UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
TRẦN THỊ MAI PHƯỢNG
ĐỐI THOẠI VĂN HÓA TRONG MẪU THƯỢNG NGÀN
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Phú Thọ, năm 2018
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
TRẦN THỊ MAI PHƯỢNG
ĐỐI THOẠI VĂN HÓA TRONG MẪU THƯỢNG NGÀN
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Phƣơng Chi
Phú Thọ, năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Đối thoại văn hoá trong Mẫu thượng
ngàn của Nguyễn Xuân Khánh” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu
và tài liệu trong luận văn là trung thực và chƣa đƣợc cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nghiên cứu nào. Tất cả những tham khảo và kế thừa đều đƣợc trích dẫn và
tham chiếu đầy đủ
TÁC GIẢ
Trần Thị Mai Phƣợng
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lí luận văn học với đề tài “Đối thoại văn hoá
trong Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh” là kết quả của q trình cố gắng
khơng ngừng của bản thân và đƣợc sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy cô,
bạn bè đồng nghiệp và ngƣời thân. Qua luận văn này tác giả xin gửi lời trân trọng
cảm ơn tới những ngƣời đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa
học vừa qua.
Tôi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với cơ giáo TS. Phạm
Phƣơng Chi đã trực tiếp tận tình hƣớng dẫn cũng nhƣ cung cấp tài liệu thông tin
khoa học cần thiết giúp tơi hồn thành luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trƣờng Đại học Hùng Vƣơng, khoa
Khoa học xã hội và nhân văn đã tạo điều kiện cho tơi hồn thành tốt cơng việc
nghiên cứu khoa học của mình.
Cuối cùng, tơi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, đơn vị công tác, ngƣời thân
trong gia đình đã giúp đỡ tơi trong q trình học tập và thực hiện luận văn.
TÁC GIẢ
Trần Thị Mai Phƣợng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ............................................................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................8
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu .........................................................................9
6. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................9
CHƢƠNG 1. VẤN ĐỀ ĐỐI THOẠI, ĐỐI THOẠI VĂN HOÁ VÀ NHỮNG TIỀN
ĐỀ CỦA ĐỐI THOẠI VĂN HOÁ TRONG MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA
NGUYỄN XUÂN KHÁNH ......................................................................................10
1.1. Vấn đề đối thoại và đối thoại văn hoá ................................................................10
1.1.1. Khái niệm đối thoại .........................................................................................10
1.1.2. Khái niệm văn hoá ..........................................................................................11
1.1.3. Đối thoại văn hoá ............................................................................................13
1.2. Những tiền đề của đối thoại văn hoá trong Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh ..............................................................................................................15
1.2.1. Xu thế đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì sau đổi mới ...................15
1.2.2. Sự lựa chọn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh ..............................................17
1.2.3. Bối cảnh lịch sử ra đời của tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn .............................21
CHƢƠNG 2. CÁC CHỦ ĐỀ ĐỐI THOẠI VĂN HOÁ TRONG MẪU THƯỢNG
NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH .................................................................23
2.1. Đối thoại về tín ngƣỡng bản địa .........................................................................23
2.1.1. Đối thoại về tín ngƣỡng phồn thực .................................................................23
2.1.2. Đối thoại về tín ngƣỡng thờ mẫu ....................................................................33
2.2. Đối thoại về mẫu tính .........................................................................................39
iv
2.2.1. Mẫu tính – Khởi nguồn sự sống và tái sinh sự sống trong tâm thức văn hóa
Việt ............................................................................................................................39
2.2.2. Mẫu tính – Sức mạnh kháng cự của nữ tính phƣơng đơng trƣớc sức mạnh
chinh phục của nam tính phƣơng tây ........................................................................44
2.3. Đối thoại văn hố Đơng – Tây ...........................................................................48
2.3.1. Đối thoại về vấn đề xung đột, khác biệt văn hoá ............................................48
2.3.2. Đối thoại về vấn đề đồng hoá và phản đồng hoá ............................................55
2.3.3. Những suy ngẫm về ứng xử văn hố...............................................................61
CHƢƠNG 3. CÁC PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT NHÌN TỪ ĐỐI THOẠI
VĂN HOÁ TRONG MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH ...65
3. 1. Điểm nhìn trần thuật..........................................................................................65
3.1.1. Điểm nhìn gắn với ngơi kể có vai trị thiết lập đối thoại ................................65
3.1.2. Sự dịch chuyển điểm nhìn nhằm “khiêu khích” đối thoại ..............................69
3.2. Ngôn ngữ trần thuật ...........................................................................................72
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ hội thoại .....................................................72
3.2.2. Ngôn ngữ biện giải, tự thuật ...........................................................................75
3.2.3. Ngơn ngữ chất vấn, hồi nghi .........................................................................77
3.3. Giọng điệu trần thuật hay tính chất đa thanh .....................................................80
3.3.1. Giọng triêt lí, chiêm nghiệm ...........................................................................81
3.3.2 Giọng ngợi ca, trân trọng .................................................................................83
3.3.3. Giọng xót xa, thƣơng cảm ...............................................................................85
KẾT LUẬN ...............................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................91
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau 1986, với nhu cầu nhận thức lại quá khứ, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
đã phát triển mạnh mẽ với nhiều phong cách độc đáo. Hầu hết các tiểu thuyết lịch
sử đều chú ý đến vấn đề gia tăng tính đối thoại. Nhân vật có thể tranh luận, đối thoại
lại với nhà văn. Nhà văn đƣợc đặt vào trƣờng trao đổi, đàm thoại với ngƣời đọc.
“Tiểu thuyết lịch sử hôm nay đã lật xới quá khứ và đƣa tất cả vào lập trƣờng đối
thoại” [16; 65]. Nhiều vấn đề đối thoại đƣợc đặt ra trong đời sống lịch sử, chính trị,
triết học, tơn giáo, văn học nghệ thuật… trong đó khơng thể khơng kể đến đối thoại
trên lĩnh vực văn hố. Đối thoại văn hóa đƣợc xác định là nhu cầu quan trọng và
bức thiết để tạo ra động lực mới thúc đ y sự biến đổi và phát triển văn hóa trƣớc
u cầu giữ gìn, phát huy giá trị và bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế,
trong bối cảnh giao lƣu văn hoá đa chiều hiện nay.
Nằm trong xu hƣớng chung ấy, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh gây sự chú
ý cho ngƣời đọc bởi hàm lƣợng văn hoá lịch sử phong phú. Với bộ ba tiểu thuyết
Hồ Quí Ly, Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh đã đem đến
một cách nhìn lịch sử đa chiều trên tinh thần đối thoại, lấy lịch sử làm chất liệu xây
dựng nên thế giới nghệ thuật đồng thời đặt ra những vấn đề mang tính luận đề về
văn hoá – tƣ tƣởng.
Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh đƣợc xuất bản vào năm 2006 là
một trong những tiểu thuyết tiêu biểu, xuất sắc của ông ở thể loại tiểu thuyết văn
hoá – lịch sử. Mẫu Thượng ngàn đƣợc coi là cuốn tiểu thuyết sinh động viết về “văn
hoá làng Việt Nam lúc ngƣời Pháp mới sang, về cuộc giao lƣu văn hố nơng thơn
bản địa và văn hố Tây” [47;4] mà nổi bật lên ở đó là cảm hứng đối thoại về các
vấn đề văn hố (tín ngƣỡng, tơn giáo, văn hố Đơng – Tây…). Tiểu thuyết Mẫu
Thượng ngàn là một đối thoại của Nguyễn Xuân Khánh về vấn đề văn hoá trên
nhiều phƣơng diện trong cuộc hành trình tìm kiếm bản thể cộng đồng, bản sắc văn
hoá dân tộc.
2
Lý thuyết đối thoại là một trong những vấn đề trung tâm trong lí luận của
Bakhtin. Những tƣ tƣởng của nó đã đƣợc vận dụng rộng rãi trong nghiên cứu văn
học ở các nƣớc phƣơng Tây. Tuy nhiên ở Việt Nam, lý thuyết này vẫn còn mới mẻ
khi đem vận dụng vào việc lí giải một hiện tƣợng văn học. Việc tiếp cận tác ph m
tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết văn hố – lịch sử từ lí thuyết đối thoại vừa phù
hợp với đặc trƣng thể loại vừa đáp ứng nhu cầu thiết yếu của văn học đƣơng đại.
Hơn nữa chọn hƣớng tiếp cận này với trƣờng hợp cụ thể là Mẫu Thượng ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh là một cách làm mới về một hiện tƣợng văn học đã quen
thuộc. Tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh đã đƣợc chú ý khai
thác ở nhiều bình diện khác nhau, tuy nhiên nhìn nhận tác ph m nhƣ một đối thoại
văn hố là một vấn đề cịn nhiều khoảng trống.
Nghiên cứu vấn đề đối thoại văn hóa trong tác ph m Mẫu Thượng ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh, ngƣời viết muốn làm rõ hơn một vấn đề thuộc lý thuyết đối
thoại là đối thoại văn hoá trong văn học của các nƣớc thuộc địa cũ mặt khác cũng
nhằm chỉ ra những đóng góp riêng, độc đáo của Nguyễn Xuân Khánh đối với văn
học Việt Nam đƣơng đại qua mảng đề tài này.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh đã và đang là đối tƣợng của nhiều cơng
trình nghiên cứu từ nhỏ đến lớn. Trong đó, bên cạnh những vấn đề về nghệ thuật
đƣợc chú ý khai thác (thể loại, nhân vật, cốt truyện…) vấn đề đối thoại trong tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh nói chung và vấn đề đối thoại văn hoá trong Mẫu
Thượng ngàn nói riêng đã đƣợc đề cập đến trong một số cơng trình nghiên cứu với
những mức độ khác nhau. Xin đơn cử một số cơng trình nghiên cứu văn học (Việt
Nam) đã khai thác vấn đề này nhƣ:
Trần Thị An với bài Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết
Mẫu Thượng ngàn đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 6/2000; Nguyên lý
tính Mẫu trong truyền thống của Dƣơng Thị Huyền, Châu Diên (2006); Nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc, Báo Tuổi trẻ .vn,16/07/2016; Lại
Nguyên Ân với “Từ trung tâm ra ngoại biên, từ ngoại biên vào trung tâm - Mấy
3
nhận xét về đường văn Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Tia sáng, số 16, tr. 46 – 52;
Đoàn Ánh Dƣơng với “Nguyễn Xuân Khánh và tiểu thuyết văn hóa-lịch sử”,
nguồn: .
Đặc biệt là sự kiện ngày 15/10/2012, nhân dịp nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
bƣớc sang tuổi 80, Viện văn học kết hợp với Nhà xuất bản Phụ nữ đã tổ chức cuộc
tọa đàm: “Lịch sử và văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh”. Đi cùng với
cuộc tọa đàm này là việc xuất bản cuốn sách: “Lịch sử và văn hóa - Cái nhìn nghệ
thuật Nguyễn Xn Khánh”, tập hợp những bài viết xa - gần, cũ - mới của những
nhà nghiên cứu có uy tín bàn về tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh mà chủ yếu là ba
tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa với tƣ cách là những
diễn giải lịch sử/ văn hóa có giá trị đặc sắc và nổi bật. Đây có thể coi là sự tập
hợp đầy ý nghĩa, giúp cho việc đọc và hiểu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh có
đƣợc những gợi mở thú vị, những định hƣớng đúng đắn và những cách tiếp cận
có chiều sâu.
Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh là cuốn tiểu thuyết mà ở đó
“nếu đi tìm một nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết này, thì hẳn có thể nói nhân vật
chính đó là nền văn hóa Việt, cái thực tại vừa vơ cùng hiện thực, vừa rất hƣ ảo, bền
chặt, xuyên suốt mà cũng lại biến hóa khơn lƣờng, rất riêng và rất chung, rất bản địa
mà cũng lại rất nhân loại” [37;2]. Đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu về Mẫu
Thượng ngàn trong đó phải kể đến những bài viết nói về Mẫu Thượng ngàn nhƣ
một minh chứng nổi bật cho việc đã khai thác thành cơng chủ đề văn hóa truyền
thống, từ đó hình dung tác ph m nhƣ là một đối thoại của Nguyễn Xuân Khánh về
vấn đề văn hoá trên nhiều phƣơng diện.
Nổi bật và đáng chú ý trong cuốn sách “Lịch sử và văn hóa- Cái nhìn nghệ
thuật Nguyễn Xuân Khánh” (NXB Phụ nữ - Viện văn học, Hà Nội) là một số bài
viết bàn về vấn đề văn hoá và đối thoại văn hoá trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn
nhƣ: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh một diễn ngơn về lịch sử văn hố của Nguyễn
Đăng Điệp; Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, sự đan bện giữa lịch sử – văn hố –
phong tục của Nguyễn Hồi Nam ; Từ văn học đến / về văn hoá: diễn ngôn (chủ
4
nghĩa dân tộc) trong hư cấu (lịch sử) của Nguyễn Xuân Khánh của Đoàn Ánh
Dƣơng; Nguyễn Văn Long – Lê Thị Thuỷ với Mẫu Thượng ngàn – con đường tìm
về cội nguồn văn hoá và sức sống dân tộc; Phan Tuấn Anh với Nguyễn Xuân Khánh
và sự va chạm với cái vảy ngược trên ngực những con rồng; Tính đối thoại trong
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh của Thái Phan Vàng Anh; Nguyễn Quang Huy với
Những miền mơ tưởng Mẫu tính và Nữ tính vĩnh hằng trong Mẫu Thượng ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh (Một tiếp cận từ lí thuyết Cổ Mẫu); Mai Anh Tuấn với Tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn văn hóa”…Ở đây, ngƣời viết xin điểm qua
nội dung một số bài viết quan trọng liên quan đến vấn đề đặt ra trong đề tài.
