Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Bảo tồn và phát triển di sản văn hóa kiến trúc: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.42 MB, 116 trang )

VÈ DI T ÍC H Đ Ư Ờ N G HẦM DINH GIA LO NG

ThS. Đinh Thị Thanh Thủy
Sự kiện xây hầm bí mật trong Dinh Gia Long (nay là Bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh) đã làm tốn hao rất nhiều giấy mực của các
nhà báo những năm 60 thế kỷ XX và các nhà nghiên cứu sử học. Đến
nay vẫn cịn có rất nhiều ý kiến, nhiều tư liệu được đưa ra, tập trung
quanh việc thời gian xây dựng đường hầm.
1. Từ những tài liệu viết về hầm bí mật:
Sau đêm đảo chánh lật đổ gia đình họ Ngô ngày 01/11/1963, báo
giới bấy giờ đồng loạt đưa tin về cái chết của hai anh em Diệm - Nhu
và thêu dệt về sự bí ẩn của căn hầm trong Dinh Tổng thống.
Ly kỳ nhất về việc xây dựng đường hầm là tiểu thuyết “Đệ nhất
phu nhân”. Câu chuyện thiết kế đường hầm gắn với cái tên Võ Đức
Diên (giám đốc Nha Thiết kế). Tiểu thuyết kể ông Diên đã vẽ đồ án
theo ý kiến của Lê Quang Tung với ba con đường thốt ra ngồi:
đường thứ nhất từ Dinh Gia Long đâm ra sơng Sài Gịn, đường thứ hai
từ Dinh ra Nhà thờ Đức Bà rồi luồn thẳng đến trường Nhà trắng (nay
là trường Trung học Sư phạm Mầu giáo), đường thứ ba từ Dinh chạy ra
Chợ Lớn trổ ra Nhà thờ Cha Tam. Võ Đức Diên vẽ xong bản đồ thì
Nhu thưởng tiền, mời một ly ca phê và đã chết sau đó 24 tiếng đồng
hồ. Hồn tất ngày 28/10/1963 thì hai ngày sau, tức ngày 01/11/1963,
xảy ra đảo chánh.
Bài phóng sự “Sau khi thám hiểm đường hầm trở lên” trên báo
Buổi sáng ngày 16/11/1963 có đoạn viết: “Hầm dưới Dinh Gia Long
kể ra cũng vững chác vì tồn bàng xi măng, chắc hẳn bên trong phải có
cốt sắt. Dưới đất vẫn cịn vết tích của gần hai tuần khơng được săn sóc,
rác rến ngổn ngang, thỉnh thoảng có miểng kiếng và vỏ đạn. Cái phịng
đầu tiên ghé vào là phịng vơ tuyến điện, cịn thấy hai ba máy nhỏ nằm
lăn kềnh ra. Đi một đoạn khác có ngõ rẽ tay trái mà đứng đầu là cái
phòng nhỏ cũng có cửa sắt cẩn thận, nhưng bên trong lại trống rỗng.


* Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh.

112


(...) Dưới hầm trổ lên là ngay miếng vườn nhỏ ở cạnh đường Lê
Thánh Tơn. Có hai ngõ trổ lên vườn (gọi là vườn Song Thọ vì cỏ cắt
xén rải sạn trắng thành hai chữ “Thọ”); mỗi ngõ đều có xây lô cốt kiên
cố. Điểm đặc biệt là mỗi lô cốt đều có lỗ chĩa súng ra n g o ài...”
Báo Tiếng chuông ngày 16/11/1963 viết: “Từ cửa hầm nơi phịng
ơng Diệm, chúng tơi xuống đường hầm trổ lên miệng hầm, trong vịng
rào Dinh Gia Long, cạnh phía đường Cơng Lý, trước khi đụng sân
quần vợt sát đường Lê Thánh Tôn. Một sĩ quan cho tôi biết là tuy hiện
giờ cịn lắm ngách chưa đi, nhưng chắc chấn khơng có đường hầm nào
ăn thông đến sở Ba Son”.
Trên tờ báo Buổi sáng ngày 19/11/1963, một ký giả Hoa Kỳ cho
rằng khoảng 8 giờ 30 phút đêm 01/11/1963, Diệm và Nhu trốn khỏi
Dinh Gia Long không phải theo đường hầm mà là lên bộ ra ngồi, chui
vào ơ tơ loại Deux Chevaux và thoát khỏi Dinh theo đường Pasteur,
chạy vào biệt thự của Mã Tuyên ờ Chợ Lớn. Sáng hôm sau, Diệm Nhu đến Nhà thờ St Francois Xavier (Nhà thờ Cha Tam) lúc 8 giờ 45
phút. Ngay sau đó quân đảo chính ập vào bắt hai người lên xe M.l 13.
Và thế là chấm dứt cuộc đời Diệm - Nhu.
Theo “Nhật ký Đỗ Thọ” (cận vệ của Ngơ Đình Diệm) thì hầm có
hai cửa nhưng có năm lối vào. Một lối đi ăn thơng với phịng ngủ của
Diệm ờ trên lầu. Một lối đi cũng như thế ăn thông với phịng vợ chồng
Nhu qua hành lang (phía đường Pasteur). Tầng dưới Dinh cũng có hai
cửa đi vào hầm được. Cịn một cửa ở trên cỏ dùng cho lính cận vệ ra
vào. Trên mặt hầm có hai trụ thơng hơi, ở đó có đặt súng đại liên bảo
vệ hẩm ...). Hầm ăn thơng với nhau qua những cánh cửa nhỏ. Phía bên
Ơng Diệm có một phịng khách, một phịng ngủ, và một phòng tắm.

Phòng khách đặt chiếc bàn tròn, một cái ghế bành, sát tường một chiếc
ghế tràng kỷ. Phía ơng Nhu cũng có ba phịng, một lớn hai nhỏ nhưng
cịn trống rỗng, khơng có dụng cụ nào cả.
Với những tài liệu trên, năm 1989, Bảo tàng Cách mạng (tên gọi
trước của Bảo tàng Thành phố) đã có báo cáo khảo sát thực tế cấu trúc
của hầm và đường xuống hầm. Thông tin về thời gian xây dựng đường
hầm được nhận định là từ năm 1962 đến trước tháng 11/1963, sau sự
kiện hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh
113


Độc Lập ngày 27/02/1962, buộc tổng thồng Ngơ Đình Diệm phải
chuyển sang Dinh Gia Long và trước sự kiện đảo chính ngày
01/11/1963.
2. Đen các cứ liệu mói về hầm trong Dinh Gia Long:
Năm 1999, tại buổi tọa đàm về Dinh Khâm sai (tên gọi khác của
Dinh Gia Long) trong Cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Sài Gòn, nhà
văn Phạm Tường Hạnh có đề cập đến vấn đề đường hầm trong tịa nhà
này. Năm 1944, ơng cùng bạn là Vương Trọng Tôn - là những hưởng
đạo sinh - thường phải đến Dinh Gia Long phục vụ mỗi khi có báo
động. Các ông được Dinh Thống đốc cấp cho băng đeo tay và giấy
chúng nhận để ra vào.
Theo trí nhớ của nhà văn Phạm Tường Hạnh, đường hầm có bốn
cửa, có đường dẫn từ phòng của thống đốc xuống hầm và đường để
thốt ra. Bấv giờ có hai đường hầm xây bên ngồi rất tiệp với kiến trúc
ngơi nhà, một hầm đi xuống và một hầm đi lên; có hai cửa hầm nữa
dành cho bồi bếp và phục vụ (hướng ra đường Lê Thánh Tôn). Những
hướng đạo sinh phục vụ ngồi ở cửa hầm bên đường Pasteur. Khi có
báo động, mọi người lánh xuống hầm, còn những hướng đạo sinh lănh
mật lệnh, công văn từ Dinh Thống đốc mang đến cơ quan nào đó, rồi

nhận biên nhận đem về nộp. Ơng Hạnh cho biết tài liệu năm 1941 1942 ông không có, nhưng khi Mỹ bắt đầu ném bom Sài Gịn năm
1944 thì đã có đường hầm này rồi. ơng Hạnh khẳng định đường hầm
này xây từ thời Pháp, đến thời Ngơ Đình Diệm thì cho tu bổ lại với
mục đích phòng biến.
Những nhân vật lịch sử tham gia cắm cờ ở Dinh Khâm sai đêm
24/8/1945 như ông Cao Đăng Chiếm - nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ,
ông Lê Thanh Vân - nguyên Giám đốc Sở Công an Thành pho; và ông
Huỳnh Văn Tiểng - nguyên Phó Chủ tịch ủ y ban Kháng chiến Nam Bộ
làm việc nơi đây vài ngày sau Cách mạng Tháng Tám cũng xác nhận
có nhìn thấy đường hầm theo kiểu tranch trong Dinh.
Trí nhớ và thống thấy, tất cả chưa đủ sức thuyết phục mọi người
so với những tài liệu trước nay đã biết. Nểu như nhà văn Phạm Tường
Hạnh từng nói khơng có tài liệu năm 1941-1942, thì văn bản bằng
tiếng Pháp số 458 DN/Coch của Văn phòng Thống đốc thuộc Dinh
114


