Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tài liệu Luận văn Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.05 KB, 32 trang )

1
Luận văn
Tình hình xuất khẩu lao
động ở Việt Nam giai đoạn
2007 - 2011
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 10 năm trở lại đây thế giới đã chứng kiến các cuộc khủng hoảng kinh
tế làm suy giảm đáng kể nền kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng tài chính 1997 –
1998 và mới đây là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2009. Trong thời gian gần đây
nền kinh tế của các nước chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu có dấu
hiệu phục hồi trở lại, tuy nhiên tình trạng thất nghiệp vẫn còn diễn ra với số lượng lớn.
Và cần có một hướng giải quyết cho những lao động thất nghiệp này.
Một trong những hướng giải quyết đó là: Xuất khẩu lao động. Nắm bắt được thời
cơ thuận lợi đó trong những năm qua Việt Nam đã đề ra những chính sách, mục tiêu
phương hướng cho việc xuất khẩu lao động nhằm giải quyết việc làm cho người lao
động. Với định hướng xuất khẩu lao động rõ ràng và phù hợp với xu hướng phát triển
của nền kinh tế đã được Đảng và Nhà nước xác định như là một trong những lĩnh vực
đối ngoại đặc biệt, một trong những chiến lược để phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy
vậy việc xuất khẩu lao động của nước ta còn gặp một số hạn chế về trình độ tay nghề,
ngoại ngữ, kĩ luật lao động… Đòi hỏi sự nhập cuộc của các nhà quản lý, doanh nghiệp,
người lao động đi xuất khẩu để cùng “chung tay” giải quyết vấn đề trên. Chính vì thế
em xin chọn đề tài : “Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011”
để hiểu rõ hơn về hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào việc làm rõ thực trạng, nguyên nhân cho vấn đề
xuất khẩu lao động Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011 để từ đó đề ra các giải pháp cho
các giai đoạn sau.
3. Đối tượng và phạm vi
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh cả nước Việt Nam và đối tượng là lực


lượng lao động ra nước ngoài làm việc trong những năm gần đây bằng các hình thức
và không trái với pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước sở tại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tài liệu có được từ việc thống kê tổng kết vấn đề xuất khẩu lao
động của nhiều nguồn khác nhau kết hợp hai phương pháp diễn giải và quy nạp để làm
rõ mục tiêu đã đặt ra.
3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
Cơ sở lý luận
1.1. Một số khái niệm
Xuất khẩu lao động là hoạt động mua, bán hàng hoá sức lao động nội địa cho
người sử dụng lao động nước ngoài.
Người sử dụng lao động nước ngoài ở đây là chính phủ nước ngoài hay cơ quan,
tổ chức kinh tế nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động trong nước.
Hàng hoá sức lao động nội địa: muốn nói tới lực lượng lao động trong nước sẵn
sàng cung cấp sức lao động của mình cho người sử dụng lao động nước ngoài.
Hoạt động mua, bán : thể hiện ở chỗ người lao động trong nước sẽ bán quyền sử
dụng sức lao động của mình trong một khoảng thời gian nhất định cho người sử dụng
lao động nước ngoài để nhận về một khoản tiền dưới hình thức tiền lương (tiền công).
Còn người sử dụng nước ngoài sẽ dùng tiền của mình mua sức lao động của người lao
động, yêu cầu họ phải thực hiện công việc nhất định nào đó (do hai bên thoả thuận)
theo ý muốn của mình.
Nhưng hoạt động mua, bán này có một điểm đặc biệt đáng lưu ý là: quan hệ mua,
bán chưa thể chấm dứt ngay được vì sức lao động không thể tách rời người lao động.
Quan hệ này khởi đầu cho một quan hệ mới - quan hệ lao động. Và quan hệ lao động
sẽ chỉ thực sự chấm dứt khi hợp đồng lao động ký kết giữa hai bên hết hiệu lực hoặc bị
xoá bỏ hiệu lực theo thoả thuận của hai bên.
Nhà nước ta cũng thể hiện sự quan tâm đối với hoạt động này thông qua việc
khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân tìm kiếm và mở rộng thị

