Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Quan hệ trung – nhật về vấn đề triều tiên cuối thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 77 trang )

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Nhật Bản là một quốc đảo nằm ở khu vực Đông Bắc Á. Nửa sau thế kỉ
XIX, quốc gia này cũng đứng trước nguy cơ bị xâm chiếm như hầu hết các
nước khác ở Châu Á. Nhờ thành công của cuộc Duy tân Minh Trị, Nhật Bản
khơng những thốt khỏi số phận thuộc địa mà còn trở thành một đế quốc tư
bản chủ nghĩa.
Do sinh sau đẻ muộn, Nhật Bản không có bất kì thuộc địa nào trong khi
các vùng đất vô chủ trên thế giới đều đã bị xâm chiếm. Tự nhiên cũng không
ưu ái cho Nhật Bản những điều kiện về tài nguyên thiên nhiên để sản xuất và
phát triển đất nước. Thêm vào đó, Nhật Bản vẫn bị lệ thuộc vào các nước
phương Tây bởi các hiệp ước bất bình đẳng được kí kết từ thời Mạc
Phủ.Những khó khăn trên buộc Nhật Bản phải tiến hành xâm chiếm thuộc địa
và cũng chỉ có sở hữu được những vùng đất ngồi lãnh thổ mới có thể đưa vị
thế của Nhật lên tầm cao mới. Ngẫu nhiên, Triều Tiên và Trung Quốc với
những tương đồng về văn hóa, lịch sử, đáp ứng những khao khát của chính
phủ Thiên Hồng. Hơn nữa, khu vực này nắm giữ vị trí chiến lược đối với sự
phát triển và an ninh quốc phòng của Nhật Bản đặc biệt bán đảo Triều Tiên
(khi đó vẫn coi là chư hầu của Trung Quốc). Do vậy, chính sách đối ngoại của
Nhật Bản cuối thế kỉ XIX sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc giành quyền kiểm
soát Triều Triên làm thuộc địa, lá chắn an ninh cho đất nước. Chính bởi
nguyên nhân trên, Trung Quốc và Nhật Bản đã mâu thuẫn gay gắt với nhau về
vấn đề Triều Tiên, lên tới đỉnh điểm là cuộc chiến tranh Trung- Nhật (18941895).
Vậy quá trình hình thành mối quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều
Tiên cuối thế kỉ XIX ở trong bối cảnh lịch sử như thế nào? Mối quan hệ
Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế kỉ XIX diễn ra như thế nào? Hai
nước đã giải quyết những mâu thuẫn về quyền lợi ở Triều Tiên cũng như



2
tham vọng của mình ra sao? Mối quan hệ này có ảnh hưởng gì đối với mỗi
nước, với khu vực và quan hệ quốc tế, để lại hậu quả, hệ lụy của vấn đề này
như thế nào?
Giải quyết những vấn đề trên có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc:
vấn đề sẽ giúp cho chúng ta hiểu về chính sách bành trướng của Nhật Bản,
chính sách ngoại giao hàng đầu của đế quốc này trong những năm cuối thế kỉ
XIX; góp phần vào việc tìm hiểu lịch sử Nhật Bản đặc biệt là nỗ lực của chính
quyền Minh Trị nhằm xây dựng một đế quốc Nhật Bản có vị thế ngang với
các cường quốc châu Âu; đồng thời có cái nhìn khách quan và đúng đắn hơn
với thái độ nhu nhược, hèn kém của triều đình Mãn Thanh trước họa xâm
lược của các nước đế quốc: Đặc biệt qua mối quan hệ này, ta hiểu biết sâu sắc
hơn về tầm quan trọng chiến lược của bán đảo Triều Tiên đối với Trung Quốc
và Nhật Bảncuối thế kỉ XIX. Quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối
thế kỉ XIX trên thực tế còn là một vấn đề quan trọng của quan hệ quốc tế nói
chung bởi khu vực Đông Bắc Á những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là
miếng mồi mà nhiều nước đế quốc Âu - Mĩ cùng thèm muốn.
Nghiên cứu và giải quyết các vấn đề trên đặt ra sẽ góp phần vào việc lí
giải những biến động trong quan hệ quốc tế hiện nay ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Khóa luận hồn thành cịn là một tài liệu tham khảo hữu ích cho
độc giả muốn tìm hiểu về lịch sử Trung Quốc, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên
và lịch sử quan hệ quốc tế thời kì cận đại: đặc biệt là các sinh viên chuyên
ngành.
Chính bởi ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó, tơi chọn vấn đề: “Quan hệ
Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế kỉ XIX” làm khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế kỉ XIXđưa đến
cuộc chiến tranh Trung – Nhật (1894 -1895) là một vấn đề quan trọng của lịch
sử thế giới những năm cuối thời cận đại. Cuộc chiến cạnh tranh quyền lợi



3
giữa hai nước trong khu vực Đông Bắc Á này đã để lại hệ quả trong quan hệ
quốc tế và khu vực. Vì vậy, việc nghiên cứu Trung Quốc và Nhật Bản nói
chung và quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên đã được các nhà khoa
học trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu.
2.1. Nghiên cứu của học giả nước ngoài
Frederick Arthur McKenzie, trong cuốnThe tragedy of Korea( Bi kịch
Triều Tiên), New York, Dutton(1908).Tác phẩm được viết theo dạng truyện
kí, trình bày q trình xâm nhập và bị biến thành thuộc địa của Triều Tiên nửa
sau thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX gắn liền với sự xuất hiện của Nhật Bản. Trong
tác phẩm các chương đã đề cập đến vấn đề của đề tài là: Chương 3 Người
nước ngoài xuất hiện, Chương 4 Xung đột Trung – Nhật. Ở hai chương này
nội dung cho thấy sự xuất hiện của những người châu Âu và Mĩ lần đầu tiên
đến Triều Tiên, sự xung đột quyền lợi giữa Nhật Bản và Trung Quốc về vấn
Triều Tiên. Chương 5 Cuộc ám sát Hoàng hậu, Chương 6 Sau vụ ám sát, nội
dung chủ yếu nói về việc Hồng hậu bị ám sát với kế hoạch của Nhật Bản.
Qua sự kiện này, người Nhật cố ngăn chặn những thông tin nghi ngờ của cộng
đồng nước ngoài và đổ tội cho người Triều Tiên gây ra.Chương 9 Nhật Bản
tái xuất, cho thấy tham vọng của Nhật Bản ở Triều Tiên. Như vậy, tác phẩm
chưa đi vào nghiên cứu cụ thể về quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên
mà chỉ trình bày cụ thể về các hoạt động của người nước ngồi và q trình
hoạt động của Nhật Bản ở Triều Tiên.
Ki- baik Lee, (Lê Anh Minh dịch) (2002), Lịch sử Hàn Quốc tân biên,
NXB Tp. HCM. Tác phẩm là một cuốn thông sử về Lịch sử Triều Tiên từ thời
tiền sử đến những năm thập niên 60 của thế kỉ XX. Ở Chương 12 Sự bất ổn
trong hệ thống địa vị Lưỡng Ban và sự bùng nổ của các cuộc nổi dậy của
quần chúng, Chương 13 Sự phát triển của lực lượngkhai hóa, Chương 14
Những kích động nhân tâm và sự xâm lược của đế quốc nội dung chính trình

bày về sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Triều Tiên và sự can thiệp trực
tiếp của Nhật Bản vào nội bộ Triều Tiên, sự xâm lược của các đế quốc cuối