Thông đốc Nam Kỳ ngày 30/01/1942 về hiệu lệnh báo động, được lưu
giữ tại Cục Lưu trữ Trung ương II đã hoàn toàn làm sáng tỏ vấn đề
thời gian xây dựng của đường hầm trong Dinh Gia Long. Văn bản này
quy định tín hiệu báo động, báo yên và quy định lối lên, xuống hầm
theo trật tự đối với những người có mặt trong Dinh.
Văn bản lược dịch như sau:
- Tín hiệu báo động: cịi hụ từng hồi cao thấp, kéo dài trong 4
phút, chuông đổ liên hồi trong 4 phút.
- Tín hiệu báo n: cịi hụ khơng cao thấp trong 3 phút, chuông
ngân đều trong nhiều phút.
- Báo động ban ngày: khi nghe báo động, toàn thể nhân viên văn
phịng phải đóng tất cả cửa cái, cửa sổ, cửa phịng làm việc; sau đó
xuống hẩm trú ẩn một cách trật tự. Lái xe và người giúp việc của văn

phòng phải vào hầm trú ẩn; phụ nữ và trẻ em vào các hầm trú riêng
được đào cạnh các thảm cỏ bên phía Tây của Dinh. Các lái xe phải mở
các lưới sắt che chẳn thông ra sân của garage.
- Báo động ban đêm: cách bố trí như báo động ban ngày, nhưng
mọi việc phải bắt đầu từ sau khi tắt tất cả đèn trong tòa nhà. Tuyệt đối
cấm sừ dụng đèn pin, diêm quẹt và tất cả các nguồn phát sáng khác.
- Trường hợp hỏa hoạn: khi có báo động, tốn phịng cháy chữa
cháy (gồm các thành viên đã phân cơng tại văn bản này) phải có mặt
ngay ở hầm trú ẩn phía Tây của Dinh; và sẽ được giao một số dụng cụ
cứu hỏa ban đầu như: bình chữa lửa, nước, xô, xẻng, c á t...
Với văn bản này, có thể nhận định đường hầm trong Dinh Gia
Long năm 1942 đã có và do Pháp xây (lựng. Một số ý kiến cho rằng
Nhật xây là khơng chính xác vì tòa nhà chỉ là của viên thống đốc Nhật
Minoda trong khoảng từ tháng 3/1945 đến cuối tháng 7/1945 (sau đó
giao cho khâm sai Nguyễn Văn Sâm). Thiêt kế đường hầm hiện nay có
thể được Diệm cho sửa chữa, cải tạo thêm trên nền đường hầm đã có
từ trước.

115


3. Xác định thòi điểm xây dựng đường hầm:
Cũng tại Cục Lưu trữ Trung ương II, các văn bản liên quan đốn
việc xây dựng đường hầm trong Dinh Gia Long đã xác định được thời
điểm triển khai việc xây cất gồm:
- Công điện số 2836 DN/Coch ngày 27/8/1943 của viên thống
đốc Hoeffiel gởi cho ông kỹ sư Giám đốc Sở Công chánh, bộ phận nhà
ờ dân sự, thông báo về việc u cầu xây dựng cơng trình phịng thủ thụ
động, bảo vệ đường dây điện thoại ngầm với tổng đài điện thoại hầm
trú ẩn của cơ quan chỉ huy phòng thủ địa phương và văn phịng Dinh.

- Cơng văn số 1712 S/D ngày 15/9/1943 của Giám đốc Sở Công
chánh trinh phúc đáp thống đốc Nam Kỳ, báo cáo dự toán chi phí cơng
trình trên là 1.500$.
- Cơng điện số 33 ffu BN/Coch ngày 07/10/1943 của thống đốc
Hoeffiel trả lời ông Giám đổc Sở Công chánh về việc đồng ý duyệt chi
số tiền theo dự tốn đã trình.
- Cơng văn số 5030 D ngày 12/11/1943 của kỹ sư Phó Vụ trưởng
Vụ Kiểm sốt - Sở Cơng chánh Nam Kỳ trình thống đốc Hoeffíel về
việc phân tích, chọn lựa một trong năm nhà thầu Sài Gịn; dự tốn kinh
phí xây dựng cơng trình phịng thủ thụ động khu vực Dinh Thống đốc
là 4.900$; và xin thời gian bàn giao cơng trình co giãn trong 2 tháng.
- Công văn số 41 D/S ngày 12/02/1944 của Phó Giám đốc Sở
Kiểm sốt gởi thống đốc Nam Kỳ bản vẽ hầm trú ẩn trong Dinh và
đồng thời báo cáo với thống đốc về việc đã lệnh cho Công ty Brossard
Mopin chịu trách nhiệm xây cất - khởi công xây dựng.
Như vậy, đối chiếu lời kể của nhà văn Phạm Tường Hạnh với các
công văn lưu trữ hành chính của nhà cầm quyền Đơng Dương xung
quanh việc xây dựng cơng trình đường hầm phịng thủ thụ động Dinh
Gia Long, đã có cơ sở kết luận về thời điểm xây dựng đường hầm: cuối
năm 1943, đầu năm 1944. Cịn văn bàn ngày 30/01/1942 cho phép
nhìn nhận đường hầm đầu tiên có thể là dạng hầm trú dã chiến.
4. Xác lập hồ sơ di tích:
Đường hầm Dinh Gia Long trong khn viên của Bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh với bản vẽ kiến trúc đã có và những tài liệu
116


có giá trị lịch sử sưu tầm được qua nhiều năm, đã hội đủ điều kiện để
những nhà quàn lý nhà nước về di sản văn hóa xem xét, lập hồ sơ xếp
hạng di tích.

Đây là kiểu di tích nằm trong di tích - di tích đường hầm Dinh
(ìia Long trong di tích tịa nhà Bảo tàng Thành phổ. x ếp hai di tích
này vào dạng di tích kiến trúc nghệ thuật hoặc di tích lịch sử đều có giá
trị riêng của nó.
Kiến nghị Thành phố Hồ Chí Minh xác lập hồ sơ xếp hạng di tích
Đường hầm Dinh Gia Long để có kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị
di sản, đưa di tích độc đáo này vào chương trình tham quan, du lịch đối
với khách trong và ngoài nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. No 485-DN/Coch: Consigne d ’ Alerte, Cabinet du Gouvemeur
- Gouvemement de la Cochinchine, Saigon, le 30 Janvier 1942.
2. No 2836 DN/Coch: Défense Passive Protection des Standards
Téléphoniques, Gouverneur à Ingénieur en Chef des Trauvaux Publics,
Saigon, le 27 Aout 1943.
3. No

1712 S/D: Protection des Standards Téléphoniques,

Travaux Publics - Cir/conscription de Cochinchine, Saigon, le 15
Septembre 1943.
4. No 33 ffu BN/Coch: Defense Passive Protection du Standard
du Cabinet, Saigon, le 7 Octobre 1943.
5. No 5030 D: Protection du Standard du Cabinet du Gouvemeur,
Travaux Publics de Cochinchine - Arrondissement Technique, Saigon,
le 12 Novembre 194.
6. No 41 D/S: Abri pour Standard du Goucoch, Travaux Publics
de Cochinchine - Arrondissement Technique, Saigon, le 2 Févier 1944.
7. Trần Tấn Nghi (1989), Hầm bí mật trong Dinh Gia Long của
Ngơ Đình Diệm, Báo cáo của Bảo tàng Cách mạng TP. Hồ Chí Minh.

8. Tài liệu ghi âm buổi tọa đàm Dinh Khâm sai tại Bảo tàng Cách
mạng Thành phố Hồ Chí Minh ngày 05/6/1999 (do Đinh Thị Thanh
Thủy ghi lại từ băng).
117


NHÀ C Ỏ DÂN GIAN T R U Y Ẻ N T H Ó N G
T R O N G BỐI CẢN H ĐÔ THỊ H O Á CỦA
T H À N H PHĨ HỊ CH Í M INH
H ồng A nh Tuấn*
Với hơn 300 năm hình thành và phát triển của Sài Gịn - Thành
phố Hồ Chí Minh, bộ mặt kiến trúc thành phố khá đa dạng. Từ kiến
trúc truyền thống trong buổi đầu mới hình thành đơ thị cho đến giai
đoạn du nhập kiến trúc Phương Tây qua các thời kỳ tạm chiếm cùa
Pháp, Mỹ kiến trúc thành phố thể hiện khá phong phú.
Trong 300 năm hình thành và phát triển, khá nhiều những cơng
trình kiến trúc tơn giáo và văn hoá đã được xây dựng trên mảnh đất Sài
Gòn - Gia Định này. Chỉ riêng về nhà ở dân dụng, thành phổ là nơi quy
tụ khá nhiều các kiến trúc của các bộ phận dân tộc đến sinh sống và cư
trú trên vùng đất mới này như Khmer, Hoa, Ẩn Đ ộ ... Nhiều cơng trình
kiến trúc đã được công nhận là những di sản kiến trúc có giá trị về lịch
sừ và văn hố.
Nhà cổ tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một bộ phận của di
sản kiến trúc đó. Theo thống kê sơ bộ của Phịng Di sản văn hố và Sở
Văn hóa - Thơng tin Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay thành phố còn
10 căn nhà đang trong danh sách khảo sát và đề nghị có phương án bảo
tồn. Trong đó số căn nhà của cố học giả Vương Hồng sển không
những được cơng nhận là một di tích kiến trúc cổ mà sắp tới khi những
cổ vật trong bộ sưu tập của ơng được đưa về đây thì căn nhà cịn trở
thành một bảo tàng cổ vật.

