Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.41 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TÊN ĐỀ TÀI:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay

Họ và tên: HỒNG NHẬT MINH.
Khóa: 2021 – 2023.
Chun ngành: Báo in.
Giáo viên hướng dẫn: Tiến sĩ Lê Đình Năm.

Hà Nội, năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM

Trang
3

6

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội


6

1.1. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội

6

1.2. Sự lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh

7

2. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

10

2.1. Mục tiêu về chế độ chính trị

10

2.2. Mục tiêu về kinh tế

11

2.3. Mục tiêu về văn hóa

12

2.4. Mục tiêu về các quan hệ xã hội

12


3. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

13

II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG CƠNG CUỘC
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
1. Quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam hiện nay

16
16

1.1. Mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội

16

1.2. Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội

17

1.3. Các mối quan hệ lớn cần giải quyết

21

2. Quan điểm của Đảng ta về động lực xây dựng
CNXH ở Việt Nam hiện nay

22


KẾT LUẬN

28

TÀI LIỆU THAM KHẢO

29

MỞ ĐẦU
2


Chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ bản nhất trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của chủ
nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch
sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ
nam cho việc kiên trì, giữ vừng định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi
mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù
hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (12-1986) là kết quả của sự tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn
phong trào cách mạng của nước ta sau năm 1975. Trong những năm đất nước đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện Cương lĩnh,
đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát
triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cho đến ngày hôm nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đất

nước ta đã gặt hái được nhiều thành công trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước ta cũng đã và đang phải đối đầu với
hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên cả bình diện quốc tế cũng như từ các điều kiện
thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội là rất cần thiết. Vì vậy,
em đã chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH ở Việt Nam và sự
vận dụng của Đảng ta trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay” để làm đề tài nghiên cứu.
1. Lý do chọn đề tài: Việc tiếp cận, học tập, nghiên cứu hệ thống tư tưởng của
3


Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ giúp cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng của hệ thống tư
tưởng của người trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Hơn nữa chúng ta
cũng sẽ hiểu rõ hơn thế nào là chủ nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam và sự vận dụng tư tưởng của Người vào trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Với tầm quan trọng này và mong muốn được tìm
hiểu, học hỏi, chia sẻ kiến thức, trong ý nghĩa đó, việc thực hiện đề tài: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng CNXH ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng ta trong cơng
cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay” có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng đối với sự nghiệp, mục tiêu cách mạng xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Mục tiêu tổng quát của đề tài
là nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH ở Việt Nam và sự
vận dụng của Đảng ta trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay. Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, tiểu luận tập trung giải quyết các nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
Một là, Làm sáng tỏ sự hình thành và những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Hai là, làm sáng tỏ sự vận dụng của Đảng ta trong việc vận dụng tư tưởng Hồ

Chí Minh về xây dựng CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Bài tiểu luận được thực hiện
trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những quan
điểm chỉ đạo, kết luận của Đảng ta từ quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn của 35 năm
đổi mới đất nước. Bản thân tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao
gồm: phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ thống;
phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp so sánh và phương pháp xã hội học…
4. Kết cấu của Tiểu luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
4


tham khảo, nội dung của Tiểu luận gồm 2 mục lớn:
Mục I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mục II: Sự vận dụng của Đảng ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
5


VIỆT NAM
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1.1. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội (tiếng Đức: Sozialismus; tiếng Anh: Socialism) là một trong
ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế kỉ 19 bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ
nghĩa bảo thủ. Khơng có định nghĩa rõ ràng về Chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà nó bao
gồm một loạt các khuynh hướng chính trị từ các phong trào đấu tranh chính trị và các
đảng cơng nhân có tinh thần cách mạng, những người muốn lật đổ chủ nghĩa tư
bản nhanh chóng và bằng bạo lực cho tới các dòng cải cách chấp nhận Thể chế Đại

