịch sử địa phương ...................................................................... 21
1.2.1. Khái niệm “Lịch sử địa phương” ............................................................ 21
1.2.2. Mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc. .......................... 21
* Tiểu kết chương 1.......................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: Hệ THốNG DI TÍCH LịCH Sử, VĂN HÓA TRÊN ĐịA BÀN
HUYệN ĐOAN HÙNG, TỉNH PHÚ THọ PHụC Vụ GIÁO DụC LịCH Sử ĐịA
PHƯƠNG ........................................................................................................ 25
2.1. Khái quát hệ thống di tích.......................................................................... 25
2.1.1. Bảng thống kê hệ thống các di tích huyện Đoan Hùng............................ 25
2.1.2. Bảng xếp hạng hệ thống các di tích qua các cấp ..................................... 28


2.1.3. Phân loại di tích qua các thời kì .............................................................. 29
2.2. Giá trị lịch sử và văn hóa của hệ thống di tích lịch sử trên địa bàn huyện
Đoan Hùng ....................................................................................................... 30
2.2.1. Giá trị lịch sử của một số các di tích tiêu biểu của huyện Đoan Hùng..... 30
2.2.2. Giá trị văn hóa của một số các di tích tiêu biểu của huyện Đoan Hùng ... 42
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 50
CHƯƠNG 3: Đề XUấT CÁCH THứC THựC HIệN GIÁO DụC LịCH Sử ĐịA
PHƯƠNG THƠNG QUA Hệ THốNG DI TÍCH LịCH Sử, VĂN HÓA ở
HUYệN ĐOAN HÙNG, TỉNH PHÚ THọ........................................................ 51
3.1. Thực hiện bài dạy lịch sử địa phương trên lớp ........................................... 51
3.1.1 Quy định của Bộ về chương trình lịch sử địa phương .............................. 51

3.1.2. Vai trò, ý nghĩa của dạy học lịch sử địa phương trong dạy học ở THCS . 51
3.1.3. Một số nội dung có thể soạn về lịch sử địa phương huyện Đoan Hùng dạy
cho học sinh. .................................................................................................... 54
3.2. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa............................................................. 61
3.2.1. Tác dụng hoạt động ngoại khóa .............................................................. 61
3.2.2. Các hình thức ngoại khóa ....................................................................... 63
3.2.3. Thiết kế hoạt động ngoại khóa ................................................................ 64
* Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 76
KẾT LUẬN...................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 80
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT

Tên bảng

Trang

1

Bảng 2.1: Bảng thống kê hệ thống các di tích huyện

25

Đoan Hùng
2

Bảng 2.2: Bảng di tích xếp hạng cấp quốc gia


28

3

Bảng 2.3: Bảng di tích xếp hạng cấp tỉnh

29

4

Bảng 3.1: Bảng kế hoạch và lịch trình tham quan

68


BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nội dung

DHLS

Dạy học Lịch sử

GV

Giáo viên

HS


Học sinh

THCS

Trung học cơ sở

LSĐP

Lịch sử địa phương

TW

Trung ương

UBND

Uỷ Ban Nhân Dân

TNST

Trải nghiệm sáng tạo


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập thế giới hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa,
giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho thế hệ trẻ đang được Đảng và Nhà

nước đặc biệt quan tâm. Theo đó, Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam, khi bàn về công tác giáo dục đã chỉ rõ phải “Lựa chọn những nội
dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo dục cơng dân, giáo dục lịng u
nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và
nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai
của bản thân và tiền đồ đất nước.”[15; 109].
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của hàng nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước, một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Những phẩm
chất của con người Việt Nam dần được hình thành như tinh thần đoàn kết, lao
động cần cù, kiên nhẫn, sáng tạo và mang đậm tư tưởng nhân văn, tiến bộ trong
cộng đồng lớn Nhà - Làng - Nước - Lịch sử - Dân tộc. Ngay từ buổi đầu dựng
nước nhân dân ta đã phải đứng lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền
độc lập, ghi dấu những mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử dân tộc. Để có
những thắng lợi vẻ vang đó, biết bao con người Việt Nam thuộc các làng xã, dân
tộc khác nhau cùng “nằm gai nếm mật” góp cơng sức lập nên những chiến công
hiểm hách của đất nước Việt Nam.
Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ của lịch sử dân tộc, bất cứ một
sự kiện nào của lịch sử dân tộc đều diễn ra ở một địa phương cụ thể với thời
gian, không gian nhất định. Tùy quy mô, tính chất phản ánh mà sự kiện ảnh
hưởng đến phạm vi của từng địa phương, cả nước và thậm chí mang tầm thế
giới. Tri thức lịch sử địa phương là một bộ phận hợp thành, là một biểu hiện cụ
thể và phong phú của tri thức lịch sử dân tộc, chứng minh sự phát triển hợp quy
luật của mỗi địa phương trong sự phát triển chung của cả nước. Như vậy, khơng
có nghĩa tri thức lịch sử Việt Nam chỉ là phép cộng đơn giản tri thức lịch sử các


2

địa phương mà việc nhận thức lịch sử Việt Nam phải được hình thành trên nền
tảng hệ thống tri thức lịch sử dân tộc đa dạng đã được tổng hợp, khái quát ở mức