1. Nguồn gốc ra đòi
Những di tích kiến trúc cổ nhất cịn sót lại ở Thành phố Hồ Chí
Minh cũng chỉ được xây dựng vào thời Nguyễn. Có thể lý giải điều đó
khá đơn giản là vì tuổi đời của thành phố cũng cịn q trẻ, chưa có bề
dày lịch sừ như Hà Nội, Huế, mặt khác do chiến tranh tàn phá nặng nề
khiến cho nhiều kiến trúc đã bị phá huỷ. Nhà cổ dân gian truyền thống
* Phó Giám đốc - Bào tàng Thành phố Hồ Chí Minh.

118


ở thành phố cũng vậy, phần nhiều được xây dựng vào thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX với vật liệu chủ yếu bàng gồ: khung nhà, cột, kèo...
2. Chủ nhân của những kiến trúc này
Chủ nhân đầu tiên của những ngôi nhà cổ thường là những điền
chú, quan lại, cơng chức, thương nhân. Trong số đó nhiều người vốn
xuất thân từ miền Trung vào miền đất phương Nam khởi nghiệp do
vậy trong kiến trúc những kiểu nhà miền Trung được lấy làm mẫu
mực. trên cư sở đó cải biến cho phù hợp.
3.Đặc điểm của nhà cổ dân gian truyền thống ở Thành phố
Ho Chí Minh
a. về m ặt
• kiến trúc
Điều kiện về kinh tế, địa lý Nam Bộ cũng có những tác động
mang đến đặc trưng riêng của nhà cổ vùng đất mới này. Mặc dù khi đó
đất rộng người thưa nhưng không gian đô thị cũng không quá rộng như
ở miền Đông hoặc miền Tây Nam Bộ, nhà cổ dân gian truyền thống ở
thành phố thường hẹp về bề ngang mà phát triển theo chiều sâu. Tuy
nhiên, hầu hết các ngơi nhà cổ ở Thành phố Hồ Chí Minh đều được đặt
trong một cảnh quan sân vườn xinh xắn: có sân trong, hịn non bộ, bể

cá vườn kiểng... hài hoà giữa thiên nhiên và cuộc sống thường nhật.
Với điều kiện kinh tế khá vững vàng, không gian rộng, nhà cổ Nam Bộ
thường rộng rãi, thoáng đạt hơn so với nhà cổ dân gian truyền thống ở
miền Trung. Bên cạnh đó, khí hậu ơn hồ, khơng khắc nghiệt như miền
Trung nên nhà ở thường không phải che chắn kỹ lưỡng. Kiến trúc nhà
cổ ở thành phố cũng như ở Nam Bộ không quá chặt chẽ với việc chọn
hướng theo kiểu mê tín dị đoan. Quan niệm “ Lấy vợ hiền hoà, làm nhà
hướng Nam” đơn giản là chọn cho mình một hướng nhà thống mát,
tiện cho việc ăn ở và làm việc.
Kiến trúc nhà cổ ở Thành phố Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn
của kiến trúc truyền thống. Các kiểu nhà phổ biến ở thành phố nói
riêng và Nam Bộ nói chung như nhà “xun trinh”, nhà “«ọc ngựa”
(hay còn gọi nhà cột cái) đều là những kiểu thức kiến trúc cổ truyền
Trung Bắc với tên gọi nhà “rường”, “rọ/” được kiến tạo trên vùng đất
mới. Lối kiến trúc này phổ biến ở miền Trung và ảnh hưởng nhiều đến
kiến trúc nhà cửa của một bộ phận lưu dân gốc Trung Bộ trong quá
119


trình di dân khai phá vùng đất Nam Bộ dưới thời các Chúa Nguyễn, v ề
mặt kỹ thuật có thể thấy nhiều ngơi nhà cổ được dựng bởi những nhóm
thợ từ miền Trung vào, một số ít sau này được tạo dựng bởi nhừng
dòng thợ địa phương.
Nhà cổ ở Thành phố Hồ Chí Minh thường làm theo kiểu nhà ba
gian hai chái (có khi là 5 gian 2 chái), phổ biến nhất là kiểu nhà unối
ã ọ ĩ\ hay còn gọi là “sắp đọi” nhà trước nối liền nhà sau, giữa có sân
thiên tỉnh ( giếng trời) có nơi cịn gọi là sân tương{ sân nước). Một
dạng nữa là nhà “5ứ/ dầrì’ loại nhà này có quy mơ lớn hơn, hoàn chỉnh
hơn so với nhà “nổi đ ọ ĩ\ Nhà cổ ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng như
ở Nam Bộ thường vừa là nơi ở, vừa là nơi thờ tự của cả một dòng họ,

nếu như người chủ của căn nhà là con trưởng.
Ket cấu chính của nhà trước kiểu nhà rội (nhà nọc ngựa hay còn
gọi là nhà cột giữa) gồm 3 gian 2 chái theo kiểu “ngoại khách nội tự”
(gian ngồi là phịng khách, gian trong là phòng thờ). Kiểu nhà rội
cũng như kiểu nhà rường thường được ưa chuộng ở Nam Bộ, nó thích
nghi vói việc phịng chống lũ. Nhà rội trong mỗi vì có 3 cột chôn
xuống đất, cột giữa nhô cao đến tận đỉnh nóc, tạo kiểu vì kèo chữ thập
(tức vì kèo ba cột xa xưa) chống đỡ trực tiếp nóc mái đảm bảo một kết
cấu vững chắc trước bão tố1. Trong kiến trúc nhà cổ ở thành phố và
Nam Bộ hàng cột cái thường cao hơn, mái nhà hiên trước cũng khơng
cịn thấp như nhà ở Trung Bộ, nơi luôn phải chịu ảnh hưởng khí hậu
mưa nắng khắc nghiệt. Hai gian phía trước (ngăn cách bởi hai hàng cột
giữa) được bài trí bàn, ghế tiếp khách; gian phía sau là nơi đặt bàn thờ
tổ tiên. Hai chái hai bên là phòng nghỉ, bên trái là nam bên phải là nữ
theo nguyên tắc “nam tả, nữ hữu Phía sau vách ngăn (vách lụa) là
nơi sinh hoạt. Trong bố trí về nội thất, gian thờ tự và tiếp khách thường
được chăm chút hơn cả. Những nơi này rộng rãi, thống mát, bài trí
trang trọng. Vật dụng dùng trong sinh hoạt, bài trí như tủ, bàn ghế,
tranh... đều là những đồ mỹ thuật ứng dụng mang tính thẩm mỹ cao vói
kỹ thuật chạm khắc tinh tế, thể hiện sự tài khéo của thợ thủ công Việt
Nam. Nơi sinh hoạt riêng của gia đình như buồng ngủ... thường đơn
giản, ít được chăm chút hơn.
1. Chu Q uang Trứ (2002), K iến trúc dàn gian truyền thống Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật, tr.33.