nghị và dân chủ như chủ nghĩa xã hội dân chủ,…
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, CNXH là “trào lưu tư tưởng, học thuyết
chính trị ra đời từ thế kỷ XVI, XVII. Lúc đầu mang tính chất khơng tưởng, nên gọi là
CNXH không tưởng, chủ trương xây dựng một xã hội công bằng, khơng có áp bức,
khơng có tư hữu về tư liệu sản xuất, nhưng chỉ bằng cách cải cách pháp luật đương
thời bằng cách giáo dục và các biện pháp cải lương.
Những năm 40 thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen đã tiếp thu những yếu tố lý luận
của CNXH không tưởng, xây dựng học thuyết XHCN trên quan điểm duy vật lịch sử
và lý luận về giá trị thặng dư, từ đó xác lập học thuyết về CNXH khoa học. Theo
nghĩa rộng CNXH khoa học cũng đồng nghĩa với chủ nghĩa Mác. Theo nghĩa hẹp,
CNXH khoa học chỉ là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác. Theo
Mác và Enghen, CNXH khoa học trước hết là một trào lưu tư tưởng, trên cơ sở đó xây
dựng thành chế độ xã hội.
CNXH khoa học cũng đồng nghĩa với chủ nghĩa cộng sản khoa học. Chủ nghĩa
cộng sản khoa học vạch rõ chủ nghĩa cộng sản có hai giai đoạn: Giai đoạn thấp là xã
hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa... Đó thật sự là một
xã hội lý tưởng, cao đẹp nhất trong lịch sử loài người”.
Như vậy, CNXH là một trào lưu tư tưởng mang tính hiện thực, nhằm xây dựng
6


chế độ mới, dựa trên sự công bằng, tiến bộ về mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế,
văn hố, xã hội, nhằm giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bóc lột bất cơng.
1.2. Sự lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
Từ giữa thế kỷ 19, lợi dụng sự thối nát của chế độ phong kiến, thực dân Pháp
đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược và sau ba thập kỷ, chúng đã đặt được ác thống
trị của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nước ta từ một nước xã hội phong kiến, trở
thành thuộc địa nửa phong kiến bởi đặc trưng cơ bản là sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế
quốc với giai cấp phong kiến và tư bản phản động. Sự áp bức dân tộc gắn liền với sự
áp bức giai cấp. Đó là những điều kiện lịch sử khách quan để sau đó Đảng ta có đường

lối cách mạng, trong đó gắn giải phóng dân tộc với giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Đó cũng là mục tiêu, nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam. Các phong trào
yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến khơng cịn phù hợp, khơng đáp ứng được u cầu
mới đó. Điều này giải thích vì sao suốt sáu thập kỳ trước khi Đảng ta ra đời, nhân dân ta
từ Nam ra Bắc liên tiếp đứng lên chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ của một số quan lại
triều đình Huế, sau đó là dưới ngọn cờ Cần vương đều thất bại. Đó là do tương quan lực
lượng giữa một bên là thế lực phong kiến Việt Nam đang suy tàn, với lực lượng tư sản
Pháp đã đặt được ách thống trị ở nhiều nước thuộc địa trên thế giới.
Đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa quy mô
lớn ở Việt Nam đã làm biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội truyền thống của xã hội
phong kiến. Bên cạnh giai cấp địa chủ và nông dân, đã xuất hiện giai cấp công nhân
trong các đồn điền, hầm mỏ và các cơ sở công nghiệp thành thị. Tầng lớp công,
thương và tiểu tư sản thành thị sản xuất, kinh doanh theo kiểu tư sản đang hình thành.
Đã xuất hiện những lực lượng xã hội mới, với những cuộc đấu tranh mới bằng những
phương pháp và hình thức mới. Cách mạng tư sản Pháp, cách mạng Tân Hợi Trung
Quốc, cuộc Duy tân Minh trị ở Nhật Bản, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đặc biệt là
Cách mạng XHCN Tháng Mười năm 1917 với sự ra đời của Nhà nước Xô Viết đã ảnh
hưởng mạnh đến nước ta. Một phong trào mới hình thành - phong trào dân tộc - dân
7


chủ theo khuynh hướng tư sản với những đại biểu nổi tiếng như: Phan Châu Trinh và
Phan Bội Châu. Khi xã hội Việt Nam đã xuất hiện giai cấp công nhân, khi giai cấp tư
sản đã bộc lộ tính chất phản động rõ rệt ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi cách mạng
XHCN Tháng Mười Nga đã thành công với một xã hội mới đã ra đời thì phong trào
dân tộc - dân chủ tư sản thất bại ở nước ta cũng là điều hiển nhiên. Đó là thất bại của
giai cấp tư sản Việt Nam sinh ra ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhỏ bé về kinh
tế, non kém về chính trị, cải lương về tư tưởng và chỗ dựa của nó là giai cấp tư sản
nước ngồi đã bộc lộ tính phản động, thể hiện rõ nhất trong chính sách thực dân kiểu
cũ dã man, tàn bạo mà nhân dân Việt Nam đang phải chịu đựng.