4
thế kỉ XIX.Như vậy, tác phẩm chưa trình bày cụ thể về mối quan hệ bang giao giữa
Trung Quốc – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên.
Nhà nghiên cứu Irie Akira, giáo sư lịch sử của đại học Harvard, đã có
cơng trình nghiên cứu chun sâu Ngoại giao Nhật Bản (Từ Minh Trị Duy
tân đến hiện). Cuốn sách đã được dịch bởi Nguyễn Đức Minh, Lê Thị Bình,
NXB Tri thức Hà Nội năm 2013.
Như tựa đề của tác phẩm, công trình tập trung nghiên cứu những chính
sách ngoại giao của Nhật Bản từ khi Minh Trị Duy tân đến hết thập niên 60
của thế kỉ XX. Cơng trình đã phân tích về đường lối ngoại giao của Nhật Bản
và những nhân tố chi phối đến chính sách này. Tác giả Irie Akira đã giải thích
nguyên nhân Nhật Bản kiên quyết và sẵn sàng đương đầu với Trung Quốc
cuối thế kỉ XIX. Theo Nguyên soái Lục quân Yamagata Aritomo để bảo vệ
chắc chắn, an toàn “tuyến chủ quyền” và đảm bảo tồn bộ “tuyến lợi ích”
“Trong quan hệ với các nước, nếu khi có kẻ gây bất lợi cho ta thì ta phải có
trách nhiệm bài trừ nó đi, khi khơng có cách nào khác thì phải dùng sức mạnh
để tỏ rõ ý chí của mình” [2; 54].
Henry Alfred Kissinger trong cuốn World Order (Trật tự thế giới) do
Phạm Thái Sơn dịch, NXB Thế giới năm 2016.
Trong tác phẩm, tác giả đã nghiên cứu về trật tự thế giới từ thời trung
cận đại cho đến thời kì hiện đại. Ở chương 5 ông viết về Sự đa dạng của châu
Á, tác phẩm đã đề cập đến văn hóa, chính trị Nhật Bản và nguyên nhân đưa
tới mâu thuẫn đỉnh điểm là cuộc chiến tranh Trung –Nhật 1894 – 1895. Ở
chương thứ 6 Hướng về một trật tự Á Châu: đối đầu hay đối tác, tác giả cũng
đề cập tới Trung Quốc và trật tự quốc tế ở châu Á.
Cuốn Lịch sử Nhật Bản của R.H.P Mason và J.G Caiger ( Nguyễn Văn

Sỹ dịch) do nhà xuất bản Lao Động ấn hành năm 2008, là cơng trình thơng sử
nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản từ cổ đại đến hiện đại. Công trình nghiên cứu
của tác giả cũng đã đề cập đến quá trình Nhật Bản tiến hành xâm chiếm Triều
Tiên, đồng thời cũng đã nêu ra rằng; “Nhật Bản sẽ dùng Triều Tiên về mặt


5
kinh tế cũng như chiến lược, đi sâu kinh tế để mở rộng bán đảo sang tận Mãn
Châu và những phần khác của Trung Quốc”[4;305]. Như vậy, đây là nhận
định chứng tỏ rằng Nhật Bản thực sự quan tâm đến bán đảo Triều Tiên trong
chính sách đối ngoại xâm lược thuộc địa của mình.
2.2. Nghiên cứu của các học giả trong nước
Cuốn Nhật Bản cận đại của Giáo sư Vĩnh Sính được xuất bản năm
1991, nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội là cuốn tổng hợp, đã trình bày những
nét căn bản những vấn đề chính về kinh tế, chính trị, văn hóa trước và trong
cơng cuộc Minh Trị Duy tân trong lịch sử Nhật Bản.
Nhóm tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên) Nghiêm Đình Vỹ, Đinh Ngọc
Bảo trong cuốn Lịch sử Nhật Bản, nhà xuất bản Văn hóa – Thơng tin, 1997.
Trong cuốn này, các tác giả đã trình bày đầy đủ về toàn diện về đất nước Nhật
Bản từ nguồn gốc đến hiện đại trên tất cả các lĩnh vực như: Vị trí địa lý, tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Là một cơng trình nghiên cứu thông sử
nên mối quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên tác giả trình
bày khái quát trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản mà chưa đi sâu vào
nghiên cứu cụ thể.
Cuốn Nhật Bản những bài học lịch sử của tác giả Nguyễn Tiến Lực
do nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, xuất bản năm 2003. Trong cuốn
này tác giả phản ánh khách quan, chân thực về đất nước và con người Nhật
Bản. Tác phẩm nói lên những chính sách thực hiện nền ngoại giao với các
nước phương Tây trong giai đoạn Minh Trị Duy tân. Vấn đề xoay quanh mối
quan hệ Trung- Nhật về vấn đề Triều Tiên tác giả không đi vào nghiên cứu.

Tác giả Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Kim trong cuốn Một số chuyên
đề lịch sử thế giớitập II của nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành
năm 2007. Trong tác phẩm có một số chuyên đềđi vào nghiên cứu về lịch sử
Nhật Bản như; Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản, động lực, tiến trình và ý nghĩa
lịch sử, của PGS.TS. Nguyễn Văn Kim. Ở chuyên đề này, tác giả chỉ đi sâu
vào nghiên cứu về cơng cuộc cải cách của chính quyền Minh Trị. Chuyên đề


6
cũng cập đến chính sách ngoại giao và chiến tranh xâm lược của Nhật Bản đối
với Đài Loan và Triều Tiên, nhưng tác giả chưa đi vào nghiên cứu cụ thể và
sâu sắc về quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên.
Cuốn Lịch sử Trung Quốc của Nguyễn Gia Phu (2009), NXB Giáo
dục Hà Nội, là một cuốn thơng sử của Trung Quốc từ thời kì cổ đại đến thời
hiện đại. Tác giả khái quát về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong tiến
trình lịch sử Trung Quốc. Do đó, quan hệ Trung Quốc với Nhật Bản vấn đề về
Triều Tiên cuối thế kỉ XIX tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu.
Nhóm tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên) Đào Tuấn Thành, Nguyễn
Huyền Sâm (2011) Lịch sử thế giới cậnđại tập II, nhà xuất bản Đại học Sư
phạm. Trong cơng trình nghiên cứu các tác giả đã nêu khái qt tồn bộ tình
hình, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội Nhật Bản trước và sau cuộc Cải cách
Duy tân Minh Trị. Các cải cách của Thiên Hoàng Minh Trị đã làm thay đổi
toàn diện tình hình nước Nhật Bản trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa – xã hội.
Vũ Dương Ninh – Nguyễn Văn Hồng, 2011, Lịch sử thế giới cận đại,
nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Cơng trình nghiên cứu của các tác giả trình
bày về cuộc cải cách Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản, khái quát rất rõ về đất
nước Nhật Bản trong quá trình cải cách, sự nhịm ngó các nước phương Tây,
đưa Nhật Bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa.
Cuốn Giáo trình lịch sử Nhật Bản (2013) của tác giả Nguyễn Nam

Trân (bút danh), tại Tokyo. Trong cuốn này, tác giả đã trình bày tồn bộ tiến
trình lịch sử Nhật Bản, cơng trình đã trình bày về ngun nhân chiến tranh
Trung – Nhật và sự can thiệp của các cường quốc. Tình hình chia cắt Trung
Quốc sau trận Nhật Thanh.
Bên cạnh đó, chúng tơi cịn tiếp cận một số khóa luận tốt nghiệp, bài
viết, luận văn hay cơng trình nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản, lịch sử Trung
Quốc về mối quan hệ của hai nước.