độ cao. Do đó, việc dạy học lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Xuất phát từ những nhận thức đó, có thể khẳng định rằng
việc sử dụng tài liệu lịch sử địa phương qua những di tích lịch sử trong dạy học
lịch sử Việt Nam là cần thiết ở nhà trường phổ thơng, có ý nghĩa lớn, nhằm giúp
học sinh có thể hiểu sâu hơn về lịch sử của địa phương, gắn liền với lịch sử dân
tộc, tạo sự chuyển biến tích cực về ý thức, thái độ học tập của học sinh trong bộ
môn Lịch sử, góp phần nâng cao giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào
dân tộc.
Đất nước mang đậm bản sắc văn hóa ấy, khơng thể khơng nhắc đến địa
danh Phú Thọ. Đây là một tỉnh thuộc vùng Đông bắc Việt Nam, nằm ở trung
tâm quốc gia văn Lang ngay từ thời đại vua Hùng dựng nước, vùng đất Phú Thọ
là địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh quốc
phịng. Phát huy truyền thống q hương đất Tổ, nhân dân tỉnh Phú Thọ ln
tích cực tham gia phong trào đấu tranh cách mạng giữ làng, giữ nước. Là địa
phương nằm trong cái nôi cách mạng của cả dân tộc Việt Nam - từng chứng kiến
biết bao thăng trầm của lịch sử, nơi hội tụ của các nền văn hóa đã từng tồn tại
trên đất nước Việt Nam. Đây cũng là nơi phản ánh những sự kiện lớn của Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Đoan Hùng không chỉ nổi tiếng bởi bưởi ngọt,
chè thơm mà còn đi vào lòng người, vào lịch sử dân tộc với những chiến cơng
oanh liệt trên dịng sơng Lơ hay chiến thắng Chân Mộng - Trạm Thản... Đoan
Hùng là địa phương có vai trị quan trọng của tỉnh Phú Thọ trên nhiều lĩnh vực.
Với vị trí đặc biệt quan trọng nằm ở ngã ba sông nên từ xa xưa, Đoan Hùng trở
thành cửa ngõ lên căn cứ địa Việt Bắc, là tấm lá chắn cho khu căn cứ địa thần
thánh trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên địa bàn
Đoan Hùng có tổng số 22 di tích lịch sử - văn hóa trên 27 xã của huyện, các di
tích được trải đều trên tất cả các xã và điều đó chứng minh rằng, Đoan Hùng là


3


một xã có một bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa. Ở chính những khu di tích
đó cịn là nơi hoạt động văn hóa tâm linh của con người và nhằm giáo dục
truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Thơng
qua đó, giúp cho con người có ý thức về tổ tiên và tạo nên động lực giúp con
người vượt qua mọi khó khăn để họ có thêm sưc mạnh tiến về phía trước.
Vì thế, sử dụng tài liệu LSĐP ở Huyện Đoan Hùng, nhằm góp phần giáo
dục thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của nước nhà, tinh thần yêu nước, lòng
biết ơn những anh hùng dân tộc, giữ gìn và phát huy những di sản văn hóa mà
ơng cha ta đã để lại. Đồng thời phù hợp với đổi mới chương trình giáo dục phổ
thơng hiện nay của Bộ Giáo Dục và đào tạo với yêu cầu thực hiện “Hoạt động
trải nghiệm sáng tạo” bắt buộc. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Giáo dục
lịch sử địa phương ở Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ qua hệ thống các di
tích lịch sử, văn hóa” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Việc giảng dạy và học tập Lịch sử địa phương đã được chú trọng từ lâu ở
nhiều nước như Liên xô và ở nước ta sau cách mạng tháng Tám 1945, Lịch sử
địa phương được đưa vào chương trình lịch sử của nhà trường phổ thông Việt
Nam sau các cuộc cải cách giáo dục (1950, 1956, 1979) đã khẳng định vị trí, ý
nghĩa của việc dạy, học Lịch sử địa phương và đạt được nhiều kết quả vè mặt nội
dung và phương pháp dạy học. Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu:
Trong cuốn "Giáo dục học tập 1" do Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt chủ
biên xuất bản năm 1987, nhà xuất bản Giáo dục. Cuốn sách đã đưa các ngun
tắc của q trình dạy học, trong đó có ngun tắc đảm bảo sự thống nhất giữa
vai trò chủ đạo của thầy và vai trị tự giác, tích cực, độc lập của trò. Nguyên tắc
này đòi hỏi phải phát huy tính tích cực, tính tự giác độc lập của học sinh trong
quá trình dạy học Đồng thời tác giả cũng đưa ra khái niệm tính tích cực tự giác
và tính độc lập nhận thức.


4


Cuốn "Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường
trung học cơ sở" do Phạm Ngọc Liên - Trịnh Đình Tùng chủ biên, xuất bản năm
1998, nhà xuất bản Giáo dục. Các tác giả đã đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học môn lịch sử ở trường
trung học cơ sở và đề ra những con đường, biện pháp hình thức, để phát huy tính
tích cực của học sinh trong học tập lịch sử.
Cuốn "Đổi mới phương pháp dạy học ở trường Cao đẳng Sư phạm" do
Trần Đức Lương chủ biên, xuất bản năm 2001, nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội. Tác giả đã đưa ra các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của người học như: nêu vấn đề, sử dụng đồ dùng trực quan,
trao đổi đàm thoại... qua đó nhằm lấy người học làm trung tâm góp phần nâng
cao chất lượng dạy - học.
Cuốn "Phương pháp dạy học Lịch Sử tập 1" do GS.TS Phạm Ngọc Liên
chủ biên, xuất bản năm 2002, nhà xuất bản Đại học Sư phạm.Tác giả đã trình
bày cụ thể về chức năng nhiệm vụ Bộ mơn lịch sử ở trường trung học phổ thơng,
các hình thức phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.Tác
giả đã xác định vấn đề kiến thức cơ bản là những kiến thức tối ưu, không thể
thiếu là những kiến thức quy định nội dung cần thiết mà học sinh phải nắm vững
mới đạt được trình độ của trình. Kiến thức cơ bản bao gồm nhiều yếu tố liên kết
chặt chẽ với nhau thành một hệ thống với sự kiện lịch sử, thời điểm không gian,
địa điểm lịch sử nhân vật lịch sử…
Cuốn “Giáo trình Lịch sử địa phương” do Nguyễn Cảnh Minh chủ biên,
xuất bản năm 2005, nhà xuất bản Đại học sư phạm. Tác giả đã nêu ra vai trò, ý
nghĩa và tầm quan trọng của dạy học lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử
dân tộc.
Trong "Giáo trình các hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở trường trung
học cơ sở" của Nguyễn Thị Côi chủ biên, xuất bản năm 2007 nhà xuất bản Đại
học Sư phạm. Cuốn sách đã đi sâu vào những kiến thức cơ bản về vấn đề bài học