Sau 10 năm bơn ba tìm đường cứu nước (1911-1920), Nguyễn Ái Quốc nhận ra
rằng: Ở đâu nhân dân các nước thuộc địa cũng đều sống trong những tình cảnh tồi tệ
nhất về mọi mặt. Người đi đến kết luận: Nhân dân các nước thuộc địa phải được giải
phóng mới cứu được nhân loại và nhân loại mới phát triển được.
Đến nước Pháp và nước Mỹ, nơi các cuộc cách mạng tư sản được thực hiện
triệt để nhất, nơi nảy sinh những bản tuyên ngôn nổi tiếng về “nhân quyền” và “dân
quyền”, Người lại nhận ra đó là những nước bóc lột các nước thuộc địa một cách dã
man, tàn bạo nhất. Và ở ngay chính các nước Pháp, Mỹ, những người lao động, công
nhân, nông dân vẫn là những người làm thuê bị tư bản bóc lột nặng nề. Cảm tưởng
đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là
cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hồ và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần
rồi, mà nay cơng nơng Pháp hẵng cịn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt
khỏi vịng áp bức”.
Năm 1919 các năng suất thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất họp ở
Véc- Xây để chia quyền lợi. Tổng thống Mỹ Uyn-Xơn đưa chương trình 14 điểm về
quyền tự quyết các dân tộc. Tại Hội nghị này, Nguyễn Ái Quốc đưa yêu cầu 8 điểm và đã
bị bác bỏ. Người rút ra nhận xét “chủ nghĩa UynXơn chỉ là một trò bịp bợm lớn” và theo
8


Người chỉ có bản thân nỗ lực đấu tranh mới mong giải phóng được. Vào thời kỳ lịch sử
ấy, Việt Nam không thể lựa chọn con người cách mạng tư bản và cũng không thể trông
cậy vào sự giúp đỡ của giai cấp tư sản quốc tế, mà phải lựa chọn con đường khác.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi, đã tạo ra cao trào cách mạng
trên khắp thế giới. Sự ra đời của một loạt Đảng Cộng sản ở châu Âu và Quốc tế III đã
giúp cho Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin,
trước hết là “Cương lĩnh về vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười, Quốc tế III và chủ nghĩa Lênin có điểm chung là: Ủng hộ sự nghiệp giải
phóng của nhân dân các nước thuộc địa, đều coi phong trào giải phóng dân tộc của

các nước thuộc địa là bộ phận của phong trào công nhân thế giới, cách mạng dân tộc
là bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khẩu hiệu do Lênin nêu ra: “Vơ sản tồn
thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đáp ứng đúng nguyện vọng của đa số
nhân dân lao động và yêu cầu của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của
thời đại. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa cộng sản; từ giải
phóng dân tộc đến giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, Nguyễn Ái Quốc đã lựa
chọn dứt khoát con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là gắn độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là con đường của cách mạng Tháng
Mười Nga, Người viết: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể
giải phóng các dân tộc bị áp bức” và “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải
phóng được các dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp chung của
chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”. Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930
do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đến Luận cương Chính trị tháng 10-1930 nhấn
mạnh con đường phát triển của cách mạng Việt Nam “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh
đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Sự lựa chọn con đường XHCN đã rõ ràng
và dứt khoát ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Không chỉ lựa chọn con đường duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam, Hồ
9