7
Đàm Cẩm Giang (2002), Quan hệ Nhật Bản – Trung Quốc cuối thế kỉ
XIX- đầu thế kỉ XX (Từ cải cách Minh Trị 1868 đến kết thúc chiến tranh
thế giới thứ nhất – 1918), Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Trường Đại
học sư phạm Hà Nội.
Trong khóa luận, tác giả nghiên cứu và trình bày về các giai đoạn của
chính sách ngoại giao của Nhật Bản đối với Trung Quốc từ Minh Trị Duy tân
1868 đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất 1918. Tác giả trình bày khá
đầy đủ về tình hình ngoại giao của Nhật Bản với Trung Quốc. Ở chương 2,
trình bày về quan hệ Nhật Bản – Trung Quốc từ 1868 đến kết thúc chiến tranh
Trung – Nhật (1894 – 1895) tác giả nêu rõ nguyên nhân cuộc chiến tranh, hệ
quả của chiến tranh đối với hai nước. Tuy nhiên, khóa luận chỉ trình bày về
quan hệ ngoại giao Nhật – Trung về việc tranh giành quần đảo Lưu Cầu và
Đài Loan, Chương 3, khóa luận trình bày về vấn đề phân chia vùng Đông Bắc
Trung Quốc cho các nước đế quốc và việc tranh giành quyền lợi giữa Nhật Bản và
Nga đưa đến cuộc chiến tranh Nga – Nhật về vấn đề Đông Bắc Trung Quốc.
Như vậy, vấn đề Triều Tiên trong quan hệ Nhật – Trung cuối thế kỉ
XIX, tác giả chưa đi vào chuyên sâu làm rõ về quá trình mâu thuẫn trong
quan hệ hai nước về vấn đề bán đảo Triều Tiên cũng như hành động của hai
nước can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ Triều Tiên trước và sau chiến
tranh Trung – Nhật (1894 – 1895) và các hệ lụy đối với mối quan hệ Trung –

Nhật cũng như đối với các nước trong khu vực Đông Bác Á và quan hệ quốc
tế cuối thế kỉ XIX.
Trịnh Nam Giang (2006), Chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ năm
1868 đến năm 1945, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Trường Đại học sư
phạm Hà Nội. Đây là một cơng trình nghiên cứu khá chun sâu về chính
sách đối ngoại giao của chính phủ Minh Trị từ 1868 đến 1945. Tác giả trình
bày về các chính sách xâm lược và bành trướng thuộc địa của chính phủ Nhật
Bản trong việc củng cố, xây dụng địa vị ở khu vực và trên trường quốc tế.
Trình bày chính sách đối ngoại của Nhật từ 1919 đến 1945, về khát vọng bá


8
chủ châu Á và thế giới qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai
của chính phủ Nhật Bản, đánh giá nhận xét về đặc điểm, hệ quả của chính
sách đối ngoại Nhật Bản. Tuy nhiên, khóa luận khơng đi vào tìm hiểu sâu về
quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX.
Đinh Thị Thu Hương (2007) Chính sách thống trị của Nhật Bản đối
với Triều Tiên từu 1875 đến 1945, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử,
Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Trong khóa luận, tác giả đi vào nghiên cứu
về các chính sách thống trị của Nhật Bản về các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quân sự đối với Triều từ năm 1875 đến 1945. Chính vì vậy, vấn đề Triều Tiên
trong quan hệ Trung – Nhật trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, tác giả đã không
đề cập đến.
Nguyễn Phương Mai (2016) Quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều
Tiênvà Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thể kỉ XX, Luận án tiến sĩ, Đại học sư
phạm Hà Nội, là một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ quốc tế
thời kì cận đại. Trong luận án tác giả đã trình bày và đi vào nghiên cứu quan
hệ giữa Nga và Nhật Bản về vấn đề Mãn Châu và Triều Tiên cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX, chính phủ Minh Trị lấy mục tiêu xâm chiếm Triều Tiên trong
chính sách đối ngoại của mình. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu sâu về vấn

đề Mãn Châu của Trung Quốc với mối quan hệ ngoại giao với Nga.
2.3. Những vấn đề đã được nghiên cứu và vấn đề đặt ra cho khóa luận
Như vậy, qua các tài liệu và cơng trình nghiên cứu, nhìn chung, các tác
giả chỉ đi vào nghiên cứu, tìm hiểu khái quát về một khía cạnh nội dung cụ
thể. Trên thực tế, chưa tác phẩm nào phản ánh đầy đủ toàn diện về mối Quan
hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên. Từ các cơng trình nghiên cứu này
chúng tơi đã được tiếp cận về q trình hình thành và sự phát triển mối quan
hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản thời cận đại. Mặt khác, với một số cơng
trình, bài viết phong phú từ nhiều góc độ, chúng tơi đã có điều kiện để tiếp
thu, nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện.


9
Vấn đề: Quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế kỉ XIX,
vẫn còn những khoảng trống chưa đề cập đến: Bối cảnh lịch sử hình thành
nên mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX về vấn đề
Triều Tiên.
- Quá trình xung đột và giải quyết mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Nhật
Bản về vấn đề Triêu Tiên từ lúc hình thành đến khi mâu thuẫn lên đỉnh điểm
(chiến tranh Trung – Nhật 1894 – 1895).
- Những tác động của việc giải quyết mâu thuẫn đối với lịch sử Trung
Quốc, Nhật Bản và khu vực Đông Bắc Á.
- Tác động của mối quan hệ này đối với sự chuyển biến của quan hệ
quốc tế ở khu vực Đông Bắc Á trước và sau khi chiến tranh Trung – Nhật
(1894 -1895).
Tất cả các cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu quan trọng để
chúng tôi đi vào nghiên cứu, giải quyết vấn đề của khóa luận. Đặt nó trong
mối quan hệ tương quan so sánh, sự tác động của mối quan hệ này nhằm rút
ra những bài học, kinh nghiệm hữu ích cho ngoại giao và công cuộc kiến
thiết, đổi mới ở nước ta hiện nay.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của khóa luận là làm rõ quá trình hình thành, phát triển của
mối quan hệ Trung- Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế kỉ XIX, từ đó chỉ ra
tác động đối với hai nước, khu vực Đông Bắc Á cũng như quan hệ quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận là:
- Làm rõ nhân tố tác động đến sự xuất hiện mối quan hệ giữa Trung
Quốc và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX về vấn đề Triều Tiên.
- Hệ thống và tái hiện quá trình xung đột và giải quyết mâu thuẫn giữa
Trung Quốc và Nhật Bản về vấn đề Triêu Tiên từ lúc hình thành đến khi mâu
thuẫn lên đỉnh điểm (chiến tranh Trung – Nhật 1894 – 1895).


10
- Phân tích những tác động của việc giải quyết mâu thuẫn đối với lịch
sử Trung Quốc, Nhật Bản và khu vực Đông Bắc Á.
- Đưa ra nhận xét tác động của mối quan hệ này đối với sự chuyển biến
của quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Bắc Á trước và sau khi chiến tranh
Trung – Nhật (1894 -1895).
4.Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Quan hệ Trung – Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế kỉ XIX.
4.2. Phạm vị nghiên cứu
- Nội dung của mối quan hệ Trung – Nhật: Vấn đề Triều Tiên
Triều Tiên là một bán đảo, có vị trí địa lý gần kề với Trung Quốc và
Nhật Bản. Đồng thời đó cũng là tên gọi của một vương quốc hình thành từ
năm 1392 trên bán đảo này (triều đại Choson). Năm 1897, vương quốc này
đổi tên thành Đại Hàn đế quốc, tuy nhiên để thống nhất trong ngôn từ trong
khóa luận, tác giả vẫn sử dụng thuật ngữ Triều Tiên vừa mang ý nghĩa địa lý,

vừa mang ý nghĩa chính trị.
- Thời gian: Khóa luận nghiên cứu quan hệ Trung – Nhật về vấn đề
Triều Tiên cuối thế kỉ XIX, tập trung trong khoảng thời gian từ năm 1875 đến
năm 1895.
Năm 1875: Nhật Bản bắt đầu đẩy mạnh việc xâm nhập Triều Tiên
thúc đẩy việc gây ảnh hưởng lên Triều Tiên nhằm gạt sự ảnh hưởng của
chính quyền Mãn Thanh đối với Triều Tiên, hệ quả là đưa tới việc Triều
Tiên phải kí điều ước bất bình đẳng Giang Hoa (7/1876). Từ việc tranh
giành quyền lợi và ảnh hưởng của Nhật Bản và Trung Quốc tại đây quan hệ
hai nước bước vào giai đoạn căng thẳng.
Năm 1895: Chiến tranh Trung – Nhật kết thúc, hai nước đi đến kí
kết Hiệp ước Mã Quan (Simonoseki) thỏa thuận về vấn đề Triều Tiên
được giải quyết.