Tác giả Nguyễn Đăng Điệp trong bài Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh một
diễn ngôn về lịch sử văn hố đã đề cập đến vai trị của văn hoá trong tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh “Văn hoá là cốt lõi của lịch sử, là chiều sâu qui định sự hằng
tồn của quốc gia, dân tộc” [16;2]. Từ đó tác giả khẳng định Nguyễn Xuân Khánh đã
“đặt trọn niềm tin vào sức mạnh nội sinh của văn hoá dân tộc, khơi thức ở ngƣời
đọc niềm kiêu hãnh về sự trƣờng tồn của văn hoá bản địa, khả năng thuần hố
những ảnh hƣởng của văn hố bên ngồi để tạo nên sự phong phú của văn hoá dân
tộc” [16, 5]. Từ đó, tác giả khẳng định “Sức mạnh của văn hố/ tơn giáo bản địa là
căn cốt tạo nên sức sống của một dân tộc” [16, 10]. Điều đáng nói trong bài viết của
tác giả Nguyễn Đăng Điệp đó là trong khi đề cập đến sức mạnh nội sinh của văn
hoá là nền tảng tạo nên sức sống dân tộc, ngƣời viết đã khẳng định sức hấp dẫn của
diễn ngôn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh “chủ yếu nằm ở tính đối thoại” [16,10]
và coi đây là “Nguyên lí cơ bản của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, và tính đối thoại
trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh cho thấy rõ hơn xu thế tiểu thuyết hoá là xu
thế ƣu thắng trong văn học Việt Nam sau 1975. Nó qui định cách tổ chức tự sự,
cách xây dựng nhân vật lƣỡng diện, soi chiếu cùng lúc các quan điểm để đảm bảo
tính dân chủ trong tự sự” [16, 11]. Từ vẫn đề tính đối thoại trong tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh, tác giả Nguyễn Đăng Điệp cũng chỉ ra “Tƣ duy đối thoại
cũng đƣợc thể hiện rõ nét trong Mẫu Thượng ngàn. Việc đề cao đạo mẫu và tôn
giáo dân gian bản địa cũng nhƣ việc chú trọng miêu tả các lễ hội, phong tục, thiên
5
nhiên trong tiểu thuyết này khiến cho tác ph m mang dáng dấp của tiểu thuyết văn
hoá phong tục. Nhƣng ở đây mối quan tâm chính của Nguyễn Xuân Khánh vẫn là
lịch sử và yếu tố quan trọng nhất của lịch sử chính là văn hố” [16; 12]. Ngồi ra tác
giả bài viết cịn chỉ ra tính đối thoại của tiểu thuyết này thể hiện trên ba cấp độ
chính: tơn vinh văn hố/ tơn giáo dân gian; đề cao mẫu tính/ thiên tính nữ và khẳng
định sức mạnh văn hố / tôn giáo bản địa là căn cốt tạo nên sức sống của một dân
tộc. Từ việc chỉ ra tính đối thoại trong từng tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu của Nguyễn
Xuân Khánh, ngƣời viết nhận định “Trên tinh thần đối thoại, Nguyễn Xuân Khánh
đã vén tấm màn thâm nghiêm của lịch sử để chiêu tuyết, minh định, làm sống lại
những giá trị khuất lấp, từ đó lí giải lịch sử bằng cái nhìn khoan dung văn hố
[16;20].
Ở bài viết Từ văn học đến/ về văn hố: diễn ngơn (chủ nghĩa dân tộc) trong
hư cấu (lịch sử) của Nguyễn Xuân Khánh, nói về vấn đề văn hố dân tộc, tác giả
Đoàn Ánh Dƣơng đã đặt tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong dịng chảy chung
của văn học thời kì sau đổi mới khi “văn học bị kéo trở lại, hay vốn dĩ vẫn giữ một
địa vị trung tâm trong hệ thống văn hố Việt Nam, (để) gắn bó khăng khít hơn với
dân tộc và nhân loại trong hội nhập và toàn cầu hố” mà tác giả gọi là “diễn ngơn về
chủ nghĩa dân tộc” [16;178]. Trong khi bàn về một số tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh, tác giả có nói đến Mẫu thượng ngàn nhƣ một diễn ngôn thực dân, nhƣ “một
sự hình dung về dân tộc Việt Nam với nhiều thuộc tính nữ, có cội nguồn mẫu hệ,
mang bản sắc nữ”[16;188]. Nói về nhân vật nữ trong tác ph m của Nguyễn Xuân
Khánh, tác giả cho rằng “Họ là cội nguồn của dân tộc, là sức mạnh của đời sống
phồn sinh, kết thành căn cƣớc văn hoá dân tộc” [16; 188]. Nói về đạo mẫu tác giả
coi đó là một tơn giáo bản địa, “một cách tìm về bản sắc văn hoá dân tộc”, “nơi
kết tinh giá trị và làm thành sức mạnh dân tộc trong đối thoại quốc tế”, “một ảnh
xạ của chủ nghĩa dân tộc” và thậm chí là “ph m tính (đặc tuyển) của một dân
tộc” [16; 189].
Nguyễn Văn Long – Lê Thị Thuỷ với Mẫu Thượng ngàn – con đường tìm về
cội nguồn văn hố và sức sống dân tộc cũng đã nhìn nhận “Mẫu Thượng ngàn
6
chính là cuộc hành trình tìm về và làm sống lại cội nguồn văn hố bản địa, từ đó lí
giải về đặc tính, sức sống của cộng đồng dân tộc qua những thăng trầm, biến đổi
của lịch sử” [16; 373]. Từ đó hai tác giả đi đến kết luận “Sự trƣờng tồn của dân tộc
suy cho cùng vẫn lấy cái gốc ở văn hố. Tuy khơng phải lúc nào cũng biểu lộ thành
sức mạnh trực tiếp, song cội nguồn của bản sắc và sức sống của một dân tộc là ở
nền văn hố bản địa đã hình thành và đƣợc gìn giữ lƣu truyền qua hàng nghìn năm,
khơng dễ mai một. Phải chăng đó cũng chính là sự luận giải của nhà văn về vấn đề
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc trong thời kì hội nhập quốc tế sâu rộng
hiện nay” [16; 386].
Trong bài viết Nguyễn Xuân Khánh và sự va chạm với cái vảy ngược trên
ngực những con rồng của Phan Tuấn Anh khi đi vào tìm hiểu những khám phá mới
trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh có ý nghĩa đối chọi lại với nhiều quan niệm
cũ, truyền thống; cũng đã đề cập đến tính đối thoại trong tiểu thuyết của ơng ở
phƣơng diện “không ngần ngại chạm đến vảy ngƣợc của những con rồng mà ơng đã
dành nhiều tâm huyết và tình cảm để cắt nghĩa và xác lập một vị trí văn hoá trang
trọng, nhân bản trong thế giới nghệ thuật của mình”[16,140]. Tác giả Phan Tuấn
Anh cịn chỉ rõ ngun nhân để Nguyễn Xuân Khánh đứng vững giữa những va
chạm với “cái vảy ngƣợc trên ngực những con rồng” là do “nhà văn đã xây dựng
những cuốn tiểu thuyết của mình dựa trên tinh thần đối thoại (dialogisme). Tức mọi
nhận định về một nhân vật lịch sử, biến cố lịch sử hay tính chất tơn giáo, phạm trù
tƣ tƣởng…đều chỉ là một tiếng nói bên cạnh tiếng nói khác có tính đối âm. Khơng
có phát ngơn sau cùng và duy nhất đúng, ngay cả ngƣời kể chuyện cũng là một
tiếng nói bên cạnh những tiếng nói khác”[16;134], “Đó vẫn khơng phải là tiếng nói
sau cùng, sự kết luận có tính hồn kết và rắn chắc, mà đó chỉ là một giả thuyết, một
ý kiến tranh luận trong trƣờng đối thoại” và “ chính nghệ thuật ấy đã tạo ra tính đa
thanh, biến mọi tiếng nói, mọi quan điểm đứng kề nhau đều bình đẳng”[16;135].