Chí Minh cịn từng bước xác lập hệ thống quan điểm về xây dựng một xã hội mới,
xây dựng văn hóa và con người Việt Nam. Xã hội mới ở đây là xã hội xã hội chủ
nghĩa. Theo Người, CNXH khái quát, tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới; kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại mà trực tiếp
nhất là lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tế Việt Nam.
Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: Có lực
lượng sản xuất phát triển cao, gắn với tiến bộ khoa học, kỹ thuật và văn hố; có nền
tảng kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và nguyên tắc phân phối
theo lao động; có chế độ chính trị do nhân dân làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì

dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có hệ thống các quan hệ xã hội cơng bằng,
bình đẳng, dân giàu, nước mạnh, khơng cịn chế độ bóc lột, áp bức, bất cơng, khơng
cịn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nơng thơn,
v.v. Đó là xã hội mà con người được giải phóng triệt để, có điều kiện phát triển tồn
diện, có sự phát triển hài hòa giữa xã hội và tự nhiên; là cơng trình lao động sáng tạo
của quần chúng nhân dân tự xây dựng; có quan hệ hịa bình, bình đẳng, hữu nghị, hợp
tác với nhân dân các nước vì sự tiến bộ và phát triển. Những đặc trưng trên là hệ
thống các giá trị xoay quanh trục con người, lấy con người làm tâm điểm cho mọi sự
phát triển. Vì thế, CNXH là chế độ xã hội của con người, do con người, vì con người,
đạt đến trình độ dân chủ triệt để, nhân văn cao cả của loài người.
2. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1. Mục tiêu về chế độ chính trị
“Phải xây dựng được chế độ dân chủ”
Ngay từ thời cổ đại, “dân chủ” với tư cách là “quyền lực thuộc về nhân dân” đã
là khát vọng của nhân dân lao động nhưng cho đến xã hội tư bản chủ nghĩa, khát vọng
đó vẫn chỉ là khát vọng. Giai cấp chủ nô, giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp tư sản
đã thiết lập bộ máy nhà nước để duy trì sự thống trị của mình và trên thực tế đã tước
đoạt hết quyền lực của nhân dân lao động. Chính vì vậy “thực thi dân chủ”, thực thi
10


quyền lực của nhân dân thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội, làm cho chế độ xã hội
chủ nghĩa khác về căn bàn so với các chế độ trước nó.
Trong mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng
định và giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, “Nước ta
là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Khi khẳng định “dân làm chủ” và “dân là chủ”, Hồ Chí Minh đã khẳng định
quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân. Người chỉ rõ: Tất cả lợi
ích đều vì dân, tất cả quyền hạn đều của dân, công cuộc đổi mới là trách nhiệm của
dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là cơng việc của dân, các cấp chính

quyền do dân cử ra, các tổ chức đoàn thể do dân tổ chức nên. “Nhân dân có quyền bãi
miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra
khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân.
2.2. Mục tiêu về kinh tế
“Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với mục
tiêu về chính trị”
Khái quát mục tiêu về kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh
chi rõ: Đây phải là nền kinh tế phát triển cao “với công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, khoa học kỹ thuặt tiên tiến”, là “một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể”. Mục tiêu này phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về
chính trị vì “Chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển”. Để đảm
bảo cho sự gắn bó này, Người xác định: Kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc
dân và kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động nên Nhà
nước phải đảm bảo ưu tiên cho kinh tế quốc doanh phát triển và phải đặc biệt khuyến
khích, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã.
2.3. Mục tiêu về văn hoá
11


“Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng
và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại”
Hồ Chí Minh cho rằng mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là mối
quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, chế độ chính trị và kinh tế là nền tảng và
quyết định tính chất của văn hóa; cịn văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu của chính
trị và kinh tế. Người đã từng nói: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác,
khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và “Muốn tiến lên chủ
nghĩa xã hội phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao khơng nói phát triển văn hóa và
kinh tế. Tục ngữ ta có câu: “có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước”.

Về vai trị của văn hóa, Người khẳng định: Trình độ văn hóa của nhân dân
được nâng cao sẽ góp phần phát triển dân chủ, góp phần xây dựng nước ta thành một
nước hịa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Theo Người, “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa
phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”; xây dựng văn hóa dân tộc
phải chú ý đến: 1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; 2) Xây dựng luân lý:
biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên
quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4) Xây dựng chính trị: dân quyền; 5)
Xây dựng kinh tế.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới, Hồ Chí Minh cho rằng phải triệt để
tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hường nơ dịch của văn hóa đế quốc; đồng thời,
phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới
của văn hóa tiến bộ thế giới, để nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa có tính chất dân
tộc, khoa học và đại chúng.
2.4. Mục tiêu về các quan hệ xã hội
“Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh”
Chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ “dân làm chủ”,
“dân là chủ” nên theo Hồ Chí Minh, với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước, nhân
12