11
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề, chúng tôi đã sử dụng kết hợp hai phương pháp
chuyên ngành: Phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Sử dụng phương pháp này, khóa luận nhằm hệ thống và tái hiện lại quá
trình giải quyết mâu thuẫn giữa Trung Quốc – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên
từ lúc hình thành đến khi chiến tranh Trung – Nhật 1894- 1895 nổ ra. Vấn đề
này được giải quyết trong tương quan bối cảnh của từng nước Trung Quốc –
Nhật Bản, bối cảnh khu vực Đông Bắc Á và quan hệ quốc tế cuối tế kỉ
XIX.Từ đó, khóa luận nhằm đến việc giúp cho người đọc từng bước đi trong
thái độ, hành động của Trung Quốc và Nhật Bản đối với vấn đề Triều Tiên
cuối thế kỉ XIX.
Ngồi ra tác giả khóa luận còn sử dụng các phương pháp hỗ trợ khác
như phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh để giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu mà khóa luận đặt ra.

6. Cấu trúc khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung nghiên cứu của khóa luận được triển khai thành ba chương:
Chương 1. Nhân tố tác động đến sự xuất hiện quan hệ Trung - Nhật về vấn đề
Triều Tiên cuối thế kỉ XIX
Chương 2. Diễn biến quan hệ Trung - Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế
kỉ XIX
Chương 3. Nhận xét mâu thuẫn Trung - Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế
kỉ XIX


12
CHƯƠNG I
NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰXUẤT HIỆN QUAN HỆ TRUNG –
NHẬT VỀ VẤN ĐỀ TRIỀU TIÊN CUỐI THẾ KỈ XIX
1.1. Nhân tố khách quan
1.1.1. Tầm quan trọng của bán đảo Triều Tiên với Trung Quốc và Nhật Bản
Triều Tiên nói chung là tên gọi của một bán đảo, ngày nay là lãnh thổ
của hai nước Đại Hàn dân quốc và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên.
Bán đảo này bắt đầu từ lục địa Châu Á chạy dài xuống phía nam 1.100km,
được bao bọc bởi biển ở ba phía: phía Đơng – biển Nhật Bản; phía Nam –
biển Hoa Đơng và phía Tây – Hồng Hải. Khu vực này giáp với Trung Quốc
về hướng Tây Bắc và Nga về hướng Đông Bắc, với Nhật Bản ở Đông Nam
qua eo biển Triều Tiên. Eo biển Triều Tiên là nơi phân cách biển Nhật Bản và
biển Hoa Đông.
Về mặt vị trí địa lý, bán đảo Triều Tiên có ý nghĩa chiến lược quan
trọng đối với nhiều nước đặc biệt là hai quốc gia: Trung Quốc và Nhật Bản.
Đối với Trung Quốc: thời kỳ trung đại, trong lịch sử Trung Quốc đã
xây dựng nên một hệ thống triều cống và duy trì nó cho đến đầu thế kỉ XX.
Nó là biểu hiện của một trật tự bá quyền mà ở đó, Trung Quốc với sức mạnh

của mình, thiết lập quyền bá chủ với các quốc gia khác. Với quan niện “Hoa
Di khác biệt”, Trung Quốc coi mình khi đó là “trung tâm của trời đất”, Hoàng
đế của Trung Quốc là “Thiên tử”, “con trời” và coi các ước xung quanh là
những chư hầu của mình. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi khi đó Trung Quốc là
quốc gia cơ bản ổn định về chính trị, có sức mạnh về kinh tế và đủ uy tín để
xây dựng một hệ thống trật tự lấy mình làm trung tâm.
Triều Tiên từ lâu vẫn được coi là nước chư hầu của Trung Quốc từ thế
kỉ XVII, khi đó Triều Tiên bị nhà Thanh xâm lược và phải chịu lệ thuộc.Bởi
vì vị trí địa lý, cũng như tầm quan trọng của Triều Tiên, nằm ở phía Đơng
Bắc, bán đảo này giống như một cánh cửa để vào đất nước Trung Quốc rộng
lớn. Điều này làm cho triều đình Mãn Thanh vẫn khư khư tư tưởng thượng


13
quốc, phải giữ bằng được bán đảo Triều Tiên là phiên thuộc của mình. Giữ
được vùng đất này là giữ vững được cánh cửa tiến vào lục địa rộng lớn của
Trung Quốc,đồng thời cũng là lá chắn ngăn chặn sự xâm nhập của Nhật Bản
tiến vào từ phía Đơng Bắc. Vì vậy, giữ vững quyền bá chủ đối với bán đảo
Triều Tiên ln được các hồng đế Mãn Thanh đặc biệt quan tâm.
Thế nhưng, điều đó khơng thể duy trì mãi mà đã có sự thay đổi ở nửa
sau thế kỉ XIX. Trung Quốc đã từng là một trung tâm về kinh tế, chính trị và
văn hóa thời trung đại, giờ đây bước vào gia đoạn khơng ít biến động, khó
khăn và thách thức. Sự khủng hoảng của vương triều Mãn Thanh đã khiến
Trung Quốc giờđứng trước nguy cơ bị xâm lược, bị biến thành một nước nửa
thuộc địa, nửa phong kiến. Trung Quốc cũng như những nước khác, trở thành
mục tiêu xâm chiếm của các nước thực dân Âu – Mĩ. Hiệp ước Nam Kinh
(1842) là “phát súng hiệu” mở đầu của lịch sử Trung Quốc thời cận đại, cũng
là mở đầu cho quãng thời gian mà Trung Quốc phải chịu thân phận của một
kẻ bị nô dịch, đè nén và áp lực. Từ chỗ là trung tâm của trật tự khu vực và
châu lục, Trung Quốc giờ đây chỉ cịn là cái bóng của chính mình và khơng

làm chủ được cuộc chơi ngoại giao.
Vì vậy, triều đình Mãn Thanh càng phải bảo vệ các vùng đất chư hầu
của mình để lấy lại vị thế và uy quyền của mình đã có từ lâu.
Đối với Nhật Bản: cách các đảo Honshu và Kyushu của Nhật Bản
190km về phía Đơng Nam, bán đảo Triều Tiên là một trong ba con đường để
Nhật Bản tiến vào lục địa và cũng là con đường từ lục địa tiến sang Nhật Bản.
Do vậy, Nhật Bản sớm quan tâm đến Triều Tiên vì lợi ích an ninh quốc gia
của mình. Một cố vấn quân đội người Phổ cho chính quyền Thiên hồng đã
từng nói “Triều Tiên như con dao nhọn chĩa thẳng vào tái tim nước Nhật”
[15; 45]. Triều Tiên sở hữu những cảng biển thương mại quan trọng có thể
giúp cho việc làm chủ ở Thái Bình Dương như Pusan, Masampo. Đặc biệt,
bán đảo này có rất nhiều tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho cơng nghiệp mà
bất kì đế quốc nào cũng thèm khát như gỗ, quặng... Chính vì vậy, những tham