120


Nội thất của nhà cổ Nam Bộ rộng rãi và thoáng đãng, vật liệu
kiên trúc đều là gỗ quý, kết cấu gắn với nhau bàng ngàm, mộng.
Những cấu kiện kiến trúc như cây xuyên, trinh, kèo, cửa ra vào, khuôn

đô... hoặc những trang trí gắn với kiến trúc như bao lam, lá gió, hồnh
phi, câu đối... hầu hết được chạm trổ khá cầu kỳ. Tồn bộ kiến trúc
khơng hề sử dụng đến một cây đinh sắt mà vẫn chắc chắn, cân đối, chi
tiết hoàn thiện đến mức độ tinh xảo thể hiện một trình độ tay nghề
vững vàng, điêu luyện của phường thợ và nghệ nhân tạo dựng nên nó.
Nhà chính thường có từ 24 đến 32 cột phân bố thành 4 hàng cột
dọc, mỗi hàng có 6 đến 8 cột. Đường kính mỗi cột lên tới 60cm, hầu
hết được làm bằng gỗ căm xe, gỗ, lim loại gỗ phổ biến ở Nam Bộ.
Nhà sau được nối với nhà trước bằng hai nhà cầu, kết cấu kiểu
nhà rường (nhà trinh xuyên lãng) gồm hai mái, hai chái. Khung sườn
nhà không sử dụng hàng cột cái ở chính giữa. Kết cấu này khiến cho
khoảng giữa nhà được nới rộng hơn (còn gọi là rộng lòng căn) nhờ hai
bàng cột cái của nhà dời qua hai bên, thuận tiện cho việc sinh hoạt, nấu
nướng. Nhà sau có 8 hoặc 12 cột chia làm hai hàng, chân đế mỗi cột
được kê bằng đá xanh, tiện trịn.Từng cặp cột cái được nối liền vói
nhau theo chiều ngang nhà và được niêm cứng bởi một cây gỗ xuyên
ngang qua gọi là cây trinh. Giữa cây trinh được gắn thẳng góc với cây
trụ ngắn gọi là cây trổng. Đầu trổng nối liền với bộ phận cánh dơi để
cây trổng đỡ đầu vào địn dong ở góc nhà. Nơi tiếp giáp giữa cây trinh
và trổng là bộ chày cối tượng trưng cho âm dương hòa hợp do vậy nhà
dạng này còn được gọi là nhà trinh trổng hay nhà chày cối1.
b. Nghệ thuật trang trí:
Có thể thấy kiến trúc nhà cổ dân gian truyền thống là nơi tập
trung nhiều nhất các cơng trình mỹ thuật. Ở đây, nghệ thuật kiến trúc
và nghệ thuật điêu khắc đã kết họp khá nhuần nhị. Tương tự như trong
kiến trúc đình làng, thật khó phân biệt được đâu là điểm dừng của kiến
trúc và nơi bắt đầu của nghệ thuật điêu khắc trong kiến trúc nhà cổ dân
gian truyền thống ở thành phố...

1. Phan Thị Yến T u y ết ( ỉ 993), N hà ờ, trang p h ụ c â n uống cùa cá c dân tộ c vù n g đ ồ n g b ằ n g sông

C ừ u Long, N xb. K hoa h ọ c - Xã hội.

121


Đề tài trang trí trên cấu kiện kiến trúc và trong kiến trúc khá
phong phú, đa dạng trong cách thể hiện, cả đề tài cổ điển lẫn đề tài dân
gian, đặc biệt là đề tài mang đậm dấu ấn địa phương thông qua sản vật,
động thực vật. Cũng là những mơ típ trang trí cổ điển như uTứ linh”,
“Bát bửu”, “Tứ thời” nhưng cách thể hiện không câu nệ, khuôn sáo. Ví
dụ như đề tài chim phượng; có nơi thể hiện dạng đề tài cách điệu như
“dây lá hoá 'phượng”, có chỗ lại là đề tài tả thực như:
phưcmg và
giỏ hoa” hoặc “/?oa cúc và chim p h ư ợ n g Riêng các đề tài dạng cặp
đôi cảnh vật như “//oứ điểu” có mặt hầu hết trên các tác phẩm chạm
khắc gỗ, được thể hiện khá phong phú, đó là mô tip trúc tước, sen le,
cúc trĩ, mai điểu, mẫu đơn trĩ, cò sen... Các nghệ nhân cũng mạnh dạn
địa phương hoá một cách sáng tạo các đồ án miêu tả cảnh vật thiên
nhiên Nam Bộ như: chim ăn xoài, chim và trái điều, sen le, cua cốm,
sen và chim bói cá, sóc giác... Các đề tài dân gian chiếm tỷ lệ cao hơn,
tuy nhiên, nhiều đồ án vẫn xoay quanh quan niệm ílNgũ phúc” của
người xưa trong cuộc sống như: Chim phượng, Dơi, Mầu đơn, Phật
Thủ (tượng trưng cho phú quý), Tùng lộc (Trường thọ và giàu có), Lân,
sư tử (tượng trưng cho sự thành đạt), Trúc và chim sẻ (chức tước),
Phật thủ (phú quý), đào (trường thọ), lựu, bí, mướp (đơng con)...
Những câu chúc tụng bàng chữ Hán trên hoành phi, cuốn thư gắn trong
kiến trúc thể hiện sự mong ước một cuộc sống phú quý, trường thọ,
con cháu học hành đỗ đạt. Ngoài tác phẩm gỗ chạm cịn có sự hiện
diện của những tác phẩm gỗ cẩn ốc như: liễn đối, tủ thờ, trang trí trên
cây xuyên, khung bao lam. Cùng với các hoành phi, cuốn thư son thếp

vàng, các tác phẩm này cũng làm đa dạng thêm loại hình sản phẩm mỹ
thuật thủ cơng trong các ngôi nhà cổ thành phố. v ề kỹ thuật chạm khắc
gỗ trên các cơng trình kiến trúc, đã thể hiện một bề dày kinh nghiệm
cũng như tài năng sáng tạo của các nghệ nhân chạm khắc gỗ; là sự
phối họp khá đa dạng, nhuần nhị các kỹ thuật chạm độc, chạm ém mí,
chạm lộng, tỉa tách... với thủ pháp điêu luyện, chắc tay.
v ề những tác phẩm chạm khắc gỗ gắn vào chi tiết kiến trúc và
chi tiết cấu thành kiến trúc, từ phong cách nghệ thuật và thủ pháp kỹ
thuật cho thấy dấu ấn của các nhóm nghệ nhân thợ chạm khắc gỗ khá
nổi tiếng Thủ Dầu Một (Bình Dương), cầ n Đước (Tỉnh Long An)...
mà tác phẩm nghệ thuật của họ còn được lưu giữ ở khá nhiều công
122


trình kiến trúc cổ tại Thành phố Hồ Chí Minh như chùa Giác Lâm,
chùa Giác Viên, Nghĩa Nhuận hội quán... Những cơng trình kiến trúc
gỗ, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc trong kiến trúc, cho thấy một
trình độ bậc thầy của những người thợ mộc miền Trung, của những thợ
chạm gỗ Nam Bộ trong xử lý kết cấu kiến trúc, xử lý kỹ thuật, bố cục
đề tài, cũng như cách trình bày đa dạng và sinh động.
Những căn nhà cổ dân gian truyền thống tại thành phố thực sự là
những di tích kiến trúc nghệ thuật, mang đậm dấu ẩn nghệ thuật truyền
thong của dân tộc. Nó phản ánh một giai đoạn phát triển của kiến trúc
dân gian truyền thống, nghệ thuật điêu khắc với những đặc trưng riêng
trên vùng đất Nam Bộ.
4. Nhà cổ Thành phố Hồ Chí Minh trong tiến trình đơ thị hố
Trong gần hai mươi năm trở lại đây, trong tiến trình đơ thị hố,
số lượng các ngôi nhà cổ ban đầu của thành phố với khoảng vài chục
căn đã giảm xuống con số ít ỏi như hiện nay. Có thể kể đến một số tác
nhân dẫn đến sự biến mất cuả những di sản quý báu đó:

- Sự thay đổi chủ sở hữu: có căn nhà sau khi thay đổi chủ sờ hữu
đã được tháo rời ra bán cho những nhà sưu tập, hoặc bán từng phần
cho những người trang trí nội th ấ t.
- Sự thay đổi về kiến trúc: chủ nhân cũ hoặc mới của căn nhà phá
kiến trúc cũ đế xây mới.
- Khí hậu nhiệt đới ẩm, mối mọt cũng làm hư hại các kiến trúc
đó.
- Q trình đơ thị hố mạnh mẽ: sự thay đổi về kết cấu hạ tầng
như đường sá, cầu cống, việc xây dựng những khu đô thị mới cũng làm

ảrìh hưởng đến di tích.
Sẽ khơng ngạc nhiên khi một ngày nào đó thành phố sẽ khơng
cịn những ngơi nhà cổ nếu như khơng có những biện pháp thích ứng
để giải quyết mâu thuẫn trong tiến trình quy hoạch đơ thị và bảo tồn
những di sản đó.
Những vẩn đề đặt ra trong quá trình bảo tồn và tôn tạo nhà cổ
dân gian truyền thống tại thành phố:

123


Những di tích này cần được Nhà nước xcm xét, xác lập nhCmg
tiêu chí nhất định về mặt kiến trúc và nghệ thuật, sớm tiến hành việc
đánh giá xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật để có điều kiện bảo quản
và tơn tạo.
Đối với những di tích được xếp hạng nên có sự đầu tư thỏa đáng
đế tơn tạo, bảo tồn.và phát huy giá trị lịch sử văn hoá của nó. Trong
q trình xét xếp hạng nên có sự quan tâm động viên những chủ sở
hữu để di tích được bảo quản tốt.
Đối với những ngôi nhà nằm trong quy hoạch xây dựng, chỉnh

trang đơ thị mới nên có kế hoạch di dời, thậm chí chuyển về bảo tàng
của thành phố để trưng bày. Những ngôi nhà bị hư hỏng xuống cấp
phải có những biện pháp bảo quản, tu sửa, tôn tạo ... hết sức tỉ mỉ, khoa
học. Nên có những nghiên cứu để bảo quản và phát huy tốt giá trị của
di tích làm cho mọi người hiểu và trân trọng hơn đối với những giá trị
về văn hố mà cha ơng ta đã sáng tạo nên.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ưorng
Đảng khoá 8 tháng 7/1998 đã nêu rõ: “Di sản văn hố là tài sản vơ giá,
gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để
sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Het sức coi trọng bảo
tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và
dân gian), văn hoá cách mạng, bao gồm cả văn hố vật thể và phi vật
thể".
Do đó, nên xem di tích nhà cổ dân gian truyền thống là một bộ
phận của di sản văn hố dân tộc, khơng nên phân biệt là chủ sở hữu,
chính kiến. Nó xứng đáng được bảo tồn tồn diện khơng chỉ là kiến
trúc, nghệ thuật... (di sản văn hố vật thể) mà cịn cả cảnh quan, bài trí
và sinh hoạt tinh thần diễn ra ở đây (di sản văn hoá phi vật thể).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Quang Trứ (2002), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt
Nam. Nxb. Mỹ thuật.
2. Phan Thị Yến Tuyết (1993), Nhà ở, trang phục ăn uống của
các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học - Xã hội.
124


DI T ÍC H C H Ù A HỘI SƠN - T H À N H PHĨ H Ị CHÍ M INH

Trương Thị H iểu*


Mở đầu Luật Di sản văn hóa khẳng định: “Di sản văn hóa là tài
sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận
cùa di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của nhãn dân ta... Bảo vệ và phát huy giá trị di sản
vãn hóa, đáp ứng nhu cầu về vàn hóa ngày càng cao của nhân dân,
góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bàn sắc dân tộ c ’’.
Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập và giao lưu văn hóa rộng rãi
giữa các nước trên thế giới như hiện nay, thì tiếng nói và ảnh hưởng
của một quốc gia đối với thế giới được quyết định phần nhiều bời yếu
tố văn hóa - trong đó có sự đóng góp quan trọng của di sản văn hóa.
Chùa Hội Sơn - Thành phố Hồ Chí Minh - một giá trị di sản văn
hóa của cộng đồng là cơng trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc. Trải hơn
200 năm hình thành và phát triển, cơng trình kiến trúc Phật giáo này
khơng chỉ mang tính tơn giáo và tín ngưỡng bản địa mà cịn là nơi sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, nơi giải tỏa tâm lý cho người dân trong cuộc
sống đầy áp lực, nơi tham quan viếng cảnh của thanh niên và là nơi
nghiên cứu lịch sử, văn hóa, xã hội của các nhà khoa học.
1. Sơ lươc
lich
sử hình thành chùa Hơi


• Sơn
Chùa Hội Sơn nằm ở phía Bắc phần cuối của dãy núi Châu Thới,
xưa thuộc địa phận phường Long Tuy, huyện Long Thành, trân Biên
Hòa. Hiện nay chùa thuộc địa phận ấp cầu ơng Táng, đường Nguyễn
Xiển, phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chùa Hội Sơn do Hịa thượng Đạo Thành hiệu Khánh Long, tổ

thứ 38 của thiền phái Lâm Tế, dòng đạo Liễu Quán, khai sơn từ cuối
thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX với tên gọi là Hội Sơn.

* T rường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.

125


Với cảnh quan thiên nhiên, địa thế, kiến trúc xinh đẹp chùa Hội
Sơn đã được Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thơng chí nhắc đến
như một thắng cảnh “(7 cuối hịn núi Cháu Thỏi (cịn trụi ìà Chiêu

Thúi) vé phía Bắc tại ngã ba chè ra một nhánh chạy đến địa phận thơn
Long Tuy thì LÌừrtịỉ, rói hơng nơi ihành íỉỏ cao hanự phăm' rộm[ rãi; (>■
hên núi có hang hô và khe suôi, dân núi ơ ven quanh, trên ĩỉó có chùa
Hội Son /à chó thiên sư Khánh Loniỉ c/ựniỊ if ậ y lu hành, núi trônự
xuống sông lớn, hành khách leo lên thủm, có cam tưàng như liêu .sái
thoát / Ị / c ” 1.
Trong Đại Nam nhất thống chí có nói Chùa là nơi Thiền sư
Khánh Long hóa.
Theo những tài liệu hiện nay và qua tìm hiểu thực tế, khơng thấy
tài liệu nào nói về việc đổi tên chùa. Chỉ biết rằng, Trịnh Hoài Đức đã
nhắc đến chùa Hội Sơn trong Gia Định Thành thơng chí vào khoảng
đầu những năm 20 của thế kỷ XIX. Như vậy, tên Hội Sơn phải có từ
trước đó và đây phải là một ngơi chùa có tiếng tại vùng đất Sài Gòn Gia Định lúc bấy giờ. Theo Tự điển Hán Việt (Thiều Chửu), thì Hội
Sơn ( # |1 |) là nơi nhũng ngọn núi gặp nhau, cũng có tài liệu giải thích
“hội sơn” là hội tụ ở trên núi. Tuy nhiên, theo chúng tơi, cách giải
thích đầu tiên họp lý hom, người dân cũng như các thế hệ trụ trì kế thế
Hịa thượng Khánh Long đã dựa vào địa thế (một chi của dãy núi Châu
Thới, đột khởi từ sự hợp thành của 3 dãy núi) mà gọi tên chùa là Hội

Son. Cũng có giai đoạn chùa Hội Sơn được gọi với nhiều tên gọi khác
nhau như: từ năm 1920 - 1930, chùa được gọi là chùa x ẻo Qt (hay
Xã Qt) đây là giai đoạn chùa khơng có vị tu sĩ nào tu hành và được
ông hương cả trong làng là Xã Qt trơng nom. Đến thời gian ni sư
Như Tiên trụ trì, chùa được gọi một cách dân dã là chùa Cô B a... Hiện
nay, chùa được nhiều người dân biết đến với tên gọi là Hội Sơn.
Chùa Hội Sơn từ khi xây dựng đến nay đã trải 13 đời trụ trì và
nhiều đợt trùng tu, trong đó hai đợt trùng tu quan trọng nhất là dưới
thời Thiền sư Huệ Tấn với việc trùng tu, mở rộng chánh điện cùng kết
cấu thờ tự và sừa chữa tháp mộ của Hòa thượng Khánh Long. Năm
1. T rịnh H oài Đ ức (L ý V iệt D ùng dịch, H uỳnh Văn Tởi hiệu đính, 2005), G ia Đ ịnh th à n h th ơ n g chí,
N xb. T ồ n g hợp Đ ồng N ai, Đ ồ n g N ai, tr.24.

126


1933, dưới sự trụ trì của Sư cơ Như Thanh và sự giúp sức của ông
Nguyễn Minh Giác, chùa được xây dựng thêm tăng đường, nhà túc,
sửa chửa lại chánh điện, trùng tu các mộ tháp.
2. Kiến trúc
Chùa Hội Sơn được xây dựng trên vùng đất đồi bàng phảng cao
khoảng 15m so với mặt nước biển, mặt chùa hướng ra sông Đồng Nai tức hướng Đông Nam. Người xưa khi chọn hướng chùa Hội Sơn đã gửi
gắm tình cảm và mong muốn sao cho dân chúng dễ dàng thăm viếng,
vừa hợp với ý thần Phật lại thể hiện được vũ trụ quan và nhân sinh
quan của mình. Theo truyền thống của người Việt, hướng Nam là
hướng của trí tuệ, hướng của Bát Nhã, nhờ có trí tuệ chúng sinh mới
đến bến bờ giải thoát1; đối với Phật giáo, hướng Nam là hướng mà các
đức Phật và Bồ Tát ngồi để nghe lời kêu cứu của chúng sinh trong đời
tục lụy, đặng dùng pháp lực vô biên qua tứ đại vô lượng tâm (từ, bi,
hỷ, xả) mà cứu vớt chúng sinh. Cịn hướng Đơng là hướng của các

thần2. Từ việc chọn hướng, có thể thấy thâm ý sâu sắc của người xưa
khi dựng chùa Hội Sơn.
v ề tổng thể kiến trúc, chùa được bố trí theo dạng chữ tam - là
dạng kết cấu phổ biến tại Nam Bộ. Chùa Việt Nam nói chung và chùa
miền Nam nói riêng đều là tổng thể của các cơng trình kiến trúc liên
kết với nhau nhờ ý nghĩa thờ tự cũng như công năng sử dụng. Miền
Nam vốn được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều phù sa, màu mỡ, đất
đai bằng phẳng, ít đồi núi “cảm quan của người miền Nam cũng ưa
thích sự trải rộng, hịa mình vào thiên nhiên”3 nên kiến trúc chùa miền
Nam không đồ sộ, cao lớn với đầu đao cong vút như các ngôi chùa ở
miền Bắc mà rất thích họp với tình hình sinh hoạt, điều kiện khí hậu
của địa phương với mái chùa có độ dốc, thấp dần về phía các đầu góc
mái, lợp ngói âm dương, các góc mái được trang trí hình lân, long, vừa
có tác dụng thẩm mỹ, vừa là nơi thốt nước mưa.
Nhìn chung, chùa Hội Sơn có bố cục tổng thể hợp lý, hài hòa
mang phong thái của người miền Nam - ưa thích sự phóng khống, trải
1. Bùii Văn T iến (2000), C h ù a B ú t Tháp, N xb K hoa học Xã hội, Hà N ội, tr.35.
2. T rầ n Lâm Biền (1996), C hùa Việt, N xb Văn hóa - Thơng tin, Hà N ội, tr.63-64.
3. Lâim Nhân (2000), Chùa G iác Viên, luận vãn thạc sĩ, tr.29.