dân phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó
mọi người đều có quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền tự
do thân thể; có quyền tự do ngơn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền
tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào; có quyền bầu cử, ứng cử.
Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ
cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến
lợi ích cúa Nhà nước, của nhân dân.
Những tư tưởng trên biểu hiện xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét

những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi người có
điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường
riêng của mình trong sự hài hịa với đời sống chung, lợi ích chung của tập thể.
3. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để đạt được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng phải
nhận thức, vận dụng và phát huy tối ưu các động lực. Trong tư tưởng của Người, hệ
thống động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa rất phong phú, bao
hàm những động lực cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cả về vật chất và tinh
thần, nội lực và ngoại lực, v.v. ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa,
khoa học, giáo dục, v.v. Tất cả các động lực đều rất quan trọng và có mối quan hệ biện
chứng với nhau nhưng giữ vai trò quyết định là nội lực dân tộc, là nhân dân nên để
thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo lợi ích của dân, dân chủ
của dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân qua hoạt động của những cộng đồng người và
những con người Việt Nam cụ thể. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là những động
lực hàng đầu của chủ nghĩa xã hội.
Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích của cả cộng đồng người
và lợi ích của những con người cụ thể vì Người cho rằng đây là một trong những điểm
khác nhau cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội với những chế độ xã hội trước nó. Người
13


nhận thấy trong xã hội xã hội chủ nghĩa mỗi người giữ một vị trí nhất định, đóng góp
một phần cơng lao nhất định vì nhân dân lao động đã thốt khỏi bần cùng, có cơng ăn
việc làm, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mỗi người có điều kiện cải thiện đời sống
riêng của mình, phát huy tính cách và sở trường riêng cùa mình, nên ngay từ những
ngày đầu xây dựng chế độ xã hội mới, Người nhấn mạnh: “việc gì có lợi cho dân phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, “phải đặt quyền lợi của dân
lên trên hết”.
Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân,
“địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Với tư cách là những động lực thúc đẩy tiến

trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của dân và dân chủ của dân không thể
tách rời nhau.
Về sức mạnh đồn kết tồn dân, Hồ Chí Minh cho rằng đây là lực lượng mạnh
nhất trong tất cả các lực lượng và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự
giác ngộ đầy đủ của nhân dân về quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị dân
chủ của mình; với sự lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Chính vì vậy, ngay trong buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ
là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tồ quốc”. Theo Người, đoàn kết toàn dân tộc là đoàn
kết đại đa số nhân nhân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác. Đó là cái gốc của đại đồn kết. Người cịn chỉ rõ: “Ai có
tài, có đức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”;
ngay cả những người trước đây chống đối ta nhưng bây giờ họ thật thà, tán thành hịa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì chúng ta cũng thật thà đồn kết với họ. Phải lấy
cơng tác mà củng cố đồn kết. Phải lấy đồn kết mà đẩy mạnh cơng tác.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lợi ích của dân, dân chủ của dân, đồn kết tồn
dân gắn bó hữu cơ với nhau, là cơ sở, là tiền đề của nhau, tạo nên những động lực
mạnh mẽ nhất trong hệ thống những động lực của chủ nghĩa xã hội. Song, những yếu
14


tố trên chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình thơng qua hoạt động của những
cộng đồng người và những con người Việt Nam cụ thể.
Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội khác, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trị
quyết định. Theo Hồ Chí Minh, Đảng như người cầm lái, người cầm lái có vững thì
thuyền mới chạy. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là tổ chức đại diện cho ý chí
và quyền lực của nhân dân, thực hiện chúc năng quản lý xã hội để biến đường lối, chủ
trương cùa Đảng thành hiện thực. Các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách là các tổ
chức quần chúng tuy có những nội dung và phương thức hoạt động khác nhau nhưng