5

lịch sử ở trường trung học cơ sở: quan niệm về bài học lịch sử, những yêu cầu
cơ bản đối với một bài học lịch sử, các công việc chuẩn bị tiến hành bài học lịch
sử, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập quan bài học lịch sử, các con đường
nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học cơ sở. Trong đó, tác giả đã
khẳng định việc tạo biểu tượng nằm không thể thiếu trong việc nâng cao hiệu
quả bài học lịch sử ở trường trung học cơ sở.
Cuốn "Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở
trường trung học phổ thông" do Nguyễn Thị Côi chủ biên, xuất bản năm 2008,
nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Tác giả nêu rõ: Một trong những biện pháp để
nâng cao hiệu quả bài học là việc trình bày hình ảnh, cảm xúc lịch sử cho học
sinh để tạo nên hình ảnh về sự kiện trong dạy học lịch sử. Nguồn gốc, phương
tiện tạo nên hình ảnh về sự kiện, con người quá khứ trong dạy học lịch sử là lời
nói của giáo viên và học sinh, tranh ảnh, bản đồ, các đoạn trính từ tác phẩm văn
học, nghệ thuật… Qua đó đã khẳng định vai trị quan trọng của tạo biểu tượng
về nhân vật và địa điểm xảy ra sự kiện trong dạy học lịch sử.
Cuốn "Hướng dẫn sử dụng Kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử trung
học Cơ sở" do Nguyễn Thị cô chủ biên, xuất bản năm 2009 nhà xuất bản Giáo
dục. Tác giả đã cung cấp cho chúng ta nắm được những nội dung lịch sử và
phương pháp sử dụng hệ thống kênh hình trong dạy học Lịch sử Việt Nam.
Kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử gồm: nhiều loại bản đồ, sơ đồ, hình vẽ,
tranh ảnh lịch sử... Mỗi loại có một phương pháp sử dụng riêng. Cuốn sách giáo
viên đã giúp lựa chọn các phương pháp phù hợp để tạo biểu tượng cho học sinh.
Trong đó, có chân dung các nhân vật lịch sử địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử
thuộc giai đoạn lịch sử Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XIX.
Cuốn “Lí lịch di tích Đình Cả - Chí Đám - huyện Đoan Hùng - tỉnh Vĩnh
Phú” xuất bản năm 1994. Cuốn sách đã nói lên truyền thống “uống nước nhớ
nguồn” của nhân dân xã Chí Đám, Đình Cả - Chí Đám là nơi thờ Cao Sơn có

cơng giúp Vua Hùng thứ 18 trong cuộc chiến với Thục Phán để gìn giữ đất nước


6

từ thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc. Di tích cịn là nơi có ý nghĩa và giá trị sâu sắc
trong việc tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ trẻ.
Luận án “Sử dụng di tích lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường Trung
học cơ sở” của Hoàng Thanh Hải năm 1999, đã khẳng định tính cấp thiết phải
đưa nguồn tài liệu LSDP vào giảng dạy trong nhà trường. Sử dụng tài liệu lịch
sử địa phương trong dạy học LSVN, nhấn mạnh mối quan hệ giữa địa phương
với dân tộc.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ thị trấn Đoan Hùng (1930 – 2000), Ban chấp
hành Đảng bộ thị trấn Đoan Hùng – huyện Đoan Hùng – tỉnh Phú Thọ xuất bản
năm 2002. Cuốn sách đã khẳng định vai trò của quân và dân huyện Đoan Hùng
trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập, ghi dấu những
mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Chân Mộng (1948-2000)”, Ban chấp hành
Đảng bộ xã Chân Mộng - huyện Đoan Hùng - tỉnh Phú Thọ 2002, Cuốn sách đã
đi sâu vào truyền thống đấu trang của nhân dân xã Chân mộng và thực hiện
nhiệm vụ chiến lược xã hội chủ nhĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Như vậy, những cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến ở một khía cạnh
nghiên cứu về phương pháp dạy học lịch sử để nâng cao hiệu quả tạo hứng thú
cho học sinh, nhưng chưa đầy đủ, trong quá trình giảng dạy cần phải hình thành
những biểu tượng di tích lịch sử nhằm tạo hướng thú, giúp học sinh có thể hiểu
sâu hơn về lịch sử của địa phương, góp phần nâng cao giáo dục truyền thống yêu
nước, lòng tự hào dân tộc. Do vậy việc nghiên cứu lịch sử địa phương ở Huyện
Đoan Hùng thơng qua hệ thống các di tích nhằm giáo dục truyền thống yêu nước
cho học sinh là việc cần thiết và ý nghĩa của một khóa luận lịch sử. Vì vậy, tơi
chọn đề tài “Giáo dục lịch sử địa phương ở Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú

Thọ qua hệ thống các di tích lịch sử, văn hóa” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
của mình.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu


7

3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là Thiết kế hoạt động giáo dục lịch sử địa
phương cho học sinh THCS thông qua hệ thống di tích lịch sử, văn hóa ở Huyện
Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục lịch sử địa phương qua hệ
thống di tích lịch sử, văn hóa.
Hệ thống các di tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn huyện Đoan Hùng, đánh
giá những giá trị, ý nghĩa của hệ thống di tích đó.
Đề xuất cách thức thực hiện việc giáo dục lịch sử cho học sinh THCS
thông qua hệ thống di tích lịch sử, văn hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục lịch sử địa phương ở huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ thơng
qua hệ thống di tích lịch sử, văn hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng phương pháp sau
- Phương pháp chuyên ngành: Phương pháp lịch sử và phương pháp
logic là hai phương pháp được sử dụng chủ yếu để tái hiện lại lịch sử sự hình
thành của các di tích lịch sử của huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ.
+ Phương pháp lịch sử: Được sử dụng trong đề tài thông qua việc nghiên

cứu thấy được quá trình hình thành và xây dựng của di tích lịch sử.
+ Phương pháp logic: Được sử dụng trong đề tài giúp hiểu được giá trị và
ý nghĩa của di tích.
- Phương pháp liên ngành: Sử dụng các phương pháp thống kê, phân
tích, so sánh, sưu tầm, điền dã và chọn lọc tài liệu nhằm giải quyết các mục tiêu


8

mà đề tài đặt ra trên cơ sở đó đưa ra kết luận khoa học chính xác về nội dung
nghiên cứu.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Khái quát về Huyện Đoan Hùng và vấn đề giáo dục lịch sử địa
phương
Chương 2: Hệ thống di tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn huyện Đoan Hùng,
tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Đề xuất cách thức thực hiện giáo dục lịch sử địa phương thơng
qua hệ thống di tích lịch sử, văn hóa ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.


9

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT Về HUYệN ĐOAN HÙNG
VÀ VấN Đề GIÁO DụC LịCH Sử ĐịA PHƯƠNG
1.1. Khái quát huyện Đoan Hùng
1.1.1. Lịch sử hình thành huyện Đoan Hùng
Trải qua các thời kì lịch sử, Đoan Hùng có nhiều thay đổi về địa giới hành

chính. Thời Hùng Vương dựng nước, Đoan Hùng Nằm trong nhà nước Văn
Lang. Thời kì Bắc Thuộc, Đoan Hùng thuộc các phủ quận do bọn phong kiến
thống trị phương Bắc lập ra. Đến thời Trần, Đoan Hùng là châu Tuyên Giang (lộ
Tam Giang) gồm ba huyện: Đông Lan, Tây Lan, Hồ Nham. Thời nhà Lê,
Nguyễn, Đoan Hùng gồm 5 huyện: Đông Quan, Tây Quan, Sơn Dương, Đương
Đạo, Tam Dương.
Đầu thế kỉ XIX, phủ Đoan Hùng đặt ở địa phận làng Tích Sơn, huyện
Tam Dương, trấn Sơn Tây. Năm 1808, rời về địa phận xã Quả Cảm, huyện Tây
Quan. Theo Đại Nam nhất thống trí thành phủ Đoan Hùng có chu vi: 195 trượng
(780m), cao 7 thước 2 tắc (2,88m), mặt trước và mặt phải mỗi mặt một cửa, hào
rộng 2 trượng (8m), sâu 5 thước (2m), mặt trái mặt sau dựa vào chân núi.
Đến năm 1903, khi tỉnh Hưng Hóa đổi tên thành Phú Thọ, Chính quyền
Pháp đã tổ chức lại thành các huyện nhỏ nằm trong Đoan Hùng ngày nay.
Huyện Hùng Quan có 3 tổng gồm 27 làng, tổng Nghĩa Khê gồm 7 làng, tổng
Ngọc Trúc gồm 14 làng, tổng Vân Nham gồm 6 làng. Huyện Ngọc Quan có 6
tổng, 30 làng, tổng Bằng Dỗn gồm 6 làng, tổng Ca Đình gồm 4 làng, tổng Cần
Đội gồm 6 làng, tổng Đại Thân gồm 4 làng, tổng Nghĩa Quân gồm 6 làng, tổng
Thượng Khê gồm 4 làng.
Năm 1919, hai huyện Hùng Quan và Đoan Hùng hợp nhất thành huyện
Đoan Hùng, thành châu Đoan Hùng (1940-1941), rồi thành huyện Đoan Hùng
1945. Năm 1927, phủ Đoan Hùng có 9 tổng, 57 làng: tổng Bằng Doãn gồm 6
làng, tổn Ca Đình gồm 4 làng, tổng Cần Độ gồm 7 làng, tổng Đại Nhân gồm 2


10

làng, tổng Nghĩa Khê gồm 8 làng, tổng Nghĩa Quân gồm 6 làng, tổng Ngọc
Chúc gồm 15 làng, tổng Thượng Khê gồm 4 làng, tổng Vân Nham gồm 5 làng.
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng được
thành lập mới chính thức đặt tên huyện Đoan Hùng. Năm 1956, cắt cho Tuyên