14
vọng từ nhiều thế kỉ trước của người Nhật lại trỗi dậy mạnh mẽ vào nửa sau
thế kỉ XIX.
Ngoài vị trí địa – chính trị quan trọng, bán đảo Triều Tiên cịn có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng đối với Nhật Bản cuối thế kỉ XIX, đặc biệt là trong
vấn đề lãnh thổ cư trú.Nhật Bản cần chiếm được Triều Tiên chính bởi cần một
nơi để đáp ứng nhu cầu về nơi cư trú của người dân. Vì vấn đề dân dân số
ngày càng đơng của mình, khi đó có khoảng 45 triệu dân và tỉ lệ tăng dân số
hàng năm là rất lớn, Nhật Bản coi Triều Tiên là mảnh đất thích hợp nhất để
làm thuộc địa bởi sự tương đồng về lịch sử, văn hóa của hai quốc gia cũng
như về mặt khoảng cách rất gần về địa lý [15;45].
Thế nhưng, nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho chính quyền Minh
Trị coi trọng vấn đề Triều Tiên hơn cả đó là bởi tham vọng của đế quốc Nga ở
Đông Bắc Á ngày càng rõ rệt. Không chỉ nhằm đến Mãn Châu, Nga hồng
cịn tham vọng xâm chiếm cả Triều Tiên bởi những cảng biển ở bán đảo này

chính là cầu nối giữa Vladivostk với Lữ Thuận (nếu như Nga chiếm được của
Trung Quốc). Âm mưu bành trướng của Nga ở Đơng Bắc Á đã đặt Nhật Bản
trước tình trạng quan ngại sâu sắc về an ninh quốc phòng, nhất là khi trước
đó, năm 1875, Nga đã chiếm tồn bộ đảo Sakhaline.
Mặc dù có nhiều ý kiến bất đồng trong nội bộ chính phủ nhưng về cơ
bản ý nghĩa quân sự của bán đảo Triều Tiên đối với lãnh thổ Nhật Bản được
đồng thuận cao. Nói cụ thể là để đảm bảo an ninh của Nhật Bản cần phải
tránh khơng cho Triều Tiên và vùng xung quanh nó bao gồm cả biển Nhật
Bản, eo biển Đối Mã (Tsushima), Hoàng Hải rơi vào sự chi phối của nước thứ
ba. Vào những năm đầu Minh Trị, phương châm ngoại giao của Nhật Bản
nhắm tới “độc lập của Triều Tiên”. Bản thân Nhật Bản khơng nhất thiết phải
chiếm đóng Triều Tiên nhưng phải làm sao để Triều Tiên không trở thành thuộc
địa của nước thứ ba [2; 40].
Năm 1890, nguyên soái lục quân, thủ tướng thứ ba của Nhật Bản là
Yamagata Aritomo, đã nêu quan điểm về vấn đề quân sự trong ngoại giao


15
Nhật Bản, trong văn bản có tiêu đề Con đường bảo vệ độc lập quốc gia.
Trong văn bản này, ông nêu lên “tuyến chủ quyền”, “tuyến lợi ích” của Nhật
Bản và việc bảo vệ những “tuyến” đó. Theo ơng, “tuyến chủ quyền” là nó về
lãnh thổ của Nhật Bản, việc bảo vệ tuyến này là đương nhiên nhưng muốn
làm được điều đó thì “tuyến lợi ích” tức các vùng lân cận cũng phải được bảo
vệ. Ông nhấn mạnh, chừng nào khơng bảo vệ chắc chắn “tuyến lợi ích” thì
khơng đảm bảo chắc chắn an ninh toàn vẹn của nước Nhật được. Vì thế,
“trong quan hệ với các nước, nếu như khi có kẻ gây bất lợi cho ta thì ta phải
có trách nhiệm bài trừ nó đi, khi khơng có cách nào khác thì phải dùng sức
mạnh tỏ rõ ý chí của mình” [2; 54]. Nói cách khác, bán đảo Triều Tiên (nằm
ngay trên “tuyến lợi ích”) là vấn đề quan trọng chính phủ Thiên hồng đặc
biệt quan tâm bảo vệ nhất là khi Nga ngày càng đẩy mạnh những hoạt động

xâm nhập Đông Bắc Á. Việc ngăn chặn sự thống trị của Nga đối với bán đảo
Triều Tiên là mục đích hàng đầu của ngoại giao Nhật Bản. Nhà nghiên cứu
Irie Akira cho rằng nền ngoại giao của Nhật Bản trong suốt thập niên 90
cuảthế kỉ XIX, cho đến khi Chiến tranh Nhật – Nga bùng nổ đã tập trung vào đảm
bảo “tuyến lợi ích”, tức Triều Tiên, như quan điểm của Yamagata [2; 56].
Như vậy, đứng trên phương diện chính trị, an ninh quốc phịng: Nhật
Bản cần chiếm lấy Triều Tiên để bảo vệ đất nước, ngăn chặn âm mưu tấn
cơng từ bên ngồi. Đồng thời, có được những thuộc địa, vị thế của Nhật Bản
cũng sẽ nâng cao trên trường quốc tế, giúp Nhật có thể thốt ra khỏi những lệ
thuộc vào các cường quốc Âu – Mĩ. Còn đứng trên phương diện kinh tế, Nhật
Bản là một quốc gia nghèo nàn về tài nguyên, diện tích nhỏ bé, nhu cầu mở
rộng lãnh thổ, thị trường là tất yếu, nhất là khi Nhật Bản đang chuyển mình
sang giai đoạn đế quốc tư bản chủ nghĩa. Bởi những nguyên nhân quan trọng
đó mà cuối thế kỉ XIX, Triều Tiên trở thành mục tiêu “sống cịn” trong chính
sách đối ngoại xâm lược, bành trướng thuộc địa của Nhật Bản. Việc giữ và
chiếm Triều Tiên có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả Nhật Bản.


16
Điều này có thể khẳng định rõ ràng, dù mục tiêu kinh tế hay chính trị
thì cả Trung Quốc hay Nhật Bản đều có một điểm chung là muốn chiếm giữ
bán đảo Triều Tiên làm thuộc địa. Vị trí, tầm quan trọng của Triều Tiên đối
với Trung Quốc và Nhật Bản là khác nhưng tham vọng của hai nước đối với
khu vực này là như nhau. Để đạt được tham vọng, Trung Quốc và Nhật Bản
buộc phải loại bỏ đối thủ của mình. Trong bối cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX,
khi chủ nghĩa đế quốc đang bành trướng, tranh giành xâm lược thuộc địa thì
quan hệ bang giao giữa Nhật Bản và Trung Quốc trở nên hết sức căng thẳng
và ln ở tình trạng đối đầu.
1.1.2. Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Triều Tiên
Vào cuối thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Triều Tiên đi vào con đường

phân quyền và tan rã do những mâu thuẫn nội tại bên trong và những tác động
bên ngoài. Trên danh nghĩa vẫn thuộc nước chư hầu của triều đình Mãn
Thanh. Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Triều Tiên biểu hiện trên tất
cả các mặt: hệ tư tưởng hủ bại, chính trị thối nát và một nền kinh tế - xã hội
suy sụp nghiêm trọng.
Vào những năm 70 của thế kỉ XIX, hệ tư tưởng phong kiến Triều Tiên
không cịn giữ được uy thế của mình, nó bị những hệ tư tưởng của những nhà
cải cách chống lại. Đến lúc này, sự bền vững của hệ tư tưởng thống trị hàng
nghìn năm bị lung lay. Nhà nước quân chủ phong kiến Triều Tiên khơng cịn
giữ được sự hùng mạnh, nội bộ của giai cấp thống trị để thi hành những
đường lối đối nội và đối ngoại bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Tất
cả dẫn đến tình hình chính trị cực kì bất ổn. Bên cạnh đó, từ năm 1812 đến
1862 một loạt các cuộc nổi loạn đã diễn ra đặt Triều Tiên vào sự hỗn
loạn.Trật tự chính trị xấu đi, kinh tế trì trệ, tất cả từ tình trạng xã hội hỗn loạn
dẫn đến những thay đổi trong giai cấp thống trị, cơ cấu giai cấp cứng nhắc
đang bắt đầu sụp đổ.
Năm 1864, sau khi Hoàng đế Triết Tông chết, Kojong (Cao Tông) lên
ngôi vua nhưng vì cịn nhỏ (12 tuổi) nên quyền lực thực tế nằm trong Quan