127


rộng. Tồn bộ khơng gian kiến trúc của chùa kết hợp dung hòa với cỏ
cây hoa lá, địa thế núi sông ôm bọc tạo nên vẻ đẹp mộc mạc, thanh
tịnh, đồng điệu giữa những khối kiến trúc cứng cáp và thiên nhiên
mềm mại, nhẹ nhàng.
Các cơng trình kiến trúc của chùa Hội Sơn được xây dựng với sự
kết hợp giữa chất liệu truyền thống và hiện đại như gỗ, đá, vơi, xi
măng, gạch ngói... được bố trí theo lối truyền thống: cổng tam quan,

tiền đường, chánh điện, nhà tổ, giảng đường, khu mộ tháp, nhà trù, nhà
tăng...
Cổng tam quan của chùa có kết cấu khung gỗ trịn và mái ngói,
định vị giữa con đường dốc thoải hướng bên phải chùa. Tam quan có
nghĩa là ba điều nhìn, xem, quan sát (gồm: khơng quan - nhìn vào sự
vật, thật ra cái gì cũng là khơng; đà quan - sự vật gì cũng có biến hóa,
có đủ cả, cái gì cũng là có; trung quan - khơng phải là khơng mà cũng
khơng phải là có. Nó là giữa, vừa có, vừa khơng. Con đường đi vào
cửa Phật là đi vào cái chân thật ấy)1. Với chùa Hội Sơn, tam quan là
gạch nối liên kết giữa đời sống trần tục và chốn thiền mơn. cổng tam
quan ở đây khơng kín cửa, cao tường mà ln rộng mở (khơng có cửa)
như tính dung hịa giữa đạo và đời. ở đây có bức hồnh đề

"Ểr Ịil

# ” (Hội Sơn cổ tự). Dòng chữ Hán được chạm khắc thanh thoát, cỡ
chữ to, đậm. Bên cạnh là các dòng lạc khoản và đề từ viết, nhỏ hơn,
biên năm Kỷ Mùi (năm 1979). Toàn bộ các chữ đều được khắc nổi và
sơn son trên nền gỗ đã bạc màu. Thơng thường, đi cùng với hồnh phi
ỉà câu đối được treo hai bên dọc theo chân trụ của tam quan, tuy nhiên
ở chùa Hội Sơn lại không thấy thể thức này.
Ngồi cổng tam quan trên, chùa Hội sơn cịn hai cong khác, một
cổng sau được xây dựng khoảng năm 2000 với chất liệu bê tông cốt
thép, sơn màu vàng, cửa bằng gỗ chắc chắn, cổng này thường đóng
kín và chỉ mở vào những ngày lễ lớn; một cổng khác ở đối diện với lối
vào chánh điện, hướng thẳng xuống sông Đồng Nai. Theo nhận định
của chúng tôi, đây mới là cổng chính ngun thủy của chùa. Có thể lý
giải nhận định này như sau: trong văn hóa dân gian Nam Bộ, dòng

1. VÙ Ngọc Khánh (chù biên) (2006), Chùa cỗ Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, tr.24.


128


sơng c ó một vị trí rất quan trọng, là một đặc trưng của môi trường
thiên nhiên ở đây. Đối với văn hóa vật chất của người dân, dịng sơng
là nơi cung câp nước, phù sa cho ruộng vườn, là ranh giới địa phương
và cũng là con đường giao thông huyết mạch. Cửa ngõ sơng chính là
nơi họp chợ, nhiều cư dân sinh sống trên sông và cất nhà ven sơng. Đối
với đời sống tinh thần, nhiều loại hình văn hóa dân gian, nhiều lễ hội,
nhiều tín ngưỡng và một số loại hình nghệ thuật dân gian hình thành từ
mơi trường sơng nước. Do đó, có thể nói rằng chùa Hội Sơn khi được
xây dựng cũng đã dựa vào đặc điểm trên. Hơn nữa, con đường đất dẫn
vào chùa hiện tại, trước đây rất heo hút, khó đi lại, hai bên toàn rừng
cây rậm rạp, cỏ mọc chen cả lối đi. Ngồi ra, cổng này được xây dựng
cơng phu, lối đi lát đá rất tỉ mỉ và có dấu hiệu của sự tu sửa nhiều lần.
Từ những yếu tố trên, có thể khẳng định cổng này là cổng tam quan
chính của chùa Hội Sơn. Hiện nay, cổng này vẫn là hướng đi của
khách du ngoạn bằng đường thủy.
Tiền đường có dạng kết cấu của một ngôi nhà rường miền Trung
với 3 gian hai chái. Hệ thống vì kèo của ngơi nhà này liên kết theo kiểu
thức truyền thống bằng mộng, tạo độ sít vừa phải nhưng vơ cùng chắc
chắn. Từ trước ra sau hàng cột dọc có 4 vì kèo. Từng vì kèo đều gồm
những chiếc kèo thẳng liên kết theo kiểu kèo chồng, đuôi của kèo sau
chồng lên đầu của kèo trước. Các cột cái, cột quân và cột hiên trong
cùng một vì được nối với nhau từng đơi một bằng những chiếc kèo
theo cấu trúc trên. Vì vậy, từ dưới nhìn lên ta chỉ thấy các đầu kèo
được chạm khắc công phu, che đi đuôi kèo và những khuyết điểm của
sự liên kết. Chiếc kèo dưới cùng (kèo nối từ cột quân ra cột hiên) có
thân uốn cong hướng lên phía trên nâng đỡ mái đua (thuật ngữ dân

gian gọi là kẻ). Trong khi đó, hai cột cái lại được nối với nhau bằng hai
lần kèo, ngoài hai chiếc kèo trên cùng được nối với nhau nhờ con xỏ
(được gọi là giao ngun) cịn có xà ngang (gọi là trếnh) được nối ở
lưng chừng cột, mang chức năng là chiếc quá giang. Có tất cả 4 trếnh
đều được chạm khắc cơng phu mơ típ “long ẩn vân” ở thân và đầu
rồng uốn lượn ở hai đầu trếnh. Tại các trếnh ở chùa khơng có áp quả
hay con tơm như kết cấu khung nhà rường của miền Trung, mà đã
được lược bỏ đi một số chi tiết cho phù hợp với không gian của một
ngôi chùa thờ Phật.
129


Trước cửa hành lang và tiền đường có bức hồnh đề #

|-L| #

-

Hội Sơn tự, được làm bằng xi măng đắp nổi, các nét chữ và màu sơn
đã sờn bạc, viền xung quanh của hoành phi nổi lên tạo chiều sâu cho
bức hoành. Đối diện qua trục giữa của hoành phi này là 3 câu đối, tất
cả đều được viết bằng chữ Hán, từng cặp một đối xứng nhau. Hai bên
hơng của hành lang này cịn một cặp câu đối, cũng đối nhau qua trục
giữa của cửa ra vào. Toàn bộ được viết trên nền xi măng sơn màu xám,
chữ trắng nổi lên rất rõ ràng.
Bên trong nhà tiền đường, đối xứng qua trục giữa, từ ngồi vào
bố trí bên phải là chuông, trống, bên trái là mõ, phách. Cạnh đó đặt các
tủ đựng kinh kệ và nhang đèn cho khách hành hương sử dụng khi chầu
Thông thường, trước tiền đường, các ngơi chùa bài trí bàn Ihờ
Tiêu Diện và Hộ Pháp. Tuy nhiên, tại chùa Hội Sơn, cửa chính vào