Bên cạnh một số bài viết nêu trên, khơng thể khơng kể đến bài viết của tác
giả Đồn Ánh Dƣơng: Từ văn học đến / về văn hoá: Diễn ngôn chủ nghĩa dân tộc
trong hư cấu (lịch sử) của Nguyễn Xuân Khánh. Ở bài viết này, khi nghiên cứu tiểu
7
thuyết Nguyễn Xuân Khánh nhƣ những diễn ngôn về chủ nghĩa dân tộc, Đoàn Ánh
Dƣơng đã đặt ra vấn đề quan trọng, đƣợc luận bàn kĩ lƣỡng trong Mẫu Thượng
ngàn “Trong suy nghĩ của Nguyễn Xuân Khánh, tƣơng lai dân tộc nhất định phải
xây dựng trên những đối thoại”, “chỉ có điều, trong cuộc đối thoại đó phải lấy sức
mạnh nội sinh làm nền tảng, dĩ Đông vi thể, dĩ Tây vi dụng. Cái khó nhất chính là đi
tìm cái căn bản ấy, mà trƣớc nhất là một thứ “căn bản văn hoá” nhằm hoạch đắc
tƣơng lai dân tộc [16; 192].
Đặc biệt, trong bài viết Tính đối thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh,
Thái Phan Vàng Anh đã nhận diện những biểu hiện của đối thoại trong tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh thông qua các dạng thức đối thoại: Đối thoại tƣ tƣởng, quan
niệm; huyền thoại và giải huyền thoại - đối thoại với lịch sử - văn hố, tơn giáo
trong liên hệ với vận mệnh dân tộc, với đời sống con ngƣời; tính đối thoại trong
diễn ngơn trần thuật (điểm nhìn trần thuật, hình thức trần thuật, ngơn ngữ, giọng
điệu…). Ngƣời viết còn dành riêng một mục đề cập rất sâu đến đối thoại văn hoá
trong Mẫu thượng ngàn, từ đó khẳng định “Theo khuynh hƣớng tiểu thuyết lịch sử
luận giải, Nguyễn Xuân Khánh đã có nhiều đóng góp khi làm đầy đặn thêm bức
tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Nhà văn đã “luận giải” q
khứ, “nhìn ngắm” lịch sử dân tộc từ một góc nhìn rất sâu về văn hố và những liên
hệ giữa lịch sử văn hố” để “tạo nên một mơi trƣờng đối thoại đa chiều, công khai,
dân chủ” [16,85]. Đây là một trong số những bài viết chuyên sâu có giá trị khi bàn
về đối thoại trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh.
Tựu chung lại, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh đã và đang là đối tƣợng của
nhiều cơng trình nghiên cứu từ nhỏ đến lớn. Trong đó, vấn đề đối thoại và đối thoại
văn hố trong tiểu thuyết của ơng cũng là vấn đề đƣợc đề cập đến ở mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, coi đối thoại văn hóa là đối tƣợng nghiên cứu chính, nhìn nhận đối
thoại văn hố và vai trị của nó trong sự hình thành, trƣờng tồn của dân tộc Việt
trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn thì lại là vấn đề chƣa đƣợc đặt ra và giải quyết
trực tiếp, cụ thể, có hệ thống.
8
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu vấn đề đối thoại văn hố trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh, luận văn muốn hƣớng tới các mục đích nhƣ sau:
Thứ nhất, dựa vào việc tìm hiểu vấn đề đối thoại văn hố trong tiểu thuyết
Mẫu Thượng ngàn để lí giải ý đồ nghệ thuật của nhà văn
Thứ hai, hiểu đối thoại văn hoá nhƣ một yếu tố nền tảng chi phối đến cấu
trúc nghệ thuật của tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn
Thứ ba, chỉ ra những đóng góp cả về nội dung tƣ tƣởng và hình thức nghệ
thuật của tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn từ những vấn đề đối thoại văn hoá đặt ra
trong tác ph m
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Những chủ đề đối thoại văn hoá trong Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh
- Những phƣơng thức nghệ thuật nhìn từ đối thoại văn hóa trong Mẫu Thượng
ngàn của Nguyễn Xuân Khánh.
- Những vấn đề văn hoá dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hố đặt ra trên tinh
thần đối thoại trong Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh
- Sự đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh cho văn học Việt Nam đƣơng đại từ
tinh thần đối thoại văn hoá trong Mẫu Thượng ngàn
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
41. Đối tƣợng nghiên cứu
- Vấn đề đối thoại văn hoá trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2006.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, NXB Phụ nữ, Hà
Nội, 2006.
- Liên hệ với tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, Hồ Quí Ly của Nguyễn Xuân
Khánh và một số tác ph m của một số nhà văn khác có liên quan.
9
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
- Phƣơng pháp tiếp cận văn học dƣới góc nhìn văn hóa đƣợc qn triệt nhƣ
một phƣơng châm chỉ đạo xuyên suốt, bao trùm trong suốt quá trình triển khai
luận văn.