17
nhiếp chính tên là Hungson Tae Wongin (Đại Viện Quân). Người này thay
vua nắm chính quyền quản lý những việc lớn của quốc gia. Đại Viện Quân
nhận thấy rõ chế độ phong kiến đang có nguy cơ sụp đổ, ơng thực hiện một
loạt cải cách nhằm củng cố chế độ quân chủ và phục hồi vinh quang cũ của
triều đại Lý. Để thực hiện mục tiêu này, ông quyết định bổ nhiệm các quan
chức cao cấp từ “tứ sắc”, bốn phe phái chính, theo tỷ lệ bình qn, khơng mấy
quan tâm tới vấn đề gốc miền nào hay giai cấp trong xã hội nào của người
được bổ nhiệm. Do chính sách cương quyết dựa trên công trạng để bổ nhiệm,
Đại Viện Quân cố gắng phá đổ hình thức cai trị bởi một ít dịng họ quyền thế

hay gia đình thơng gia với hoàng tộc.
Sự tiếp cận cơ bản của Đại Viện Quân đối với vấn đề chính trị đã được
phản ánh trong chính sách kinh tế của ơng. Ơng đã đổi thuế quân dịch bằng
vải, cho tới nay chỉ thu trên thường dân mà thôi, thành thuế hộ đánh trên cả
người lưỡng ban lẫn dân thường. Hơn nữa, ông tổ chức lại hệ thống cho vay
thóc gạo bằng cách thiết lập một mạng lưới các kho thóc của làng do địa
phương quản lý và ơng cố gắng trong sách hóa thủ tục hành chính bằng cách
kiểm tra số thóc gạo bằng cách kiểm tra số thóc dự trữ hiện có trong các kho
và lên án tử hình hay lưu đầy những chức quan nào ăn cắp của công để vinh
thân phì gia.
Để làm tăng danh giá của hồng tộc, Đại Viện Quân bắt đầu xây lại
Cảnh Phúc Cung (từng bị đốt cháy trong vụ Nhật Bản xâm lược năm 1592 và
chưa hề được trùng tu vì thiếu ngân sách). Tuy nhiên, khơng mấy quan tâm
tới tình trạng bấp bênh của nền tài chính trong nước, Đại Viện Quân ra lệnh
tái thiết Cảnh Phúc Cung năm 1865, và hoàn tất chỉ trong hai năm sau đó. Để
đáp ứng số chi phí khổng lồ cho dự án, nhà nước đặt ra một loại thuế “thuế
phụ thu về đất”. Rồi đến một thứ mơn thuế đánh trên hàng hóa vận chuyển ra
hay vào qua các cửa thành Seoul. Đại Viện Quân cũng đã bắt ép dân phải có
những khoản đóng góp được gọi trại đi là “vật tự nguyện dâng hiến”. Tuy
nhiên, vì một số lớn lao động đã được huy động để xây dựng Cảnh Phúc


18
Cung, nên Đại Viện Quân đã làm cho họ uất hận. Cũng chính thời này
“đương bách tiền” được đúc ra tùy tiện, với mệnh giá vượt xa giá trị nội tại
của nó và điều này đã gây nên sự xáo trộn kinh tế lớn. Việc tái thiết Cảnh
Phúc Cung cũng hồn thành trên quy mơ lớn, tơ điểm thêm bằng các kiến trúc
như Cần Chính Điện, Khánh Hội Lâu và Quang Hóa Mơn.
Đại Viện Qn cũng đã cương quyết đóng cửa các trường tư. Vào thời
này, hàng trăm trường tư làm chủ những nông trang lớn và số lớn nô lệ làm

việc cho họ, và các trường này lại được đặc ân là không phải trả thuế và làm
lao dịch. Như vậy, các trường tư này đang phá hủy nền móng kinh tế của quốc
gia. Nhưng chưa hết, các trường này cịn là một vấn đề chính trị nữa, một lực
lượng nằm ngồi sự kiểm sốt của nhà nước và thi hành quyền bính tại vùng
quê. Trường hợp cực đoan là trường hợp của Hoa Dương Động Thư Viện tôn
vinh tổ sư Tống Thời Liệt thuộc phái Lão Thuận ở thế kỉ XVII, vì những quan
điểm của trường này về các vấn đề cộng đồng được đón nhận kính cẩn hơn cả
các sắc lệnh của triều đình. Do đó, bao lâu các trường cịn được tồn tại, bấy
lâu triều đình không thể tạo nên một phẩm trật hành chánh được củng cố dưới
uy quyền tối cao của nhà vua. Vào năm 1864, Đại Viện Quân ra lệnh cấm
không cho tái thiết hay xây dựng không cho phép các trường tư cũng như các
miếu thờ danh nhân địa phương. Năm sau đó, ơng cho phá hủy Vạn Đơng
Miếu, miếu thứ hai hoàng đế cuối cùng của nhà Minh (Trung Quốc), dựng lên
theo nguyện vọng lúc lâm chung của Tống Thời Liệt. Năm 1868, ơng ra lệnh
các trường tư phải đóng thuế và cuối cùng, năm 1871, ông cương quyết ra
lệnh giảm con số các trường tư đã gây nên một sự chống đối gay gắt từ phía
các nhà Nho đương thời và cuối cùng chiến dịch diệt trừ các trường tư là một
yếu tố trong một loạt những tình huống đã ép buộc Viện Đại Quân phải rời bỏ
quyền lực.
Về đối ngoại, Viện Đại Quân thi hành chính sách “bế quan” tăng cường
nghiêm ngặt ngăn cách với nước ngoài. Trong khi đó thế giới đang trở nên
nhỏ hơn, các quan hệ ngoại giao và thương mại giữa các nước phương Tây và


19
phương Đông đang được mở rộng, Viện Đại Quân theo đuổi chính sách cơ lập
để ngăn chặn Triều Tiên tiếp xúc với các quan hệ xa lạ và bị cái gọi là “những
kẻ man rợ phương Tây” làm hư hỏng. Tuy nhiên, từ năm 1832, các nước
phương Tây ngày càng quan tâm đến Triều Tiên và yêu cầu Triều Tiên mở
cửa buôn bán. Năm 1845, một thương thuyền Anh xuất hiện tại bờ biển thuộc

Trung Thanh đạo tìm cách bn bán, năm 1845, một tàu chiến của Anh tới
vùng biển Triều Tiên hơn một tháng, quan sát vùng biển đầy đảo giữa đảo Tế
Châu và bờ biển phía Nam. Năm 1846, ba tàu chiến Pháp thả neo ngoài khơi
Trung Thanh đạo, gửi một bức thư báo trước cho triều đình rồi đi. Năm 1854,
hai tàu chiến của Nga chạy dọc bờ biển Hàm Hưng, làm một số người chết và
bị thương trong số những người Triều Tiên họ gặp. Năm 1866, nhà mạo hiểm
người Đức tên là Oppert hai lần xin phép tới buôn bán và khi bị từ chối thì hai
năm sau đó chính Oppert đã vác súng lên bờ và bắn vào mộ của Nam Diên
Quân (tức là cha của Viện Đại Quân) trong huyện Đức Sơn của Trung Thanh
đạo. Cũng trong năm 1866, tàu buôn General Sherman của Mĩ đã đi lại ngạo
mạn trên sông Taedong tới Bình Nhưỡng để rồi bị đốt cháy do một số người
dân và binh lính địa phương, mọi người trên tàu đều chết [3; 382].
Trong khi triều đình đang khủng hoảng, rối ren vì những xáo trộn trong
nội bộ triều đình, thì sự xuất hiện liên tiếp của các tàu nước ngoài lại là một
mối đe dọa thêm cho Triều Tiên. Trước đó, Triều Tiên cũng đã biết rõ số
phận đã xảy ra với Trung Quốc sau những va chạm với các nước phương Tây;
chiến tranh Nha phiến (1840 - 1842), biến cố tàu Arrow năm 1856 và các vụ
khác.Triều đình Triều Tiên đã coi việc từ chối các đề nghị thương mại của
phương Tây như là một cách thức để ngăn ngừa những tai họa như vậy xảy
đến cho mình.
Đến năm 1876, bằng việc dùng vũ lực quân sự, Nhật Bản ép Triều Tiên
ký kết Điều ước Giang Hoa, biến Triều Tiên thành một nước lệ thuộc vào
Nhật Bản. Nhật Bản trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của Triều Tiên,