tiền đường được mở thường xuyên, cách bài trí tượng thờ cũng thay
đổi, do đó, bàn thờ Tiêu Diện và Hộ Pháp đối xứng nhau, gần cửa ra
vào. Trên bàn thờ Hộ Pháp có đặt tượng Hộ Pháp đứng, mình mặt áo
xanh, mắt trừng hung dữ. Trước tượng Hộ Pháp là tượng Địa Tạng
ngồi trên tịa sen, tay cầm Tích trượng.
Chánh điện là phần kiến trúc quan trọng của một ngôi chùa. Ờ
chùa Hội Sơn, chánh điện được kết cấu theo kiểu “tứ trụ” hay còn gọi
là “tứ tượng” - là kết cáu phổ biến thường gặp ở các ngôi đình, chùa cổ
Nam Bộ. Tứ trụ - tức bốn trụ cái ở giữa rồi mở rộng ra xung quanh nhờ
8 kèo đấm và 8 kèo quyết. Bốn cây đại trụ ở chánh điện của chùa được
làm bàng gồ quý, có đường kính khoảng 30cm đặc biệt trên thân có đơi
câu đối chữ và hoa văn chạm liền một khối. Đôi câu đổi khấc bàng chữ
Hán, được phiên âm và dịch nghĩa như sau:
Di Đà kinh trung, Hồng Danh kinh trung; kinh kinh nguyện âm
siêu dương thịnh.
Lãng Nghiêm hội thượng, Đại Bi hội thượng; hội hội cầu quốc
thái dân an.
(Trong kinh Di Đà, trong kinh Hồng Danh; kinh nào cùng
nguyện cho âm siêu dương thịnh
130


1rên hội Lăng Nghiêm, trôn hội Đại Bi; hội nào cũng cầu cho
nước thịnh dân an).
Giữa chánh điện là bức hoành phi bàng chữ Hán với nội dung:
'i% H ’' (Vạn Đức Hồng Danh) và trang trí bằng bao lam chạm
lộng đề tài La Hán.
Chùa được bài trí theo nguyên tắc “tiền Phật hậu Tổ”. Trên bàn
thờ chánh điện, theo hàng ngang: tầng cao nhất thờ bộ tượng Tây
Phương tam thánh gồm: Di Đà, Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát;

tầng giữa thờ tượng Thích Ca Mâu Ni mang dáng dấp và ảnh hưởng
của Khmer, Địa Tạng Vương Bồ Tát và Quan Âm Bồ Tát; tầng dưới
cùng thờ tượng Phật Di Lặc. Theo hàng dọc thì trục chính là bộ tượng
Tam Thế Phật.
Hai bên bên chánh điện là hai án thờ đặt các bộ tượng Thập Bát
La Hán, Thập Điện Diêm Vương và một số vị như: Thiện Hữu, Ác
Hữu, Thái Thượng Lão Quân, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Quan
Âm Tống Tử...
Màu sắc và ánh sáng trong chánh điện được phối hợp với kiến
trúc hòa thành một tổng thể nghệ thuật. Ánh sáng chiếu vào chánh điện
chủ yếu là ánh khúc xạ và phản xạ. Tất cả các tượng thờ, bệ thờ đều
được sơn son thiếp vàng. Trong khơng gian ấy kết họp với khói nhang
càng nổi lên rất rõ chỗ mờ chỗ tỏ, chỗ nhạt chỗ đậm, chỗ sáng chồ
tố i... thể hiện triết lý “sắc sắc khơng khơng” của nhà Phật.
N hà tổ ở phía sau chánh điện là gian thờ các vị tổ sư có cơng
trong việc gìn giữ và phát triển chùa Hội Sơn. Trong gian thờ này, ở
giữa đặt tượng Đạt Ma sư tổ và các vị tổ sư khác, hai bên thờ các vị Ni
sư Thích Nữ Như Thanh và Ni sư Thích Nữ Như Tiên. Đổi diện với
bàn thờ các vị tổ sư trên là bàn thờ Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn.
Tồn bộ khơng gian nhà tổ nằm trong kết cấu kiến trúc chung của
ngôi nhà chánh điện.
K hai sơn đường cách chính điện bởi sân thiên tĩnh. Ngơi nhà này
được kết cấu theo dạng thức của ngôi nhà tiền đường với ba gian hai
chái, liên kết với nhau nhờ hệ thống vì kèo và mộng. Khai Sơn đường
là nơi thờ tổ Khánh Long và giảng kinh.
131


Cả ba ngôi nhà tiền đường, chánh điện và khai sơn đường, đều
nằm trên một trục dọc liên kết với nhau theo cách gọi của dân gian là

“sẳp đọi”, tức là các dãy nhà xếp liền kề, từ trước ra sau nổi với nhau
bởi hai hành lang hai bên gọi là tây lang và đông lang. Chùa Hội Sơn
trước đây vẫn có 2 hành lang này, nhưng đến năm 2001, để m ở rộng
không gian thờ tự và nội thất, nhà chùa đã cho xây tường từ lan can
của hành lang.
Ngồi các cơng trình kiến trúc kể trên, chùa Hội Sơn cịn rất
nhiều cơng trình phụ khác như: trung nghĩa đường, nhà khách, nhà túc,
hóa đường, nhà trai, tịa bát giác thờ Chuẩn Đề, Phật Đản sanh và khu
mộ tháp trong đó có tháp của thiền sư Khánh Long.
3. Giá tri•

của di tích chùa
• Hơi Sơn

* Giá trị lịch sử:
Vị trí tọa lạc của chùa Hội Sơn hiện nay là địa bàn sinh sống của
cư dân lưu vực sông Đồng Nai thuộc thời đại kim khí có niên đại
khoảng 3000 - 4000 năm. Di chỉ khảo cổ học được phát hiện tại bến
đò, dưới chân chùa Hội Sơn đã củng cố thêm sự tồn tại và phát triển
lâu đời của con người trên vùng đất Gia Định xưa và khu vực Nam Bộ.
Chùa Hội

Sơn là một trong những ngôi chùa có mặtsớm tại vùng

đất Gia Định, với niên đại khoảng hơn 200 năm. Chùa do Hòa thượng
Khánh Long khai sơn từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Chùa
đã trải 13 đời truyền thừa. Trong quá trình phát triển, Chùa Hội Sơn đã
tích lũy các giá trị truyền thống và để lại nhiều dấu ấn qua những lần
trùng tu.
Lịch sừ hình thành và phát triển của ngơi chùa cũng gắn liền với

lịch sử pháp triển của vùng đất Sài Gòn - Gia Định.
* Giả trị nghệ thuật của chùa Hội Sơn được thể hiện qua các
mảng trang trí với nhiều chất liệu và hệ thống tượng thờ bài trí trong
tồn khn viên.
Ngồi phong cách trang trí truyền thống của người Việt, chùa
cịn mang phong cách trang trí hiện đại của châu Âu. Những màng
trang trí từ nội thất cho đến ngoại thất hội tụ hai yếu tố truyền thống và
hiện đại thể hiện nét độc đáo riêng của ngôi danh tự này.
132


Các bộ mái trang trí nhiều đề tài như ngư hóa long, lưỡng long
triêu nhật ở nóc mái; long hý thủy ở các góc mái; hình lá đề ở diềm
mái... ơ các gờ cột, ô cửa sổ, tường hành lang trang trí hoa văn hiện
đại và con tiện theo phong cách phương tây. Các tảng đá kê chân cột
trong chánh điện và tiền đường trang trí lá sen cách điệu...
Trang trí trong nội thất có nhiều loại hình như: bao lam, phù
điổu. hoành phi, câu đối, liễn đối, tượng thờ và nhiều hình thức trang
trí khác ngồi việc trang trí cịn mang tính lịch sử thể hiện qua phong
cách và nội dung, đó là những minh chứng cho sự ảnh hưởng của các
luồng tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo và tâm thức người
Việt ở vùng đất phương Nam. Từ các đề tài và cung cách thể hiện phần
nào thấy được tâm tư, tình cảm của người dân nơi đây với lòng yêu
thiên nhiên, con người, và quê hương đất nước.
Bao lam ở chùa Hội Sơn được chạm khắc công phu với nhiều kỹ
thuật khác nhau, thể hiện nhiều đề tài phong phú về đời sống dân gian
và Phật tích. Đặc biệt là bao lam chư Phật chạm lộng hai mặt ở chánh
điện, được chạm khác theo hai dạng, phần trên chạm lộng kéo dài ra
thành bức rèm giữa chánh điện, phần dưới liên kết với cột cái tạo nên
một cặp câu đối chữ và hoa văn đi liền một khối hết sức độc đáo. Hay

bao lam “La Hán thượng kỳ thú” kết hợp với các loại hoa, dây hoa ở
nhà tổ. Đây là một trong những bao lam lớn nhất ở Hội Sơn, bao lam
này liên kết với các cột quân tạo thành một bức liễn dài từ đầu hồi này
sang đến đầu kia của nhà tổ. Các hoa văn trang trí và những nét chạm
khắc kéo dài từ đầu cột xuống đến gần chân cột đề tài hoa dây, các 0
hoa dây quấn quýt, bao phủ lấy nhau không cụ thể một loại hoa nào.
Các đề tài, các hoa văn trang trí trên được chạm, đục tinh tế trở ncn