trường lao động nhằm tạo việc làm ở nước ngoài cho người lao động Việt Nam theo
quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật nước sở tại và điều ước quốc
tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập. Đồng thời Đảng và Nhà nước còn thể hiện sự
quan tâm cụ thể trong việc chỉ đạo, thu hút được sự quan tâm của các ngành, các cấp
và các đoàn thể cũng như gia đình và bản thân người lao động trong hoạt động xuất
khẩu lao động.
4
1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động
Theo điều 6 của Luật số 72/2006/QH11 của Quốc hội : Luật người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài thì người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các
hình thức sau đây :
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt
động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được
phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng
thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài;
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập
nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức
thực tập nâng cao tay nghề;
- Hợp đồng cá nhân.
1.2.1. Điều kiện để doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài
Luật số 72/2006/QH11 của Quốc hội : Luật người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài cũng có quy định đối với những doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài tại điều 8 và 9 như sau :
- Hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện.
- Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
(sau đây gọi là doanh nghiệp dịch vụ) phải có vốn pháp định theo quy định của

Chính phủ và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép hoạt động
dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Doanh nghiệp có đủ các
điều kiện sau đây thì được cấp Giấy phép:
+ Có đề án hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
+ Có bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao
động trước khi đi làm việc ở nước ngoài và hoạt động đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội. Trường hợp doanh nghiệp lần đầu tham gia hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài thì phải có phương án tổ chức bộ máy chuyên
5
trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết và hoạt động đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài;
+ Người lãnh đạo điều hành hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài phải có trình độ từ đại học trở lên, có ít nhất ba năm kinh nghiệm
trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài hoặc hoạt động
trong lĩnh vực hợp tác và quan hệ quốc tế;
+ Có tiền ký quỹ theo quy định của Chính phủ.
- Doanh nghiệp được cấp Giấy phép phải trực tiếp tổ chức hoạt động dịch vụ đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Chính phủ quy định các loại hình doanh nghiệp được hoạt động dịch vụ đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài phù hợp với tình hình phát triển kinh
tế - xã hội trong từng giai đoạn và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2. Điều kiện đưa người lao động đi làm việc tại công trình, dự án mà doanh
nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu ở nước ngoài
Theo điều 28 Luật số 72/2006/QH11 của Quốc hội : Luật người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài quy định điều kiện đưa người lao động đi làm việc tại
công trình, dự án mà doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu ở nước ngoài như
sau :
- Được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho phép;
- Người lao động được doanh nghiệp đưa đi làm việc ở nước ngoài phải có Hợp

đồng lao động với doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động;
- Chỉ được đưa người lao động đi làm việc tại các công trình, dự án mà doanh
nghiệp trúng thầu, nhận thầu ở nước ngoài;
- Có phương án sử dụng và quản lý người lao động ở nước ngoài; có phương án
tài chính đưa người lao động về nước trong trường hợp bất khả kháng;
- Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người lao động làm việc ở nước ngoài cho
doanh nghiệp phù hợp với pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước mà người
lao động đến làm việc.
1.2.3. Điều kiện đưa người lao động đi làm việc tại cơ sở sản xuất, kinh doanh do tổ
chức, cá nhân đầu tư thành lập ở nước ngoài
Theo điều số 31 Luật số 72/2006/QH11 của Quốc hội : Luật người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài thì người lao động được đưa đi làm việc tại cơ sở sản
6
xuất, kinh doanh do tổ chức, cá nhân đầu tư thành lập ở nước ngoài khi có đủ các điều
kiện sau đây :
- Được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho phép;
- Chỉ được đưa người lao động đi làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh do
tổ chức, cá nhân đầu tư thành lập ở nước ngoài;
- Có phương án sử dụng và quản lý người lao động ở nước ngoài; có phương án
tài chính đưa người lao động về nước trong trường hợp bất khả kháng;
- Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người lao động làm việc tại các cơ sở sản xuất,
kinh doanh do tổ chức, cá nhân đầu tư thành lập ở nước ngoài phù hợp với pháp
luật của nước mà người lao động đến làm việc và pháp luật Việt Nam.
1.2.4. Điều kiện đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực
tập nâng cao tay nghề
Theo điều số 34 Luật số 72/2006/QH11 của Quốc hội : Luật người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài thì Doanh nghiệp được đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề khi có đủ các điều kiện sau
đây:
- Có hợp đồng với cơ sở thực tập ở nước ngoài để đưa người lao động đi làm việc

ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề (sau đây gọi là Hợp
đồng nhận lao động thực tập) quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 35 của Luật
này và đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Có Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực
tập nâng cao tay nghề (sau đây gọi là Hợp đồng đưa người lao động đi thực tập)
quy định tại khoản 3 Điều 35 của Luật này; người lao động được doanh nghiệp
đưa đi thực tập nâng cao tay nghề phải có Hợp đồng lao động với doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật về lao động;
- Ngành, nghề người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập
nâng cao tay nghề phải phù hợp với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp;
- Có tiền ký quỹ thực hiện Hợp đồng nhận lao động thực tập theo quy định của
Chính phủ.
7
1.2.5. Điều kiện để tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài
Theo điều số 31 Luật số 72/2006/QH11 của Quốc hội : Luật người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài thì tổ chức sự nghiệp được đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Là tổ chức sự nghiệp thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- Được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ giao nhiệm vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
- Người lãnh đạo điều hành tổ chức sự nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên,
có ít nhất ba năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài hoặc hoạt động trong lĩnh vực hợp tác và quan hệ quốc tế;
- Hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của tổ chức sự nghiệp
là hoạt động phi lợi nhuận.
8
Chương 2
Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011

2.1. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Trong nhiều năm qua, lao động Việt Nam đã được xuất khẩu ra khá nhiều nước
trên thế giới. Cho dù kinh tế thế giới trong gia đoạn khó khăn nhưng trong năm 2011
vừa qua số lượng người lao động xuất khẩu ra nước ngoài đã đạt 101,15% đề ra, tăng
2,9% so với năm 2010. Trước đó trong 3 năm, từ 2006 đến 2008, gần 250.000 lao
động được đưa đi làm việc ở nước ngoài, bình quân mỗi năm khoảng 83.000 người,
chiếm 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm.
Trong năm 2011, sự kiện ở Libya cũng khiến cho hơn 10.000 lao động Việt Nam
phải quay về nước và tất nhiên cũng không thể đưa thêm lao động sang thị trường này.
Một số thị trường lao động ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia,
Lào vẫn chiếm một số lượng lớn lao động xuất khẩu của nước ta, với khoảng hơn
200.000 người đang lao động tại thị trường này. Một số thị trường mới tiềm năng ở
Trung Đông hay Úc, New Zealand, và một số nước châu Âu.
Các lao động xuất khẩu đem về ngoại tệ cho đất nước, có điều kiện học hỏi nâng
cao tay nghề, kinh nghiệm cho bản thân, giúp ích nhiều cho nền kinh tế. Nhưng sau khi
về nước, nhiều người không được bố trí vào công việc phù hợp để tận dụng vốn kỹ
năng và kinh nghiệm quý giá của mình tích lũy được khi xuất ngoại. Đây cũng là một
điều rất đáng tiếc, lãng phí khả năng của lao động xuất khẩu.
SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
THỜI KÌ 2007 - 2011
NĂM SỐ LAO ĐỘNG ( người)
2007 85020
2008 86990
2009 65631
2010 85546
2011 88298
Lao động xuất khẩu qua đào tạo ngày càng tăng. Năm 2007, người lao động Việt
Nam ở nước ngoài gửi về nước lượng kiều hối từ 1,6 tỷ USD. Trung bình mỗi năm
9
gửi về từ 1,6 tỷ đến 2 tỷ USD. Trong đó từ Hàn Quốc trên 700 triệu USD, Nhật Bản