đều nhất quán về chính trị và tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, hoạt động vì lợi ích của các thành viên của mình trong sự thống nhất với lợi ích
của dân tộc. Với những cộng đồng này, Người cũng luôn nhắc nhờ phải không ngừng
nêu cao cảnh giác, phải chống cả kẻ địch bên ngoài tìm cách phá hoại thành quả của
cách mạng và phải chống cả kẻ địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân; chống tư tưởng
“làm quan cách mạng”.
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đấy là những
con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa . Trong
bài nói chuyện tại Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp toàn miền Bắc do
Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 21 tháng 3 năm
1961, Hồ Chí Minh giải thích rất chi tiết, cụ thể về tư tưởng, tác phong xã hội chủ
nghĩa; cuối cùng Người khái quát: Những tư tưởng và tác phong mới mà mỗi người
cần bồi dưỡng cho mình là: Có ý thức làm chủ nhà nước, có tinh thần tập thể xã
hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; có quan điểm
“tất cả phục vụ sản xuất”; có ý thức cần kiệm xây dựng nước nhà; có tinh thần tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội và phải chống lại những tư
tưởng, tác phong xấu là: Chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng
15


phí, bảo thủ, rụt rè.
Như vậy, cùng với việc xác định và định hướng phát huy sức mạnh những động
lực của chủ nghĩa xã hội, đối với các cộng đồng người và với những con người Việt
Nam cụ thể, Hồ Chí Minh ln nhắc nhở phải ngăn chặn, loại trừ những lực cản của
những động lực này. Nhìn chung, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, quan điềm “xây”
đi đôi với “chống” cũng là một trong những quan điểm xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí
Minh, là một trong những nét đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG CƠNG CUỘC CƠNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
1. Quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
khẳng định: đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà chính là để đạt
mục tiêu đó một cách có hiệu quả bằng những phương pháp, bước đi thích hợp, phù
hợp với quy luật để nhanh chóng đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khắc phục sự tụt hậu, chệch hướng
chủ nghĩa xã hội, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được Đảng xác định, bổ sung và
hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát
triển, cụ thể hóa hơn các mục tiêu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên
tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phịng - an ninh, đối ngoại.
1.1. Mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội
Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây
dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với lộ trình
cụ thể: đến năm 2025, kỷ niệm 100 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là
16


nước đang phát triển, có cơng nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập
trung bình thấp (GDP bình quân đầu người 4.700 đến 5.000 USD); đến năm 2030, kỷ
niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người 7.500 USD); đến năm 2045, kỷ niệm
100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao (GDP bình quân đầu
người khoảng 18.000 USD).
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu theo cách tiếp cận mới về
trình độ phát triển, trình độ cơng nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng

hợp cách tiếp cận của Đảng ta trong hơn 35 năm đổi mới và trên cơ sở đánh giá, phân
loại các nước theo thông lệ quốc tế, được các tổ chức quốc tế, như Liên hợp quốc,
Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại thế giới, Tổ chức Hợp
tác và Phát triển kinh tế, cùng hầu hết các nước trên thế giới sử dụng. Vì vậy, những
mục tiêu cụ thể được xác định lần này có đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, phù hợp
với điều kiện phát triển của đất nước.
1.2. Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Kể từ Đại hội lần thứ VIII, Đảng xác định bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội lần
thứ IX, X, XI, XII của Đảng bổ sung, phát triển. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp
tục khẳng định và có sự bổ sung, cụ thể hơn. Đó là tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Điểm mới này là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng khoa học và
công nghệ, đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
để phát triển bứt phá trong một số ngành và lĩnh vực. Trong đó, chú trọng “Đẩy mạnh
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển
17


một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới.
Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước,
tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số” (4).
Đồng thời, ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với
môi trường, nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được bắt đầu từ khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các kỳ
đại hội, hội nghị của Đảng. Đến nay, cơ bản đã có sự thống nhất chung trong nhận

thức. Vì vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận
thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế
thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của
kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước”. Theo đó, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là
một trong ba khâu đột phá chiến lược được Đảng ta xác định từ Đại hội lần thứ XI.
Điểm mới lần này được xác định nội hàm rộng và cụ thể hơn, đó là “ hồn thiện
đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhất quán các phương hướng và có bổ
sung mới về phát triển văn hóa, con người, quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ
và cơng bằng xã hội. Đó là “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn
mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới”. Trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào tiến trình phát triển
18