20
cịn phía Trung Quốc thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng bởi điều ước nên
cũng ra sức củng cố chi viện và đỡ đầu cho các phe nhóm của mình.
Như vậy, cho đến những năm 70 - 80 của thế kỉ XIX, Triều Tiên về cơ
bản là một nước có nền kinh tế - xã hội đóng cửa lạc hậu, trì trệ. Chế độ

phong kiến lâm vào khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng đã tạo điều kiện
thuận lợi để các cường quốc tư bản dễ dàng xâm nhập vào Triều Tiên.
1.1.3. Nhu cầu thị trường thuộc địa của các nước cuối thế kỉ XIX
Nửa sau thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển dần từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc và đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa ở hầu
hết các quốc gia ở khu vực Á, Phi, Mĩ Latinh. Nhu cầu lớn về vốn, nhân công,
nguyên liệu và thị trường tiêu thụ đã thúc đẩy các nước tư bản phương Tây
tranh giành và xâm chiếm thuộc địa, bằng nhiều hình thức, mức độ khác nhau.
Trong bối cảnh đó, khu vực Đơng Bắc Á nói chung và bán đảo Triều
Tiên nói riêng sớm trở thành mục tiêu nhịm ngó của các nước đế quốc
phương Tây. Đây là một khu vực địa chiến lược quan trọng, là một khu vực
giàu có về tài nguyên thiên nhiên; những cánh đồng màu mỡ, những mỏ
quặng lớn ở Trung Quốc, những khu rừng bạt ngàn ở Triều Tiên, vùng biển
giàu tiềm năng khai thác thủy hải sản. Đặc biệt Đơng Bắc Á có vị trí chiến
lược đắc biệt, cầu nối Đơng – Tây giữa Thái Bình Dương và Ân Độ Dương.
Khu vực này sở hữu những cảng biển quan trọng mà nếu sở hữu được thì sẽ
nắm được dịng chảy thương mại ở Thái Bình Dương như là cảng Masampo,
Pusan hay Lữ Thuận.
Bán đảoTriều Tiên có nguồn tài ngun giàu có về khống sản. Đó là
những tài ngun vô cùng cần thiết đối với nền kinh tế công nghiệp đang phát
triển ở các nước tư bản chủ nghĩa những năm cuối thế kỉ XIX. Các cảng biển
của Triều Tiên như Pussan, Masampo cũng có ý nghĩa quan trọng. Đối với
Nga, các cảng biển này nếu chiếm được sẽ là cầu nối quan trọng giữa
Vladivostok với Lữ Thuận (cảng biển ở bán đảo Liêu Đông mà Nga đang
khao khát chiếm được). Có được Pusan hoặc Masampo, Nga sẽ dễ dàng


21
thựchiện khát vọng bá chủ Thái Bình Dương. Nằm trong bối cảnh này, nhiều
nước đế quốc có tham vọng ở khu vực bán dảo Triều Tiên như Anh, Đức đặc biệt

là Nga.
Đối với Nga, Triều Tiên là cửa ngõ để xâm nhập phía Đơng của Nga,
ngược lại là một bàn đạp để Nga có thể mở rộng ảnh hưởng ở phía Đơng và
tiến xuống phía Nam nếu như xâm chiếm được Triều Tiên.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Trung Quốc và Nhật Bản cũng mong muốn
sở hữu bán đảo Triều Tiên.
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn giàu tài nguyên thiên nhiên và
đông dân cư, đã sớm trở thành miếng mồi thu hút các nước đế quốc Âu – Mĩ.
Chế độ phong kiến Mãn Thanh lúc này lâm vào khủng hoảng, ngày càng tỏ ra
bất lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội cũng như đối ngoại. Đặc biệt,
sau thất bại trong cuộc chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất (1840 -1842) Trung
Quốc buộc phải ký Điều ước Nam Kinh (29/08/1842). Lúc này, mặc dù đang
trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến, nhưng vẫn
khư khư tư tưởng “Thiên triều thượng quốc” đối với Triều Tiên bởi tầm quan
trọng của bán đảo này. Đặc biệt là để ngăn chặn sự xâm lược của Nhật Bản.
Cịn về phía Nhật Bản, ngay sau khi lật đổ chính quyền Mạc Phủ, chính
quyền Minh Trị lên nắm quyền đã đề một đường lối chiến lược cho riêng
mình, đó là độc lập quốc gia và phấn đấu từng bước đi lên bình đẳng với các
nước phương Tây. Con đường để đạt được mục tiêu đó khơng ngồi việc thực
hiện “Phú quốc cường binh”. Một cuộc cải cách, duy tân đất nước được thực
hiện hàng loạt trên tất cả mọi lĩnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa –
xã hội, giáo dục, quân sự, nhằm xóa bỏ quan hệ phong kiến, mở đường cho
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ở Nhật Bản.
Trải qua gần 30 năm, thành công của duy tân đã đưa Nhật Bản phát
triển mạnh mẽ, đưa đất nước Nhật Bản đi lên tư bản chủ nghĩa. Xuất phát từ
những nhu cầu chung của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản ở Nhật cũng cần
có nhu cầu về vốn, nguyên liệu, thị trường thuộc địa để phát triển nền kinh tế


22

của đất nước, khẳng định vị thế của mình ngang hàng với các đế quốc Âu Mĩ. Vì vậy, việc xâm chiếm thuộc địa của chính quyền Minh Trị được xúc
tiến, khu vực mà chính quyền Nhật Bản để ý khơng đâu xa đó chính là bán
đảo Triều Tiên.
Như vậy, bán đảo Triều Tiên giờ đây không chỉ là mục tiêu xâm chiếm
của các nước đế quốc Âu – Mĩ, nay cũng trở thành mục tiêu xâm lược của
Nhật Bản và Trung Quốc. Chính vì cùng mục tiêu trên chúng ta cóthể thấy
đây là nhân tố khách quan tác động đến sự xuất hiện của quan hệ Trung –
Nhật về vấn đề Triều Tiên cuối thế kỉ XIX.
1.2. Nhân tố chủ quan
1.2.1. Tham vọng xâm chiếm Triều Tiên của Nhật Bản
Tham vọng xâm chiếm Triều Tiên của Nhật Bản có nhiều thuận lợi
trong việc thực hiên xâm chiếm Triều Tiên bởi: về mặt vị trí địa lý, bán đảo
Triều tiên chỉ cách phía Đơng Nam của Nhật Bản qua một eo biển rộng
190km. Trong lịch sử, thế kỉ XVI, Nhật Bản đã có tham vọng xâm chiếm
Triều Tiên, từng nhiều lần đem quân xâm lược Triều Tiên (1592, 1597)
nhưng đều thất bại.
Trong quá trình kháng chiến chống Nhật Bản, nhân dân Triều Tiên
được sự giúp đỡ của quân nhà Minh (1368 - 1644). Vì vậy, từ đóTriều Tiên
chịu sự ảnh hưởng của Trung Quốc. Các vị vua của Triều Tiên đều phải nhận
sắc phong của Trung Quốc. Từ năm 1637, Triều Tiên phụ thuộc nhà Thanh
(1636 – 1911).
Sau cuộc cải cách duy tân đất nước của chính quyền Minh Trị thành
cơng, thể chế chính trị, kinh tế dần đi vào ổn định. Đặc biệt, chính sách mà
chính quyền Minh Trị quan tâm là chính sách xâm lược bành trướng thuộc địa
trong chính sách đối ngoại của mình để khẳng định vị thế của Nhật Bản. Vì
vậy, Nhật Bản nhanh chóng xác định mũi nhọn tiến cơng của mình vào Triều
Tiên sau này làm bàn đạp xâm chiếm châu Á. Đây được coi là địa bàn quan
trọng, thuận lợi cho chính sách bành trướng của Nhật Bản và đáp ứng đầy đủ