thanh mảnh, nhẹ nhàng và sống động.
H oành p h i và câu đối: chùa Hội Sơn có nhiều hồnh phi và câu
đối phân bố rải rác khắp chánh điện, tiền đường, nhà tổ, khai sơn
đường, nhà túc, nhà trù ... Đa số các hoành phi và câu đối của chùa Hội
Sơn đều được chạm khắc trên gỗ và viết bằng chữ Hán. Các hoành phi
và câu đối ở chùa thường đi liền với nhau thành bộ chứa đựng ý nghĩa
sâu sắc trong việc giáo dục con người và thể hiện triết lý Phật giáo.
Trang trí trên hoành phi và câu đối là các đề tài phúc đáo, chữ Vạn
133


cách điệu, long ẩn vân, phù đồ, bát bửu...!.'rong các hoành phi và câu
đối, đặc biệt nhất phải kể đến bức hoành phi “Vạn đức hồng danh” do
vua Khải Định tặng, bức “tông phong vĩnh chấn” do thiền sư Huệ Đạt
tặng và hơn hết là cặp câu đối chạm liền một khối hoa và chữ ở đại
hùng bửu điện.
H ệ thống tượng thờ: Hơn 200 năm tồn tại và phát triển, chùa
Hội Sơn có hệ thống tượng thờ tương đối phong phú, đặc biệt là bộ
tượng thờ bằng gỗ có tuổi đời khá cao. Qua từng giai đoạn, các bộ
tượng và cách bài trí tuy có sự thay đổi nhất định nhưng không đáng kể
và ngày càng bổ sung nhiều hơn với các chất liệu mới là thạch cao và
xi măng.

Hệ thống tượng trịn được bố trí rộng khắp ngơi chùa, trong nhà
và cả ngoài trời, nhiều nhất vẫn là trong chánh điện với các bộ tượng
Di Đà tam tôn, Tam thế Phật, thập bát La Hán, thập điện Diêm Vương,
tượng Kim Cang, tượng Địa Tạng, Hộ Pháp, Quan Âm tống tử, Bồ Tát
Đại Thế C hí... Đáng chú ý nhất là bộ tượng Di Đà tam tôn: gồm ba
bức Di Đà, Quan Âm và Đại Thế Chí đều được tạo tác trong tư thế đẹp
và mang phong thái đặc sắc, có niên đại từ đầu đến giữa thế kỷ XIX.
Bên cạnh đó, phải kể đến tượng Di Đà được vớt lên từ sông Đồng Nai,
với các đường nét chạm trổ mộc mạc, thô sơ mang dáng dấp của một
pho tượng Phật Khmer.
Nhìn chung hệ thống tượng thờ của chùa Hội Sơn vô cùng phong
phú được bổ sung, chế tác qua nhiều giai đoạn khác nhau. Cùng những
nét tương đồng với phong cách tượng thờ ở Nam Bộ, những tượng thờ
ở đây cịn thể hiện một cái nhìn riêng về nghệ thuật và cách thể hiện
riêng về đề tài Phật giáo. Hệ thống tượng thờ chính là một phần giá trị
nghệ thuật mà chùa Hội Sơn hiện đang gìn giữ, bảo tồn.
Ngồi hệ thống tượng thời, chùa Hội Sơn cịn lưu giữ hệ thống
các di vật khác như bàn thờ, đồ pháp khí... với sự đa dạng về kiểu
dáng và loại hình, độc đáo về chạm khắc và hoa văn trang trí.
* Giá tri văn hóa
0

Với lịch sử lâu đời, chùa Hội Sơn đã đi vào đời sống của người
dân thơng qua vẻ đẹp tự nhiên và các hình thức sinh hoạt Phật giáo.
134


Tại chùa Hội Sơn, các ngày lễ được tổ chức thường xuyên nhưng
gián lược một số nghi thức góp phần tiết kiệm thời gian, tiền của cùa
nhân dân. Các buôi lễ có tính chất định kỳ hàng ngày, hàng tháng,

hàng năm hay theo mùa dành cho các tu sĩ trong chùa, các Phật tử và
cộng đồng như: Lễ chúc tán, Lễ bố tát, các ngày vía Quan Âm, vía tổ
khai son; các đại lề Phật Đản, Vu Lan, thượng nguyên, hạ nguyên,
trung nguyên, mùa an cư kiết hạ, lễ cầu siêu... vẫn dược tiến hành đều
đặn. nghiêm túc. Ngoài các iễ hội, chùa Hội Son còn đi vào đời sống
của người dân thông qua các hoạt động từ thiện xã hội như: chẩn tế,
khám chữa bệnh miễn phí... cho người dân nghèo.
Những hoạt động đó là sợi dây gắn kết iíiáo lý nhà Phật với cuộc
sống của con người hiện đại, thể hiện tinh thần nhập thế sâu sắc của
Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Nam Bộ nói riêng.
Tóm lại, chùa Hội Sơn khơng chỉ là một không gian thờ Phật,
một nơi tu hành của các tăng sĩ mà còn là nơi hội tụ nhiều giá trị về
lịch sử, văn hóa, đặc biệt là kiến trúc nghệ thuật. Với vẻ đẹp tự thân và
qua thời gian bồi tụ, những giá trị ấy thực sự góp phần hình thành nên
bán sắc văn hóa, truyền thống của vùng đất Nam Bộ và của dân tộc
Việt Nam.
***
Với những giá trị đã nêu, Chùa Hội Sơn xứng đáng là di tích lịch
sử - văn hóa cấp quốc gia cần thiết phải được bảo tồn và phát triển.
Ngày 07/01/1993, Chùa Hội Sơn đã được Bộ Văn hóa - Thơng
tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cơng nhận là Di tích lịch
sử - văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định sổ 43/QĐ-BVHTT.
Việc cơng nhận di tích cấp quốc gia đối với chùa là một tác động
tích cực trong việc bảo tồn và phát huy di tích. Tuy nhiên để góp phần
giúp di tích “sống” trong sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện
đại, cần tiến hành một số biện pháp nhằm bảo vệ và phát huy giá trị
của di tích như:
-

Xây dựng hồ sơ khoa học sâu và đầy đủ về di tích, nhằm phục


vụ cơng tác bảo quản, gia cố và phục hồi nguyên trạng di tích.

135


- Nghiên cứu và đánh giá toàn diện về di tích nhàm giúp di tích
được gìn giữ một cách khoa học và toàn vẹn.
- Đào tạo và tư vấn chuyên mơn cho tàng sĩ cũng như ban trụ trì
chùa Hội Sơn nhằm giúp họ hiểu và bảo vệ di tích tốt hơn.
Ngồi việc bảo tồn, gìn giữ, tu bổ di tích, thì sử dụng, khai thác
và phát huy giá trị di tích được xem là một trong những phương pháp
hữu hiệu nhất để bảo vệ di tích.
Việc phát huy di tích cần có sự phối hợp giữa ban quản lý chùa
Hội Son, cơ quan chức năng, chính quyền địa phương và cộng đồng để
phát huy di tích tốt nhất và giúp người dân u q, tơn trọng di tích.
Khai thác giá trị kinh tế từ di tích thơng qua hoạt động du lịch là
cần thiết vừa mang tính giáo dục, giải trí vừa đem lại cho di tích nguồn
kinh phí để trùng tu di tích.
Phát huy tinh thần tốt đẹp của Phật giáo thơng qua các lễ hội, các
hình thức sinh hoạt nhằm giáo dục đạo đức con người nhất là các thế
hệ thanh, thiếu niên.
Thiết nghĩ, vấn đề bảo tồn, gìn giữ, tu bổ di tích chùa Hội Sơn
khơng chỉ là trách nhiệm của các cấp chính quyền, các cơ quan chức
năng mà còn là mối quan tâm chung của cả cộng đồng. Bên cạnh đó,
để di tích thực sự tồn tại và phát huy hết những giá trị nội lực, cần có
sự phối họp hài hịa giữa nhiều yếu tố trong đó có việc giáo dục ý thức
tơn trọng và yêu quý các giá trị truyền thống của nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hóa - Thơng tin,
Hà Nội.
2. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (2006), Chùa cổ Việt Nam, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
3. Lâm Nhân (2000), Chùa Giác Viên, Luận văn thạc sĩ.
4. Nguyễn Quảng Tuân - Huỳnh Lứa - Trần Hồng Liên (1993),
Những ngôi chùa ở Thành phố Hồ Chỉ Minh, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
5. Trương Ngọc Tường - Võ Văn Tường (2006), Những ngôi
chùa nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chỉ Minh, Nxb. Trẻ.
136


×