Quang 10 xã (5 xã cho huyện Sơn Dương, 5 xã cho Yên Sơn). Năm 1977 sáp
nhập với huyện Thanh Ba, Hạ Hịa có tên mới là huyện Sông Lô.
Đến tháng 12 năm 1980, tách huyện sơng Lơ thành Thanh Hịa và Đoan
Hùng, từ đó đến nay Đoan Hùng có 23 xã cũ và 4 xẫ mới cát về: Chân Mộng,
Minh Phú, Vụ Quang (Phong Châu), Minh Lương (Hạ Hịa). Như vậy, biên chế
hành chính của huyện Đoan Hùng đến nay gồm: 1 thị trấn và 27 xã.
1.1.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lí
Đoan Hùng là huyện đồi núi trung du nằm tại ngã ba ranh giới giữa tỉnh
Phú Thọ và hai tỉnh Tuyên Quang, Yên Bái, là cầu nối giữa vùng núi các tỉnh
phía Bắc với trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Huyện Đoan Hùng có ranh giới
phía Đơng Nam giáp huyện Phù Ninh, phía Nam giáp Huyện Thanh Ba, Phía
Tây Nam và phía Tây giáp huyện Hạ Hịa, đều là các huyện của Tỉnh Phú Thọ,
phía tây Bắc giáp huyện Yên Bình của Tỉnh Yên Bái, Phía Bắc và phía Đơng
giáp các huyện n Sơn và Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang.
Đoan Hùng nằm trên các trục đường giao thông thủy bộ quan trọng, nối
thủ đô Hà Nội với các tỉnh biên giới phía Bắc. Đó là quốc lộ số 2 - Hà Nội đi
Tuyên Quang, Hà Giang qua Đoan Hùng, quốc lộ 70 - Hà Nội đi Yên Bái, Lào
Cai. Hai đường sông Lô và sông Chảy qua Đoan Hùng tạo thành hai tuyến
đường thủy có thể giao lưu với Vĩnh Phúc - Hà Nội - Tuyên Quang - Yên Bái.
Đoan Hùng có nhiều tuyến đường liên huyện, liên xã. Tất cả hệ thống đường sá,
sơng ngịi của huyện tạo thành điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển sản
xuất giao lưu kinh tế và có ý nghĩa quan trọng về mặt quân sự, thuận lợi trong


11

việc đi lại, giao thương giữa các vùng giúp phát triển kinh tế, cung cấp lương
thực thực phẩm kháng chiến lâu dài.
* Điều kiện tự nhiên.

Đoan Hùng với đặc trưng của vùng chuyển tiếp từ trung du sang miền đồi
núi cao. Đồi núi sắp xếp không theo từng dãy, mà phát triển tự nhiên theo hình
bát úp, phần lớn cao trên 100m. Xen giữa các đồi núi là những thung lũng hẹp,
tồn huyện có một số núi cao đến 300m như núi Sất, núi Nghè. Diện tích tự
nhiên tồn huyện lớn hơn 30000ha, trong đó đất nơng nghiệp: 12754ha, đất lâm
nghiệp: 932ha, đất chuyên dùng: 1969ha, đất ở: 399ha, đất chưa sử dụng:
5985ha” [3; 9].
Đoan Hùng thuộc vùng trung du Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng của khí hậu
nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, chia thành 2 mùa rõ dệt: mùa mưa lượng mưa cao,
trung bình là 1644mm/năm, cường độ mạnh chiếm khoảng 90% lượng mưa cả
năm, trời nắng gắt đôi khi có những đợt lốc xốy cục bộ, mưa đá. Mùa khơ ít
mưa có gió mùa Đơng Bắc thổi vào, trời rét, nhiệt độ thấp. Đặc biệt trong tháng
11, 12 và tăng 1 độ ẩm khơng khí thấp, nắng hanh kèm theo sương muối làm
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển một số loại cây trồng.
Đoan Hùng có hai dịng sơng chảy qua là sơng Lơ và sơng Chảy. Sông chảy với
chiều dài qua huyện là 22m, bắt đầu từ vùng tiếp giáp Yên Bái là Đông Khê,
Quế Lâm theo hướng tây Bắc qua huyện Đoan Hùng. Sông Lô từ tuyên Quang
chảy vào Đoan Hùng tại Chí Đám, Hữu Đơ theo hướng bắc Nam. Dịng sơng
Lơ, sơng Chảy bao quanh như hai dải lụa uốn lượn ôm chọn đoan Hùng vào
lịng.
Với đặc điểm vị trí, địa lí và điều kiện tự nhiên như vậy, có thể thấy Đoan
Hùng là địa phương có vai trị quan trọng của tỉnh Phú Thọ trên nhiều lĩnh vực.
Với vị trí đặc biệt quan trọng nằm ở ngã ba sông nên từ xa xưa, Đoan Hùng trở
thành cửa ngõ lên căn cứ địa Việt Bắc, là tấm lá chắn cho khu căn cứ địa thần
thánh trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ý thức được


12

vai trò “yết hầu” của khu căn cứ, nhân dân các dân tộc Đoan Hùng tích cực tham

gia chiến đấu, chặn đánh mọi cuộc tấn công xâm lược và bảo vệ độc lập chủ
quyền của dân tộc.
1.1.3. Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân Đoan
Hùng
Là chủ nhân vùng đất mà các Vua Hùng đã chọn đặt làm kinh đô Văn
Lang, các thế hệ cư dân Phú Thọ đã để lại một hệ thống các di chỉ khảo cổ học
phong phú thuộc các nền văn hóa: Sơn Vi, Phùng Ngun, Gị Mun, Đơng Sơn
và cả một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể mang đậm dấu ấn cội nguồn. Từ
hệ thống di chỉ thuộc các nền văn hóa ấy, đã kết tinh thành bản sắc và truyền
thống dân tộc Việt Nam. Từ bao đời nay, nền văn hóa ấy đã được nhân dân Phú
Thọ kế thừa tiếp nối và đã trở thành nhân tố cốt lõi, tạo nên sức mạnh to lớn,
góp phần vào những cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Trải qua bao biến thiên của lich sử, nhân dân các dân tộc Phú Thọ nói
chung nhân dân Đoan Hùng nói riêng, ln nêu cao truyền thống lao động cần
cù sáng tạo, truyền thống văn hóa rực rỡ và đặc biệt là truyền thống đấu tranh
chống giặc ngoại xâm.
Từ trong cội nguồn của dân tộc với tình yêu quê hương đất nước, làng bản
không chịu khuất phục trước những áp bức bất công, ngay từ những năm đầu
công nguyên, nhân dân các thôn bản đã hưởng ứng mạnh mẽ các cuộc khởi
nghĩa chống giặc ngoại xâm. Đến thời nhà Trần, nhân dân Đoan Hùng đã tham
gia chống quân Mông - Nguyên xâm lược thế kỷ thứ XIII tại ngã ba sông Chảy
và sông Lô, trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra ở thôn Quả Cảm ( xã Thọ Sơn
ngày nay).
Đầu thế kỷ XV, nhân dân Đoan Hùng cùng nhân dân cả nước đứng lên
đấu tranh chống quân Minh xâm lược. Cũng như bọn thống trị phong kiến
phương Bắc trước đây, giặc Minh thi hành chính sách đơ hộ nước ta vơ cùng hà
khắc, chúng tăng thuế cũ gấp 2 - 3 lần, bắt dân đi lao động xây thành đắp lũy và