- Phƣơng pháp tiếp cận tự sự học tập trung vào vấn đề đối thoại và đối thoại
văn hóa
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
- Phƣơng pháp so sánh
- Ngoài ra luận văn vận dụng các thao tác nghiên cứu nhƣ thống kê, phân tích,
tổng hợp
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng chính:
Chƣơng 1: Vấn đề đối thoại, đối thoại văn hoá và những tiền đề của đối thoại
văn hoá trong Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh
Chƣơng 2: Các chủ đề đối thoại văn hoá trong Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh
Chƣơng 3: Các phƣơng thức nghệ thuật nhìn từ đối thoại văn hố trong Mẫu
Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh
10
Chƣơng 1
VẤN ĐỀ ĐỐI THOẠI, ĐỐI THOẠI VĂN HOÁ, VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA
ĐỐI THOẠI VĂN HOÁ TRONG MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA
NGUYỄN XUÂN KHÁNH
1.1. Vấn đề đối thoại và đối thoại văn hoá
1.1.1. Khái niệm đối thoại
Trong Từ điển văn học bộ mới, khi cung cấp nội hàm khái niệm đối thoại,
nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đề xuất một số hàm nghĩa:
Thứ nhất, đối thoại là sự giao tiếp bằng lời nói giữa hai ngƣời (hoặc nhiều
hơn) với nhau (Đối thoại ngôn ngữ)
Thứ hai, đối thoại là một phần của văn bản ngôn từ nghệ thuật, một thành tố
mà chức năng là tái tạo sự giao tiếp bằng lời nói của các nhân vật và là một trong
hai kiểu giao tiếp ngôn từ nghệ thuật cơ bản, bên cạnh độc thoại. Ngôn từ đối thoại
biểu hiện sự giao tiếp qua lại (thƣờng là giữa hai phía) trong đó sự chủ động và sự
thụ động đƣợc chuyển đổi luân phiên từ phía bên này sang phía bên kia (giữa những
ngƣời tham gia giao tiếp); mỗi phát ngơn đều đƣợc kích thích bởi phát ngơn có
trƣớc và là phản xạ lại phát ngơn có trƣớc ấy (Đối thoại ngơn từ nghệ thuật)
Thứ ba, đối thoại là một thể loại văn học ở châu Âu nghiêng về triết lý, chính
luận, hùng biện để bảo vệ các quan điểm có tính chất lý thuyết. Tƣ tƣởng của tác giả
đƣợc khai triển dƣới dạng thức trò chuyện, tranh cãi giữa hai ngƣời hoặc nhiều hơn
(Đối thoại với tƣ cách một thể loại văn học). Thể loại này dựa vào truyền thống giao
tiếp trí tuệ bằng lời nói miệng, vốn có từ thời cổ đại Hy Lạp, cội nguồn của truyền
thống này là hoạt động của Socrate (470 - 399 TCN). Các tác ph m đối thoại của
Plato (428 – 348 TCN), Lucien (125 -1920 và những ngƣời kế tục họ tạo ra dạng
thức cơ bản của tƣ tƣởng triết học (Augusstin, Pascan, Berkeyley) đồng thời cũng
tạo ra tƣ tƣởng chính luận và phê bình nghệ thuật (Lessing, Diderot, Bielinski,
Dostoievski…)
Trong văn học, đối thoại đƣợc đề cập ở đây không phải là khái niệm đối
thoại, hội thoại của ngôn ngữ học chỉ giới hạn trong phạm vi lời hỏi, đáp thƣờng
11
đƣợc ghi vào trong ngoặc kép hoặc sau dấu gạch đầu dịng. Đối thoại ở đây là khái
niệm “siêu ngơn ngữ học” mà ngƣời khởi xƣớng là Bakhtin. Theo đó, “đối thoại”
đƣợc hiểu “Đó là sự xâm nhập thường xuyên của ngôn từ người khác vào ngôn từ
của một chủ thể, tạo thành tính đối thoại bên trong của phát ngơn đó (…). Đối thoại
đây là thái độ của ý thức, tư tưởng, biểu hiện qua sự đồng tình, phản đối, khẳng
định, phủ định, hoài nghi, chế giễu, nhại lại” [41,12].
Dù hiểu theo cách nào thì “đối thoại có thể nói là một hoạt động giao tiếp cơ
bản của con ngƣời. Trong văn học nghệ thuật, đối thoại đƣợc hiểu rộng hơn là sự
giao tiếp bằng lời nói giữa những ngƣời tham gia giao tiếp (hai ngƣời trở lên). Một
văn bản văn học khơng chỉ có đối đáp/ đối thoại của nhân vật (đã bao gồm cả độc
thoại nhƣ một hình thức đối thoại đặc biệt – ngƣời nói tự nói với chính mình) mà
cịn có sự va đập giữa các tiếng nói, sự xung đột, tranh biện giữa ý thức tác giả và
nhân vật thơng qua hình tƣợng ngƣời kể chuyện; giữa ngƣời kể chuyện và ngƣời
nghe chuyện, giữa nhà văn và bạn đọc, ở cấp độ ngoài văn bản, liên văn bản, đó cịn
là những đối thoại về tƣ tƣởng, về văn hố,…liên khơng gian, thời gian...” [16;66].
1.1.2. Khái niệm văn hố
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu. Theo nhiều
nguồn tài liệu cho biết, có tới vài trăm định nghĩa về văn hóa. Có thể kể ra một số
định nghĩa phổ biến về văn hóa, từ nghĩa rộng đến nghĩa hẹp nhƣ sau :
Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do NXB Đà Nẵng và
Trung tâm từ điển xuất bản năm 2004, có tổng hợp và đƣa ra một loạt quan niệm về
văn hóa:
- Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
ngƣời sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
- Văn hóa là những hoạt động của con ngƣời nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinh thần.
- Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học.
- Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh.
12
- Văn hóa là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xƣa,
đƣợc xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống nhau,
ví dụ Văn hóa Hịa Bình, Văn hóa Đơng Sơn…
Trong Xã hội học văn hóa của Đồn Văn Chúc, Viện Văn hóa và NXB Văn
hóa - Thơng tin, xuất bản năm 1997 lại cho rằng: Văn hóa - vơ sở bất tại: Văn hóa khơng nơi nào khơng có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con ngƣời
trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con ngƣời, nơi đó có văn hóa.
Trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP Hồ Chí Minh, 1997; Trần
Ngọc Thêm đƣa ra định nghĩa: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất
và tinh thần do con ngƣời sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội của mình (Dẫn
theo Bách khoa tồn thư mở Wikipedia, nguồn: ).
Phan Ngọc lại cho rằng văn hóa khơng phải là một thực thể, một vật mà là
một kiểu quan hệ: “Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tƣợng và thế giới thực tại.
Quan hệ ấy biểu hiện thành kiểu lựa chọn riêng của một tộc ngƣời, một cá nhân so
với một tộc ngƣời khác, một cá nhân khác” [46;26]. Định nghĩa này có điểm gần
gũi với quan điểm của UNESCO - Tổ chức khoa học và giáo dục Liên hợp quốc:
Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.
Nhƣ vậy, văn hóa dù hiểu theo cách nào thì cũng đều là thành quả của quá
trình cá nhân và cộng đồng tạo lập gƣơng mặt đời sống riêng cho mình, để sống một
cuộc sống nhiều mặt phong phú, giàu ý nghĩa và đầy tính nhân văn.
Văn hóa, nhƣ đã nói, là diện mạo của cá nhân và cộng đồng. Cho nên nói tới
văn hóa khơng thể khơng động chạm đến vấn đề bản sắc văn hóa. Đó chính là “một
tổng thể các đặc trƣng của văn hóa, đƣợc hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá
trình lịch sử của dân tộc, các đặc trƣng văn hóa ấy mang tính bền vững, trƣờng tồn,
trừu tƣợng và tiềm n, do vậy muốn nhận biết nó phải thơng qua vơ vàn các sắc thái
văn hóa, với tƣ cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là
cái trừu tƣợng, tiềm n, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó tƣơng đối cụ thể,
bộc lộ và khả biến hơn” [12;38]. Nhƣ vậy, “nói đến bản sắc văn hóa là nói đến nét
13
đặc thù, phần ổn định trong văn hóa nhƣng đó khơng phải là một vật mà là một loại
hình quan hệ. Do đó, có thể chiêm ngƣỡng nó dƣới một số góc độ, nhƣng về cơ bản
khơng thể nhận diện đƣợc nó chỉ bằng mắt thƣờng. Bản sắc văn hóa là căn cƣớc,
đặc điểm nhận dạng của một nền văn hóa, là sắc thái gốc khơng thể trộn lẫn từ cội
nguồn văn hóa, đƣợc hình thành trong suốt chiều dài lịch sử của cộng đồng, là
phƣơng thức để tồn tại và biểu hiện của một cộng đồng xã hội” [46; 38].