của thế giới, thì việc gắn bó chặt chẽ giữa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và
chuẩn mực con người với hệ giá trị gia đình Việt Nam là nhận thức mới, trong đó đặt
hệ giá trị gia đình vào vị thế vốn có của nó, với tư cách là tế bào của xã hội, là hạt
nhân nuôi dưỡng, lưu giữ và phát huy các giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, con người
Việt Nam. Đối với các vấn đề xã hội, Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh:
“Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền
vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con
người”. Điều này bảo đảm sự phát triển bền vững của con người và xã hội, thể hiện
bản chất của chế độ ta là lấy con người làm mục tiêu của sự phát triển.

- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội.
Quốc phịng, an ninh là lĩnh vực vơ cùng quan trọng và là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên. Qua mỗi kỳ đại hội, phương hướng xây dựng quốc phòng, an ninh tiếp
tục được bổ sung những nội dung mới phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội lần thứ
XIII của Đảng xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc phịng, an ninh có mặt đậm
nét và có nhiều điểm mới. Đó là: “Xây dựng Qn đội nhân dân, Cơng an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”. Đồng thời, xác định rõ hơn nhiệm vụ nghiên cứu,
phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh; triển khai thực hiện các chiến lược về quốc
phòng, an ninh trong điều kiện mới.
- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011 xác định “hội nhập quốc tế” thay cho
“hội nhập kinh tế quốc tế”, không chỉ nhằm mở rộng nội hàm hội nhập kinh tế quốc
tế, mà hội nhập trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc
phịng - an ninh, đối ngoại. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan
điểm đó, đồng thời làm rõ hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế phải luôn xác định
lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu tối thượng, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
19


Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Đây là sự tổng
kết có tính khái quát cao về dân chủ, khẳng định bản chất của chế độ ta là dân chủ, là
mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đại hội lần thứ
XIII của Đảng tiếp tục cụ thể hóa và bổ sung một số nội dung mới: (1) Bổ sung nội
dung, phương châm thực hiện dân chủ là “dân giám sát, dân thụ hưởng” thành “dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; (2) Xác định rõ
hơn mối quan hệ và vai trò giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”; (3) Khẳng định
“đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất
nước, trong tồn bộ q trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân, nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là
thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định rõ vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát
quyền lực nhà nước. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến
20


tạo phát triển, liêm chính, hành động, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu
phát triển nhanh, bền vững”. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đây là
nhiệm vụ then chốt quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Qua mỗi kỳ đại hội, Đảng ln có sự đánh giá một cách tồn diện những ưu
điểm, hạn chế, bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng

vừa có tính kế thừa vừa có những điểm mới phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội
lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Điểm mới so với trước đây là bổ sung
“xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và
không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà cả chỉnh đốn Đảng. Đồng thời, bổ sung
những nhận thức mới trong nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức.
1.3. Các mối quan hệ lớn cần giải quyết
Các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
được Đảng tổng kết, hệ thống hóa lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011. Đó là 08
mối quan hệ: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển
lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng
xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Đại hội lần thứ XII, Đảng có sự điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo
21


đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” nhằm làm rõ hơn trong chủ nghĩa xã hội vẫn tồn
tại nền kinh tế thị trường; và bổ sung thêm mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị
trường”. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã bổ sung, phát triển thành quan hệ “giữa
Nhà nước, thị trường và xã hội”.
Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các
mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, bảo vệ môi trường”;
điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội

chủ nghĩa” thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh
mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, bổ sung thêm mối quan
hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”.
Như vậy, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung mới từng mối quan hệ một
cách chặt chẽ, đầy đủ, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là sự phản ánh
quy luật khách quan, mang tính biện chứng của những vấn đề lý luận cốt lõi trong
đường lối đổi mới của Đảng, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng hồn thiện và từng
bước được hiện thực hóa”.
2. Quan điểm của Đảng ta về động lực xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021), trên cơ sở kế thừa và bổ sung
quan điểm về những nhân tố tạo thành động lực của các kỳ Đại hội Đảng trước đó,
Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của
đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt
Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là
22


những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn
lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Với tư tưởng trên, động
lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định trên nhiều nội dung mới.
Thứ nhất, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường
dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Yêu nước là truyền thống quý báu, có từ hàng nghìn năm của dân tộc ta.
Truyền thống ấy là mẫu số chung, là nguồn lực nội sinh của cộng đồng dân tộc.