13


gây nhiều tội ác đối với đồng bào ta. Hành động bạo ngược của giặc Minh xâm
lược càng làm tăng lòng căm phẫn của nhân dân ta đẩy lên đỉnh cao.
Nhân dân Đoan Hùng đã hăng hái tham gia nghĩa quân và góp lương thực
cùng với lực lượng nổi dậy chiến đấu dũng cảm chống quân Minh xâm lược.
Những chiến cơng đó được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Phú Thọ, nhân dân các dân tộc Đoan Hùng
cùng nhân dân trong tỉnh tham gia cuộc khởi nghĩa do hai sĩ phu yêu nước là
Nguyễn Quang Bích (Tuần Phủ Hưng Hóa) và Nguyễn Văn Giáp (Bố chính Sơn
Tây) lãnh đạo, sau đó là cuộc khởi nghĩa do thổ hào địa phương chỉ huy liên tiếp
nổ ra. Nhân dân Đoan Hùng cùng tham gia chiến đấu chống thực dân Pháp xâm
lược suốt từ thời gian 1884 đến 1894. Vào những năm cuối thế kỷ XIX, lần lượt
các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại, Phong trào Cần Vương bị dập tắt, nhưng
nhân dân Đoan Hùng vẫn nung nấu lòng căm thù chỉ chờ khi nào thời cơ đến là
họ sẵng sàng vùng lên khởi nghĩa.
Sang đến thế kỷ XX, ở Phú Thọ nổi lên cuộc bạo động của các tổ chức
các mạng, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Đề Thám và Đội Cấn, được đông đảo
quần chúng nhân dân hưởng ứng. Tại thị xã Phú Thọ đêm ngày 7-1-1915 trận
đánh vào trại lính khố xanh do Khuất Văn Bức và Nguyễn Văn Dậu trong tổ
chức Việt Nam Quang Phục Hội chỉ huy, đều có sự tham gia đóng góp của nhân
dân Đoan Hùng. Nhưng trước thế mạnh và âm mưu thâm độc của kẻ thù các
cuộc khởi nghĩa đều lần lượt bị thất bại và bị chìm trong bể máu. Tuy nhiên
pháp càng tăng cường ra sức vơ vét đàn áp thì càng làm cho mâu thuẫn giữa
quần chúng nhân dân với thực dân Pháp ngày càng gay gắt, tinh thần đấu tranh
ngày càng sôi sục và dâng cao.
Mặc dù, các cuộc đấu tranh diễn ra lẻ tẻ và thất bại, song các cuộc đấu
tranh trên đã chứng minh tinh thần dũng cảm của quân dân huyện Đoan Hùng
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các hoạt động đấu tranh đó được
thể hiện thơng qua truyền thống yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân các



14

dân tộc Đoan Hùng trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đồng thời,
những hoạt động đấu tranh đó báo hiệu cho một phong trào các mạng to lớn sẽ
nổ ra và giành thắng lợi khi có một chính Đảng vô sản với đường lối, chủ trương
lãnh đạo đúng đắn.
Năm 1929, phong trào cách mạng ở nước ta ngày càng phát triển mạnh
mẽ, cùng lúc đó ở nước ta xuất hiện ba tổ chức cộng sản (An Nan cộng sản
Đảng, Đông Dương cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn) cùng lãnh
đạo quần chúng nhân dân kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, ba tổ chức này
lạihoạt động riêng rẽ, cơng kích tranh giành ành hưởng lẫn nhau gây bất lợi cho
cách mạng. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết cần phải đặt ra lúc này là phải hợp nhất ba
tổ chức cộng sản này thành một Đảng duy nhất. Trước tình hình đó, để đáp ứng
u cầu trên, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là một phái viên của quốc tế cộng sản
ở Đông Dương đã triệu tập hội nghị thành lập Đảng diễn ra từ ngày 6/1/1930 8/2/1930, đã hợp nhất ba tổ chức cộng sản đảng thành một Đảng duy nhất lấy
tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời đánh dấu bước ngoạt vĩ đại của giai
cấp công nhân và của cách mạng Việt Nam. Phong trào cách mạng Việt nam từ
khi có Đảng đã phát triển lên một bước theo con đường cách mạng vô sản,
phong trào phát triển mạnh mẽ rộng khắp cả nước. Xuất phát từ tinh thần yêu
quê hương, đất nước làng bản, nhân dân Đoan Hùng đã quyết tâm đứng lên đánh
đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập cho Tổ Quốc.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã đè nặng lên đầu nhân
dân Việt Nam, ảnh hưởng đến mọi tầng lớp tinh thần cách mạng của quần chúng
như đống than hồng đang cháy âm ỉ chỉ cần cần có một cơn gió thổi qua là nó sẽ
bùng cháy. Ngay từ khi Đảng ra đời đã tập hợp đượng lực lượng cách mạng to
lớn, phát động được đông đảo quần chúng nhân dân trong cả nước vùng lên
mạnh mẽ trong phong trào 1930 - 1931, mà đỉnh cao là Xơ Viết - Nghệ Tĩnh. Có
thể coi đây là phát súng đầu tiên của công nông ở Đông Dương do Đảng lãnh
đạo đánh thẳng vào bộ máy chính quyền của thực dân Pháp.