Hiểu bản sắc văn hóa nhƣ là phần tinh hoa căn cốt của một nền văn hóa, sẽ
thấy rằng dấu ấn bản sắc văn hóa ấy sẽ hiển hiện trong mọi sinh hoạt văn hóa của
cộng đồng, trong đó có văn học.
1.1.3. Đối thoại văn hố
Phần trình bày của chúng tôi dƣới đây dựa trên nền tảng tƣ tƣởng đƣợc giới
thuyết trong các cơng trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trƣớc.
Trong lí thuyết về tiểu thuyết của Bakhtin, đối thoại là nền tảng. Trên cơ sở
đối chiếu với tiểu thuyết Dostoievski (tiểu thuyết đa thanh) và tiểu thuyết truyền
thống (tiểu thuyết đơn thanh/độc thoại), Bakhtin đã khẳng định tính đa thanh của
tiểu thuyết hiện đại. Đa thanh là việc tổ chức đồng thời nhiều tiếng nói khác nhau.
Văn bản đa thanh gồm nhiều giọng: giọng nhân vật, giọng ngƣời kể chuyện, giọng
tác giả tạo độ căng và sự tƣơng phản đáng kể bởi những giá trị tự thân và sự độc lập
của các “tiếng nói” [51; 69]. Đây chính là cơ sở để khẳng định tính chất đối thoại
trong tiểu thuyết
Trong những nghiên cứu của mình về lí thuyết đối thoại, Bakhtin cịn chỉ ra
các cấp độ của đối thoại.
Trƣớc hết là đối thoại trong tƣ tƣởng triết học - mỹ học. Đối thoại trong tƣ
tƣởng triết học – mỹ học của Bakhtin có nguồn gốc sâu xa từ thể loại đối thoại kiểu
Socrate (theo cách gọi của Bakhtin trong Những vấn đề thi pháp Dostoievki).
Bakhtin cũng dừng lại ở những điểm có ý nghĩa đặc biệt trong đối thoại kiểu
Socrate: quan niệm của Socrate về bản chất đối thoại của chân lí và của sự suy nghĩ
của con ngƣời về chân lí và trong q trình đối thoại giao tiếp với nhau. Từ đây, đối
thoại trên bình diện tƣ tƣởng - mỹ học của Bakhtin đã chỉ ra rằng: chỉ có thể thơng
14
qua đối thoại, ý thức con ngƣời mới thực sự tồn tại sống động. Vì vậy, đối thoại
chính là triết học nhân bản của Bakhtin với những tổng kết: Đối thoại là bản chất
của ý thức, bản chất của tƣ duy, hay “nhận thức bắt đầu ở đâu, đối thoại bắt đầu ở
đó”. Mục đích cải tạo mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời bằng đối thoại là
triết học nhân sinh sâu sắc mà Bakhtin luôn hƣớng tới. “Đối thoại trên bình diện
triết học – mỹ học của Bakhtin là nhân bản bởi lẽ trên tinh thần khám phá chiều sâu
bên trong con ngƣời, đặt con ngƣời vào mơi trƣờng đối thoại ln cuộn sóng,
Bakhtin ln chống lại sự phán xét con ngƣời sau lƣng và mãi mãi con ngƣời vẫn
chƣa nói lời tận quyết về mình. Chỉ có nhƣ vậy mới có thể tìm ra con ngƣời trong
con ngƣời một cách triệt để nhất”[20;38].
Ở cấp độ đối thoại thứ hai là đối thoại trong tƣ duy nghệ thuật. Đối thoại
trong văn học là hình thái nghệ thuật ngơn từ có sự thống nhất hữu cơ giữa hình
thức và nội dung, giữa hình thức và tƣ tƣởng. Đối thoại trong nghệ thuật gắn chặt
với lịch sử, tƣ tƣởng, với hình thái ý thức xã hội, ý thức hệ, triết học, văn hoá, th m
mĩ. Đối thoại trong nghệ thuật, cụ thể là văn học hay bất kì loại hình nghệ thuật nào
cũng địi hỏi khung khép kín giữa ngƣời sáng tạo, ngƣời tiếp nhận và nhà phê bình.
“Bakhtin là ngƣời chỉ ra đối thoại trong tƣ duy nghệ sĩ của Dostoievski đối với nhân
vật trên ba mặt: sự tự do và độc lập tƣơng đối của nhân vật cũng nhƣ tiếng nói của
nó trong cấu tứ đa thanh; sự xác lập đặc biệt của tƣ tƣởng trong cấu tứ đó và cuối
cùng là nguyên tắc liên kết mới tạo thành chỉnh thể của tiểu thuyết. Trong sáng tạo
nhà văn phải có ý thức trao quyền bình đẳng cho nhân vật, để nhân vật là chủ thể
độc lập, ngang hàng, tiếng nói cá nhân đối thoại với tác giả” [20;45]. Trƣờng hợp
văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 đặc biệt là sau đổi mới 1986 là một ví dụ khi
những vấn đề của đời sống, con ngƣời, vận mệnh dân tộc đƣợc diễn giải theo cách
thức đối thoại mở ngỏ giữa tác giả - nhân vật, tác giả - ngƣời đọc…
Cấp độ đối thoại thứ ba là đối thoại trong tƣ duy văn hố. M.Bakhtin hiểu
văn hóa nhƣ hình thức giao tiếp của những con ngƣời thuộc những nền văn hóa
khác nhau, nghĩa là nhƣ hình thức đối thoại. Ơng viết: “Văn hóa có ở nơi (ít nhất)
có hai nền văn hóa và sự tự ý thức của nền văn hóa là hình thức tồn tại của nó trên
15
ranh giới (tiếp xúc) với một nền văn hóa khác”[7;15]. Sự giao tiếp không chỉ diễn ra
hôm nay mà cả với quá khứ và với tƣơng lai (đƣợc giả định). Từ sự gợi mở tƣ duy
đối thoại trên bình diện văn học tới văn hoá, gắn với các vấn đề tơn giáo, tín
ngƣỡng, đối thoại giữa các nền văn hố phƣơng đơng – phƣơng tây đã xố bỏ tính
tự trị của một nền văn hố độc tơn, tạo mơi trƣờng giao lƣu văn hố, hồ giải các
xung đột và khác biệt văn hố để vừa hồ nhập vừa giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Phát triển trên cơ sở những nguyên lí đối thoại của Bakhtin, đối thoại trở
thành một đặc tính của văn học Việt Nam sau đổi mới, xuất phát từ nhu cầu nhận
thức lại chân giá trị của đời sống và của chính văn chƣơng trên cơ sở những quan
điểm, tƣ tƣởng nhân văn tiến bộ của thời đại mới. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
nói chung và tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh nói riêng cũng mang âm vang mạnh
mẽ của tinh thần đối thoại trong văn chƣơng đƣơng đại. Chỉ có điều, ở Nguyễn
Xuân Khánh, cơ sở của sự đối thoại ở đây là những nền tảng văn hố truyền thống
(tƣ tƣởng, tơn giáo, đạo đức – những phạm trù đặc biệt của văn hoá) chứ khơng phải
là những tƣ tƣởng chính trị xã hội hay những tƣ tƣởng triết mĩ đang thịnh hành
trong văn giới. Từ đó, các lớp văn hố bản địa dần dần đƣợc hé lộ trong sự soi chiếu
với các nền văn hố khác trên cuộc hành trình của nhà văn vừa tìm về với bản thể,
cội nguồn dân tộc vừa hƣớng ra ngoại giới theo xu thế hợp tác, giao lƣu văn hoá
quốc tế.