23
những nhu cầu mà nền kinh tế Nhật Bản đang địi hỏi. Đó cũng là địa bàn cịn
lại trong cuộc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc đang chịu sự cạnh
tranh khốc liệt giữa các cường quốc đế quốc Âu – Mĩ. Điều đó, làm cho châu
Á trong con mắt của tập đồn qn phiệt Nhật có một ý nghĩa chiến lược vô
cùng quan trọng. “Độc chiếm châu Á” trở thành nội dung quan trọng chính trong
chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Để phục vụ cho chính sách phản động này, chính phủ Nhật Bản và các
đảng phái tư sản, địa chủ trong nước đã đưa ra một số thuyết xâm lược mang
tư tưởng Sôvanh, hiếu chiến điên cuồng. Nổi bật là hai thuyết: “Chinh Hàn”
và “Ranh giới lợi ích”.
Năm 1873, những người chủ trương Seikanron (Chinh Hàn luận) thuyết
“Chinh Hàn”được công bố, họ được sự tán đồng của những viên chức cao cấp
như Saigo Takamori và Itagaki Taisuke. Vì lúc này, một phần nửa các quan
lại cao cấp đã tháp tùng sứ bộ Iwakura sang các nước Âu – Mĩ, viên chức cao
nhất ở lại trong nước để giữ nhà là Saigo Takamori. Ơng là người hơ hào xâm
lấn bán đảo Triều Tiên cho nên toàn thể bộ phận chính phủ đang ở trong nước
nghiêng theo ý kiến của ông. Saigo Takamoritự dựng kế hoạch trước tiên hãy
gửi một sứ bộ qua bên đó, cực lực địi chính phủ Triều Tiên phải mở cửa. Nếu
vẫn cịn bị cự tuyệt thì lúc đó mới phải dùng vũ lực. Do đó, ơng đã thúc đẩy
việc gửi cho bằng được một sứ bộ và điều này cuối cùng đã có sự đồng ý của
chính phủ. Có thuyết cho rằng Saigo Takamori còn định xin đi sứ và lúc đến
nơi sẽ chọc cho người Triều Tiên nổi nóng để nếu mình bị giết thì sẽ có cớ
làm cho chiến tranh Nhật – Triều bột phát. Sứ thần bị giết thì Nhật Bản có thể
đường đường tấn cơng mà khơng bị dư luận phê phán [21;108].
Như vậy, thuyết “Chinh Hàn” ra đời với mục đích muốn nhanh chóng
thơn tính tồn Triều Tiên và trong thế chiến lược chung nó có ý nghĩa như
một màn khởi đầu quan trọng để Nhật Bản tiến quân xâm lược Trung Quốc.
Trong con mắt của Nhật Bản, Triều Tiên có một vị trí chiến lược rất quan
trọng. Nó có vị trí địa lý nằm giữa ba nước Nga ở phía Bắc, Trung Quốc ở



24
phía Tây và Nhật Bản ở phía Nam, nếu đánh chiếm được Triều Tiên, Nhật
Bản sẽ có bàn đạp vững chắc để mở rộng xâm lược sang Trung Quốc và vùng
Đông Bắc Nga. Khi học thuyết “Chinh Hàn” sắp sắp sửa được thực hiện hóa
thì đã bị hỗn lại do sự phản đối của phái đoàn Iwakura lúc này vừa về nước
và đề nghị tập trung vào việc phát triển tiềm lực của đất nước, rút ngắn
khoảng cách với phương Tây.
Năm 1890, Nhật Bản tiến xa hơn một bước nữa, phát triển thuyết
“Chinh Hàn” thành thuyết “Ranh giới lợi ích”. Vào cuối những năm cuối 80 –
90 của thế kỉ XIX, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của phong tròa tự do dân
quyền ở châu Á, ngoại trưởng Inône Côsưchi đã tuyên bố một cách trắng trợn
rằng: “Hãy làm cho nước Nhật của chúng ta thành một đế quốc kiểu châu Âu
và hãy tạo ra một đế quốc châu Âu mới trên bộ mặt phương Đơng” [7;14]. Từ
đó, Nhật Bản chuẩn bị mọi thủ đoạn, phương pháp trong âm mưu thống trị
tồn châu Á để có thể hồn thành thuyết “Ranh giới lợi ích”. Cái gọi là
“đường ranh giới lợi ích” trước mắt nhằm chủ yếu vào Trung Quốc và
Triều Tiên.
Trong thời kì này Nhật Bản khơng ngừng lớn tiếng tuyên bố về âm
mưu bá quyền của mình. Bộ trưởng Lục quân đã khẳng định: “Để trở thành
minh chủ ở Đông Dương, chúng ta không thể không mở rộng ranh giới của
chúng ta được” [7;14]. Còn Nikentato – Đại biểu quốc hội thì khẳng định:
“Nhật Bản phải nắm quyền bá chủ phương Đông”[7;14]. Và để thực hiện
được ý định “bá chủ phương Đông” ấy, Nhật Bản muốn bắt đầu từ Triêu Tiên
và Trung Quốc. Trong tính tốn của Nhật Bản, chiếm được Triều Tiên và
Đông Bắc Trung Quốc sẽ giải quyết được các đòi hỏi cấp bách hiện tại của
quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa Nhật Bản, đó là vấn đề thị trường và
nguồn nguyên liệu. Đăc biệt, Trung Quốc là một kho nguyên liệu giàu có mà
nền cơng nghiệp Nhật Bản thèm khát. Trên cơ sở tính toán này, Nhật Bản đã

xây dựng một kế hoạch liên hoàn và chi tiết: Chiếm được Triều Tiên sẽ là cơ


25
sở để chiếm Đơng Bắc Trung Quốc, từ đó sẽ tạo ra được mạch máu giao
thông thuận lợi giữa hai địa bàn lĩnh vực kinh tế, qn sự, hành chính.
Vì vậy, từ hai tiền đề đó, Nhật Bản sẽ bành trướng thế lực của mình ra
tồn Trung Quốc, xâm lược Mông Cổ, cản trở ảnh hưởng tới sự bành trướng
của đế quốc Nga. Và khi đó Nhật Bản sẽ khống chế được một vùng biển quan
trọng mà tư bản Nhật gọi là “để bảo vệ ranh giới chủ quyền” của mình.
1.2.2. Nỗ lực bành trướng của triều đình Mãn Thanh
Cuối thế kỉ XIX, Trung Quốc ở trong tình trạng bị các nước đế quốc
phương Tây xâu xé, tranh giành thuộc địa. Tuy vậy, triều đình Mãn Thanh
vẫn nỗ lực để bành trướng và bảo vệ các nước phiên thuộc của mình.
Trong số các nước này, Việt Nam có vị trí quan trọng nhất đối với
Trung Quốc, vì đồng văn với Trung Quốc, che chở cửa phía Nam cho Trung
Quốc. Cho nên khi Pháp chiếm trọn Nam Kì, Trung Kì, rồi muốn chiếm ln
cả Bắc Kì, hạ thành Hà Nội lần thứ nhất năm 1873, lần thứ hai năm 1882,
triều đình Huế vội vàng cầu viện Mãn Thanh. Chính quyền Mãn Thanh lúc
này đang lo chống đỡ trước sự xâm lược của đế quốc. Nhưng tham vọng bành
trướng xâm lược Việt Nam và lòng sĩ diện “Thiên triều” làm cho Mãn Thanh
muốn nhân thời cơ này xông vào đất Việt Nam chia phần với Pháp. Lý Hồng
Chương đã từng lộ rõ ý đồ này với đô đốc Rơniê của Pháp.
Năm 1884, Lý Hồng Chương ký Điều ước Thiên Tân I với Pháp. Trong
điều ước này, nhà Thanh công nhận các hiệp ước của nhà Nguyễn đã ký với
Pháp và công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam. Lý Hồng Chương
thay mặt chính quyền Mãn Thanh đã mặc cả với Pháp về một số quyền lợi ở
Việt Nam để làm tiền đề mở cửa cho Pháp buôn bán ở miền Hoa Nam.
Miến Điện đã là phiên thuộc của Trung Quốc từ lâu, khi Anh chiếm
được Ấn Độ (giữa thế kỉ XIX), mối quan hệ bang giao giữa Anh và Miến

thường xảy ra mâu thuẫn bất đồng. Năm 1885, khi vua Miến Điện cơng nhận
Pháp có quyền tối huệ quốc và quyền lãnh sự tài phán, cho lập ngân hàng,
khai mỏ đặt đường sắt.Năm 1885, chiến tranh Trung – Pháp (1884 –


×