15

Ở Phú thọ, các huyện miền núi trong đó có Đoan Hùng xuất hiện một số
tổ chức quần chúng như: nơng hội đỏ, thanh niên cộng sản đồn, phụ nữ giải
phóng… và một số hoạt động như: giải truyền đơn, treo cờ búa liềm, đòi tăng
lương với khẩu hiệu “dân tộc độc lập, người cày có ruộng”…
Với vị trí địa lí thuận lợi do tiếp giáp với Yên Bái, trung tâm của tổ chức
Quốc dân Đảng, nên một số hoạt động của tổ chức này đã ảnh hưởng trực tiếp
đến Đoan Hùng. Một số đảng viên của Quốc dân Đảng như: Lý Tân, Đội Quých
(Ngọc Quan) đã liên kết với nhau, bí mật xây dựng căn cứ Đồng Rơm (Hùng
Quan) tập hợp lực lượng tuyên truyền quần chúng trong khu vực để tập luyện
quân sự, phục kích tiêu diệt địch… các hoạt động này chỉ diễn ra trong một thời
gian ngắn, đến cuối 1935 thì dần lắng xuống. Mặc dù diễn ra tronng thời gian
ngắn nhưng đã góp phần khích lệ, động viên tinh thần yêu nước, lòng căm thù
giặc của nhân dân ta tiêu biểu như ở một số xã như Tây Cốc, Vân Đồn…
Đến đầu năm 1939, nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới đang
đến gần. Tại việt Nam, thực dân Pháp và tay sai đã ra sức vơ vét bóc lột sức
người sức của của nhân dân để dốc vào cuộc chiến tranh ở chính quốc. Chúng
tuyển lính đánh thuê đi tham chiến, hàng vạn thanh niên Việt Nam bị đưa xuống
tàu sang pháp. Ở Đoan Hùng hơn 20 thanh niên khỏe mạnh bị bắt đi lính sang
Châu Âu, một số người khác bị đầy đi làm phu mỏ than Hòn Gai.
Thực hiện nhiệm vụ chung của toàn Đảng, liên kết mọi lực lượng, không
phân biệt giai cấp vào một mặt trận dân tộc thống nhất chống phản động, chống
phát xít địi quyền tự do cơm áo hịa bình. Tại Đoan Hùng đã xuất hiện một số
phong trào như phong trào “Hội học chữ Quốc ngữ” ở phố Tân Lập do các thầy
tu như Thầy giáo Thụ, thầy Tơn, phong trào địi giảm thuế thân của một số xã
như Ca Đình, n Kiện, Sóc Đăng. Tuy các hình thức đấu tranh cịn sơ khai,
đơn giải nhưng đã kích lệ được tinh thần đấu tranh chống áp bức bóc lột của

nhân dân ta.


16

Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng đề ra chủ trương
giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, chuẩn bị bạo động vũ trang giành chính
quyền,từ đó đảng chuyển từ hoạt động cơng khai về xây dựng cơ sở ở nông
thôn. Ở đoan Hùng đến năm 1942, đã thành lập được một số tổ chức: Mặt trận
phản đế, Thanh niên phản đế, Phụ nữ phản đế ở Sóc Đăng, Hùng Long. Ca
Đình, Chợ Ngà. Tháng 2 năm 1942, nhân dân Sóc Đăng dưới sự lãnh đạo của
thanh niên phản đế đã đấu tranh đòi chủ đồn điền Man Đăng trả lại cho nhân dân
20 mẫu ruộng bị hắn cướp. Trước sức mạnh của đồn biểu tình hơn 1000 người,
với những lí lẽ sắc bén buộc tên địa chủ Man Đăng phải nhượng bộ. Đây là
thắng lợi mở đầu cho phong trào cách mạng Đoan Hùng và động viên khích lệ
tinh thần đấu tranh của đơng đảo quần chúng nhân dân chống lại áp bức bóc lột
của bọn đế quốc và lũ tay sai bán nước.
Năm 1940, phát xít Nhật xâm chiếm Đơng Dương. Năm 1941 chúng
chiếm đóng tỉnh Phú Thọ. Ở Đoan Hùng có một trung đội Nhật đến đóng tại
Đồn cao gồm 40 tên do một tên quan hai chỉ huy, từ đây nhân dân ta “một cổ hai chòng” Pháp - Nhật, chúng thi nhau hà hiếp, áp bức bóc lột nhân dân làm
cho đời sống của nhân dân ta vô cùng cực khổ. Sau hội nghị trung ương Đảng
VIII, phong trào cách mạng ở Đoan Hùng ngày càng phát triển, đã có khơng ít
những cơ sở cách mạng hình thành như ở Yên Kiện, Tăng Mỹ, Ca Đình, Đại
Minh… Cán bộ cơ sở đã hướng dẫn nhân dân đấu tranh, tuyên truyền giú nhân
dân nhận rõ kẻ thù của dân tộc là đế quốc và chỉ cho họ con đường đấu tranh
giành độc lập dân tộc.
Cuối tháng 6 năm 1944, mặt trận Việt Minh Đoan Hùng được thành lập
tại làng Sóc Đăng, gồm 15 đồng chí do đồng chí Lê Văn Đóa phụ trách chung.
Từ cơ sở việt minh ở xã Sóc Đăng phong trào đã lan rộng ra các xã khác, địa bàn
ngày càng mở rộng, đi vào vận động quần chúng, khắp các xã huyện nơi nào