1.2. Những tiền đề của đối thoại văn hoá trong Mẫu Thượng ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh
1.2.1. Xu thế đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì sau đổi mới
Đại thắng lịch sử mùa xuân năm 1975 dẫn đến những thay đổi lớn trong đời
sống văn hóa, xã hội nƣớc nhà. Dân tộc Việt Nam bƣớc sang một trang sử mới: hàn
gắn, phục hồi vết thƣơng chiến tranh và bắt đầu xây dựng cuộc sống tự do. Tuy
nhiên, trong bối cảnh hậu chiến, con ngƣời của thời kì hịa bình phải đối mặt với
một hiện thực phức tạp khác. Xã hội mới kéo theo sự biến đổi không chỉ ở bề mặt
mà cả ở bề sâu trong tâm lý và nhận thức mỗi ngƣời. Tinh thần đề cao tính cộng
đồng, hi sinh lợi ích cá nhân cho độc lập dân tộc bị phá vỡ. Chân lý của thời chiến,
16
ở thời kỳ này trở nên lạc lõng. Đất nƣớc đứng trƣớc những khó khăn, thử thách dẫn
đến sự khủng hoảng nghiêm trọng trên mọi phƣơng diện: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội… Trong hồn cảnh đó, đổi mới là con đƣờng tất yếu đảm bảo cho sự phát
triển và cũng là nguyện vọng của dân tộc sau hơn ba mƣơi năm chìm trong lửa đạn.
Đại hội Đảng lần VI (1986) mở ra bƣớc ngoặt, đem lại sự chuyển biến mạnh mẽ,
tích cực về nhiều mặt. Nguyên lí đối thoại trong văn học xuất hiện cùng diễn trình
đổi mới với những thay đổi của đời sống lịch sử, văn hóa, xã hội.
Nhƣ vậy những chuyển động trong đời sống lịch sử, xã hội, văn hoá sau
1975 đặc biệt từ sau đại hội Đảng VI/1986 đem đến những thay đổi bƣớc ngoặt
trong đời sống xã hội Việt Nam. Sự thay đổi này là tiền đề dẫn đến sự xuất hiện
nguyên lí đối thoại trong đời sống văn học Việt Nam đƣơng đại nói chung, tiểu
thuyết nói riêng trên tinh thần nhận thức lại. Sự thay đổi này gắn với tên tuổi nhiều
nhà văn nổi tiếng: Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng Giác, Trần Thu
Hằng, Nam Dao, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Xuân Khánh…
Văn học Việt Nam kể từ sau 1975 đã có sự đổi mới rõ nét trong quan niệm
về hiện thực, về con ngƣời. Cuộc sống và con ngƣời trong văn học thời kì này hiện
lên phong phú, đa dạng hơn nhiều so với những sáng tác thời kì trƣớc. Đó là một
cuộc sống bộn bề với nhiều góc cạnh, hiện lên qua cái nhìn đa chiều, đa diện trên
những trang văn của Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Tướng về hưu
(Nguyễn Huy Thiệp), Mê lộ (Phạm Thị Hoài), Một cõi nhân gian bé tí với những
Vịng sóng đến vơ cùng (Nguyễn Khải)…
Văn học sau 1975 cũng giảm dần giọng điệu sử thi, ca ngợi, thay vào đó là
chất giọng suy tƣ đối thoại. Theo TS. Nguyễn Thị Bình, đó là sự đối thoại giữa
những nguyên tắc cộng đồng với đời sống cá nhân mn vẻ (Bức tranh, Chiếc
thuyền ngồi xa…) đối thoại với cái nhìn lịch sử đã quen thuộc (Cỏ lau, Phiên chợ
Giát), đối thoại với quan niệm lí tƣởng hoá con ngƣời, giữa quá khứ - hiện tại, giữa
bản lĩnh, nhân cách, cá tính với số phận của mỗi con ngƣời. Ở giai đoạn này, con
ngƣời một mặt vẫn đƣợc nhìn nhận nhƣ những chủ thể chủ động trong công cuộc
17
đổi mới đất nƣớc (Gặp gỡ cuối năm, thời gian của người, Cù lao tràm, Ăn mày dĩ
vãng…) mặt khác con ngƣời đƣợc đặt trong thế đối thoại với lịch sử, văn hố, đối
thoại với chính mình (Hồ Q Li, Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa, Thân phận
tình yêu, Chim én bay…). Đó là một cuộc đối thoại lớn, sôi nổi, ráo riết trong văn
học nhằm nhận thức lại những chân giá trị hằng thƣờng của đời sống mà dƣờng nhƣ
khơng có ai (tác giả, ngƣời đọc, nhân vật…) là ngƣời ngồi cuộc. Đó là tinh thần
dân chủ mà văn học thời kì này hƣớng tới.
Bên cạnh những đổi mới trên bình diện ý thức nghệ thuật của ngƣời cầm bút,
không thể không kể đến những đổi mới trong hình thức trần thuật. Văn xi giai
đoạn 45-75 có khuynh hƣớng tác động đến ngƣời đọc bằng chân lí có sẵn của nhà
văn, điểm nhìn trần thuật do tác giả đảm nhiệm, thƣờng cả tác ph m đƣợc viết ra
dƣới một điểm nhìn thống nhất. Văn xi sau 1975 thay quan hệ độc thoại một
chiều bằng quan hệ đối thoại đa chiều trong khơng khí dân chủ, rộng mở. Ngƣời
đọc khơng bị áp đặt chân lí mà đƣợc quyền bình đẳng với nhà văn trong hành trình
kiếm tìm chân lí. Từ đó, nhà văn có sự đa bội hố điểm nhìn trần thuật, gia tăng
điểm nhìn nhằm “khiêu khích” những đối thoại, dịch chuyển điểm nhìn nhằm đề
cao tính đối thoại…Bên cạnh đó là sự thay đổi trong cấu trúc trần thuật, giọng điệu
văn xuôi cũng trở nên đa dạng chuyển tải những nhu cầu đối thoại của nhà văn.