Lịng u nước khơng chỉ là tư tưởng, tình cảm mà đã trở thành triết lý, là chủ nghĩa
yêu nước, là ý chí, khí phách, quyết tâm và hành động của mỗi con người Việt Nam.
Trong chiến tranh, yêu nước được thể hiện qua tinh thần đấu tranh chống kẻ thù xâm
lược, tinh thần quật khởi, ý chí quật cường bất khuất, chống lại sự xâm lược, đô hộ,
đồng hóa của ngoại bang để bảo vệ độc lập dân tộc và biên cương của Tổ quốc.
Ngày nay, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường,
vượt qua khó khăn, thử thách, hợp tác trong lao động, sản xuất; sáng tạo, hăng say
để xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Để phát huy cao độ lịng u nước phải có tinh thần đồn kết, chỉ có đồn kết
sâu, rộng chúng ta mới tập hợp được sức mạnh của quần chúng nhân dân trong xây
dựng và kiến thiết đất nước. Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Đại đoàn
kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và
đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trong Bài
viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đại đoàn kết
23


toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam”.
Thứ hai, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ tạo động lực thúc đẩy sự phát
triển đất nước.
Khi coi khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là động lực chủ yếu
của sự phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hướng vào nguồn lực nội
sinh, sức mạnh dân tộc là lịng u nước, tinh thần đồn kết, ý chí tự lực, tự cường,
lịng tự tơn và tự hào dân tộc, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, tâm hồn… những giá trị cốt

lõi của văn hóa, con người Việt Nam. Đây là sức mạnh vĩ đại, nguồn năng lượng to
lớn, sống động thúc đẩy sự phát triển của quốc gia - dân tộc trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động
lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài
hịa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về bản chất, văn hoá là những hoạt động sáng tạo của con người hướng tới
những giá trị nhân văn, nhân bản, là khát vọng hướng tới cái chân, thiện, mỹ nhằm
hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nói tới văn hố là nói tới con người, do
vậy, phát huy vai trị của văn hố trong phát triển chính là phát huy những năng
lực, bản chất của con người. Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát
triển, phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc đổi mới. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các
giá trị tiến bộ, nhân văn, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu,
tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì
24


lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực,
lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.
Với tư cách là động lực của sự phát triển, văn hoá khơi dậy sức sống, sức sáng
tạo vươn tới các giá trị nhân văn, tiến bộ của con người. Mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội là nhằm giải phóng và phát triển tồn diện con người. Vì vậy, bản chất của văn
hố thống nhất với mục tiêu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta hướng tới.
Mang trong mình những giá trị truyền thống tốt đẹp, con người Việt Nam hồn
tồn có khả năng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng sáng tạo những thành

tựu của cách mạng khoa học - công nghệ tiên tiến, tri thức hiện đại trên thế giới để đổi
mới sáng tạo vào quá trình phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc cho phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động
to lớn đối với đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
làm thay đổi căn bản lĩnh vực sản xuất, tư duy, văn hóa, lối sống của con người.
Trước hết, cách mạng công nghiệp thúc đẩy lực lượng sản xuất (thay đổi
trình độ của người lao động, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhất là hạ tầng
công nghệ thông tin), tạo ra sự thay đổi căn bản về khả năng kết nối giữa con
người với công nghệ; khả năng minh bạch thông tin; khả năng giải quyết những
cơng việc phức tạp với trình độ rất cao. Đây chính là những động lực khơng giới
hạn thay cho tăng trưởng cho những nước chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử
dụng vốn, lao động phổ thông. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra đột
phá về cơng nghệ trong q trình sản xuất và tiêu dùng đã giúp tiết kiệm nguyên
vật liệu và chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động, tạo ra lượng của cải vật chất
khổng lồ, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ngày nay, công nghệ thơng tin cịn tạo
cơ sở cho q trình hội nhập và tồn cầu hóa kinh tế, tạo cơ sở cho nền sản xuất
toàn cầu, phục vụ cho nhân loại.
25


×