cũng có “ Việt Minh”. Cùng thời gian này đội tự vệ vũ trang đàu tiên ở Đoan


17

Hùng được thành lập gồm 34 người do đồng chí Vũ Dương Thanh tổ chức, huấn
luyện vũ khí như gươm, giáo, mác tự rèn luyện và súng đạn tự mua.
Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật thực hiện cuộc đảo chính hất cảng Pháp,
độc chiếm Đông Dương làm thuộc địa. Chúng vẫn giữ nguyên bộ máy bù nhìn
tay sai. Ở Đoan Hùng, phát xít Nhật kéo thêm một tiểu đội chủ lực lên đóng tại
Đồn Cao - Thọ Sơn, tăng cường lực lượng án ngữ đầu cầu Đoan Hùng. Phát xít
Nhật thi hành chính sách vơ vét thóc, gạo, ngơ, đỗ của nhân dân, chúng gia lệnh
nhổ ngơ, lúa để trịng đay, phá sơn, chè, cọ để trồng cà phê, xây dựng thêm kho
chứa vũ khí và nguyên liệu. Nhật cho sửa sang lại kho Gốc Bàng (Đông Khê),
kho ở Đĩa, kho ở đồn điền Maldan (Thọ Sơn), mỗi kho chứa hàng trăm tạ gạo,
bắt nhân dân say giã bánh đến nộp. Dưới ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật,
khiến cho mâu thuãn giữa nhân dân Đoan Hùng và phát xít Nhật trở nên sâu sắc.
nhiều nơi quần chúng nổi dậy đấu tranh, bí mật phục kích quân Nhật và Pháp
như An Khê, Hùng Vương, Tây Quan, Hùng Long.
Trước tình hình đó, Đảng rút vào hoạt động bí mật để đảm bảo an tồn. Ở
Đoan Hùng, mặc dù chưa có chi bộ Đảng xong các cán bộ việt Minh thường
xuyên liên lạc với nhau để lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Thực hiện chỉ thị “ Nhật
- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, ở Đoan Hùng Ban cán sự Đảng đã
chỉ đạo xây dựng căn cứ du kích Sóc Đăng, sau đưa lên Đồng Rơm. Cuối tháng
3 đầu tháng 4-1945, khi Đảng phát động khẩu hiệu “Kháng Nhật cứu
nước”,phong trào biểu tình phá kho thóc Nhật diễn ra mạnh mẽ ở khắp các địa
phương trong toàn tỉnh, đặc biệt là ở Đoan Hùng đã lôi quấn được hang vạn
quần chúng tham gia.
Trong thời gian này lực lượng cách mạng được củng cố, xây dựng và phát
triển rộng khắp thành lập các đoàn thể cứu quốc, lực lượng chính trị và vũ trang

trong huyên lớn mạnh. Ở Đoan Hùng vào ngày 7 rạng sáng 8-8-1945 các cở sở
Việt Minh ở Đoan Hùng phối hợp cùng với đội quân giải phóng tổ chúc vũ trang
đột nhập huyện đường Đoan Hùng, tước 6 súng của 12 tên lính ở huyện, tịch thu


18

một số sổ sách rồi rút về cơ sở. Căn cứ vào tình hình phát triển của cách mạng, ở
Đoan Hùng dưới sự lãnh đạo của huyện bộ việt Minh, ủy ban dân tộc giải phóng
đã được thành lập hầu khắp ở các xã.
Trong lúc này, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến
quan trọng. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật đầu hàng đồng minh vơ
điều kiện. Nắm bắt thời cơ đó, Trung ương Đảng họp hội nghị toàn quốc ở Tân
Trào (14 - 15/8/1945) quyết định phát động khởi nghĩa giành chính quyền. Dưới
sự lãnh đạo của trung ương Đảng trong vòng nửa tháng cuộc khởi nghĩa nổi ra
và giành thắng lợi nhanh chóng. Tại Đoan Hùng, sau khi nhận được lệnh tổng
khởi nghĩa, tối ngày 15-8 đồng chí Lê Đồng triệu tập cán bộ Việt Minh cốt cán
tại căn cứ Sóc Đăng để phổ biến kế hoạch khởi nghĩa toàn huyện. Đến ngày
17/8, Đảng phát động quần chúng chuẩn bị vũ khí giành chính quyềtn, khơng
khí sửa soạn rất khẩn chương, cán bộ Việt Minh được điều động về các xã
hướng dẫn nhân dân, mọi sự chuẩn bị đã sẵn sàng. Cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở đoan Hùng đã diễn ra nhanh chóng, khơng đổ máu và đạt kết quả cao.
Cách mạng tháng Tám thành công, đã mở đầu bước ngoặt lớn trong lịch
sử dân tộc, Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt nam dân
chủ cộng hịa - nhà nước cơng - nơng đầu tiên ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, nhà
nước non trẻ vừa mới ra đời phải đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn, trong
tình thế “Ngàn cân treo sọi tóc” đó là những hậu quả nặng nề của chế độ thực
dân phong kiến với một nền kinh tế què quạt bị tàn phá, một nền văn hóa ngu
dân, với hơn 90% dân số bị mù chữ, nạn đói hồnh hành, lũ lụt, hạn hán sảy ra
liên miên. Đây là lần đầu tiên nước ta trong cùng một lúc phải đối phó với nhiều

kẻ thù.
Để thốt khỏi tình trạng “Ngàn cân treo sợi tóc” trung ương Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân thực hiện đường lối kháng chiến kiến
quốc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Đoan Hùng
tích cực tham gia phong trào diệt giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm bảo vệ chính


×