Tất cả những đổi thay ấy trong văn học Việt Nam sau 1975 đã trở thành
những tiền đề cho sự cách tân theo xu hƣớng tiểu thuyết hoá trên tinh thần đối thoại
trong sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh nói chung và tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn
nói riêng
1.2.2. Sự lựa chọn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
1.2.2.1. Lựa chọn về kiểu loại: Tiểu thuyết văn hố – lịch sử
Văn xi đƣơng đại đã chứng kiến sự thể nghiệm của tiểu thuyết trên nhiều
khuynh hƣớng, nhiều kiểu loại khác nhau. Tiếp cận đời sống trong bản chất của nó
hay nhìn đời sống từ góc nhìn văn hố – lịch sử là hƣớng đi của nhiều tiểu thuyết
gia trong nền văn học đƣơng đại trong đó có Nguyễn Xuân Khánh. Xuất phát từ
những nung nấu của Nguyễn Xuân Khánh khi muốn viết về một cái gì đó thật sâu
18
sắc về văn hoá làng Việt phải chăng đã là một thứ “duyên nợ” đƣa nhà văn đến với
kiểu loại tiểu thuyết văn hố - lịch sử? Đó là kiểu loại tiểu thuyết viết theo khuynh
hƣớng “lịch sử hoá” lấy lịch sử làm chất liệu để nhào nặn, hƣ cấu nên thế giới nghệ
thuật của riêng mình; Bên cạnh đó lấy văn hố làm chất liệu, soi chiếu mọi bình
diện của đời sống qua lăng kính văn hố từ đó đem đến những kiến giải mang tính
luận đề về con ngƣời, về thời đại. Dấu ấn tiểu thuyết lịch sử đậm nét trong Hồ Q
Ly thì dấu ấn văn hố đậm nét trong hai tiểu thuyết sau của ông là Mẫu Thượng
ngàn và Đội gạo lên chùa. Đội gạo lên chùa mang đậm dấu ấn của văn hố Phật
giáo cịn Mẫu Thượng ngàn đi sâu khai thác “văn hoá làng Việt Nam lúc ngƣời
Pháp mới sang, về cuộc giao lƣu văn hố nơng thơn bản địa và văn hố tây”[47;4].
Trên cuộc hành trình thể nghiệm thể loại tiểu thuyết văn hố lịch sử ấy, có lúc
Nguyễn Xn Khánh dùng lịch sử để kiến giải về văn hố, có lúc ơng lại dùng văn
hoá để kiến giải về lịch sử. Lịch sử và văn hoá cứ đan bện, xen cài vào nhau trong
mỗi trang văn Nguyễn Xuân Khánh để đem đến dấu ấn, dáng dấp riêng không trộn
lẫn cho tiểu thuyết của ông.
1.2.2.2. Lựa chọn về tư tưởng nghệ thuật: Tiểu thuyết như một đối thoại về
lịch sử - văn hoá
Thay đổi đời sống lịch sử, xã hội, văn hoá dẫn đến sự thay đổi trong văn học.
Ngoài qui luật khách quan, sự vận động tự thân của văn học luôn có ý thức vƣợt qua
các qui phạm, vƣợt qua tính đơn thanh để hƣớng tới tính đa thanh. Vì thế nguyên lí
đối thoại trên tinh thần nhận thức lại trở thành xu hƣớng nổi bật thậm chí có thể nói
là thời thƣợng trong văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt sau 1986 mà xu hƣớng
này diễn ra tập trung nhất ở thể loại tiểu thuyết. Nguyễn Thuý Hằng trong luận án
tiến sĩ Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 đã viết:
“Với nhiều cách lựa chọn, viết tiếp, viết lại hay mƣợn lịch sử nhƣ là cái cớ để nhà
văn thi triển và công khai tƣ tƣởng cá nhân đã tạo nên một làn sóng sơi động trên
văn đàn. Trên phƣơng diện nhận thức lại các giá trị lịch sử, tiểu thuyết đƣơng đại
nổi bật lên các vấn đề: nhận thức lại chiến tranh từ góc độ nhân bản, cá nhân; nhận
thức và nhu cầu thụ hƣởng, diễn giải lịch sử (khơi mở những bí mật, khuất lấp; phân
19
tích những góc khuất của đời tƣ, số phận; giả định/giải lịch sử; truy tìm và luận giải
những thành tố kết tinh văn hoá và bản sắc dân tộc trong tâm thế hậu hiện đại,
không gian phẳng…Đây là những vấn đề cấp thiết nhà văn đặt ra trên tinh thần đối
thoại”[20; 61]. Lúc này nhà văn có quyền cơng khai bày tỏ sự thức nhận của mình
trƣớc những chân lí, tín điều, những kinh nghiệm cộng đồng đã và đang tồn tại
trong tâm thức và suy nghĩ của con ngƣời trong q khứ và hơm nay. Tiểu thuyết
gia có thể “phán xét cả lịch sử, chƣng cất lại lịch sử, “cãi ngầm” với sử học về nhân
sinh, thế sự để giúp nhận thức thêm, nhận thức lại lịch sử”[7;44]. Độc giả vì thế mà
cũng khơng thể tìm thấy trong trang viết của các tiểu thuyết gia những phán xét duy
nhất đúng mà chỉ thấy những luận giải để truy tìm, giải mã những chân lí phổ qt
nhằm tìm ra bài học cho hiện tại. Ở đó hầu nhƣ khơng có những kết luận, chỉ có
những “khung cửa sổ” mở ra thế giới bên ngoài vốn bao la mà một ngƣời khơng thể
cắt nghĩa đƣợc, chỉ có thể đƣợc cắt nghĩa nhờ vào “chân trời của những độc giả”.
Trong xu hƣớng đối thoại chung của tiểu thuyết Việt Nam thời kì sau đổi
mới, Nguyễn Xuân Khánh đã và đang giữ một vị trí quan trọng góp phần làm nên
diện mạo, gƣơng mặt của tiểu thuyết giai đoạn này.
Cái tên Nguyễn Xuân Khánh đƣợc nhắc lại nhiều lần trên văn đàn với bộ ba
tiểu thuyết: Hồ Quí Ly (2000), Mẫu Thượng ngàn (2006) và Đội gạo lên chùa
(2011). “Không giễu nhại, cũng khơng hồi nghi bản chất và phủ nhận lịch sử, sức
hấp dẫn của diễn ngôn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh chủ yếu nằm ở tính đối
thoại. Nguyên lí đối thoại là nguyên lí cơ bản của tiểu thuyết hiện đại, và tính đối
thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh cho thấy rõ hơn xu thế tiểu thuyết hoá
là xu thế ƣu thắng trong văn học Việt Nam sau 1975. Nó quy định cách tổ chức tự
sự, cách xây dựng nhân vật lƣỡng diện, soi chiếu cùng lúc các quan điểm để đảm
bảo tính dân chủ trong tự sự” [16; 11]. “Trung thành với các sự kiện lịch sử, tái hiện
chân thật bức tranh thời đại, với Nguyễn Xuân Khánh đó khơng phải là mục đích
cứu cánh mà chỉ là phƣơng tiện để nhà văn luận giải, đối thoại với lịch sử và độc
giả. Cái đích cuối cùng của nhà văn là truy tìm, giải mã những chân lí có tính phổ