hơn 300 triệu USD. Năm 2010, Việt Nam đứng thứ 16 trong 30 quốc gia có lượng
kiều hối chuyển về nhiều nhất là một trong 10 quốc gia có thu nhập lớn từ xuất khẩu
lao động.
2.1.1. Những thành tựu đạt được trong các năm
Theo Tổng cục Thống kê, dân số trung bình cả nước năm 2011 ước tính 87,84
triệu người, tăng 1,04% so với năm 2010. Trong đó, dân số nam là 43,47 triệu người,
chiếm 49,5% tổng dân số cả nước, dân số nữ 44,37 triệu người, chiếm 50,5%. Đối với
một nước dân số trên 87 triệu dân, với trên một nữa là số người trong độ tuổi lao động,
nhưng số người thất nghiệp ở thành thị năm 2011 lên đến 3,6% và tỷ lệ thiếu việc làm
của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 3,34%, trong đó khu vực thành thị là 1,82%,
khu vực nông thôn là 3,96% thì xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm
cho người lao động rất có ý nghĩa. Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại
nguồn thu nhập cho đất nước. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho người lao động học
hỏi được những kinh nghiệm làm việc trong nền công nghiệp, nâng cao tay nghề và tác
phong làm việc cho người lao động Những người này, với những kinh nghiệm học
hỏi được cùng với số vốn mà họ tích lũy được sau khi hoàn thành hợp đồng sẽ trở về
quê hương đầu tư xây dựng nhà cửa, lập ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần
xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, xuất
khẩu lao động là một hình thức đang được Đảng và nhà nước rất quan tâm. Trong mấy
năm gần đây, số lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng lên rõ rệt về cả chất
lượng và số lượng.
Theo thông tin từ Hiệp Hội Xuất khẩu lao động Việt Nam (trang thông tin điện tử
- Bộ lao động - Thương binh và xã hội ngày 20/2/2008), trong năm 2007, Hiệp hội
biểu dương 19 doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong việc đưa lao động đi làm việc
ở nước ngoài. Trong đó công ty AIC đã xuất khẩu trên 5.000 lao động, còn lại các
công ty khác đã đưa được hơn 1.000 lao động / năm như các công ty TRAENCO, công
ty TTLC…Đạt được kết quả trên, những công ty này, trong năm phải vượt qua rất
nhiều khó khăn như thị trường lao động cạnh tranh gay gắt, nguồn tuyển lao động khan
hiếm, đã góp phần cùng 150 doanh nghiệp xuất khẩu lao động của cả nước đưa được
hơn 85 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong năm 2007, Trung tâm Lao

động Ngoài nước đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, nhiệm vụ được
Bộ giao về công tác tuyển chọn, đào tạo và đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Đây là năm thứ hai Trung tâm phối hợp với phía Hàn Quốc tổ chức thành công
2 đợt kiểm tra tiếng Hàn cho hơn 16 nghìn lao động; phối hợp với các đơn vị liên quan
và các địa phương hướng dẫn người lao động thi đạt chứng chỉ làm hồ sơ dự tuyển và
10
gửi hồ sơ qua mạng để chủ sử dụng lao động Hàn Quốc lựa chọn. Tính đến ngày
31/12/2007, Trung tâm đã đưa được 10.490 lao động đi làm việc tại Hàn Quốc. Chất
lượng lao động được tuyển chọn cơ bản đáp ứng được yêu cầu về tiếng Hàn và tay
nghề, tạo được uy tín đối với chủ sử dụng lao động trong những năm tới. Ngoài ra, đơn
vị còn chủ trì, phối hợp với Tổ chức Phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc và Trường
Cao đẳng Kỹ thuật công nghệ tổ chức 4 đợt kiểm tra tay nghề, thể lực và phỏng vấn
cho 1046 lao động trong ngành xây dựng, trong đó có 465 người đã được lựa chọn ký
hợp đồng trực tiếp với chủ sử dụng lao động. Cũng trong năm qua, Trung tâm đã tổ
chức 248 lớp học giáo dục định hướng cho 9867 lao động. Việc giáo dục định hướng
được tổ chức ở 3 miền Bắc, Trung, Nam đã giúp người lao động giảm chi phí đi lại
trong thời gian đào tạo và tiếp tục củng cố tiếng Hàn trong thời gian chờ xuất cảnh,
nâng cao nhận thức của người lao động trước khi sang làm việc ở nước ngoài. Bên
cạnh công tác tuyển chọn và đưa lao động sang Hàn Quốc, Trung tâm cũng phối hợp
với Cục Quản lý Lao động Ngoài nước, Hiệp hội Phát triển nhân lực quốc tế các doanh
nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản (IMM Japan) tổ chức tốt việc tuyển chọn và đào tạo cho
tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật Bản theo Bản Ghi nhớ giữa Bộ trưởng Bộ Lao
động-Thương binh và Xã hội và Chủ tịch IMM Japan ngày 11/10/2005. Nhờ đó, trong
năm đã đưa được 138 tu nghiệp sinh sang Nhật Bản theo chương trình này, được phía
bạn đánh giá cao, tạo cơ sở mở rộng chương trình với quy mô và số lượng lớn hơn
(riêng năm 2008, chỉ tiêu Nhật Bản dành cho Việt Nam khoảng 350 tu nghiệp sinh).
Ngoài ra, Trung tâm cũng tiếp tục thực hiện việc tiếp nhận thẩm định và xác nhận cho
gần 7000 lao động đi làm việc tại Đài Loan theo hợp đồng thứ hai. Trung tâm cũng
tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu
công tác; tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền sâu

rộng đến các cơ quan chức năng và người lao động về Chương trình EPS, cảnh báo kịp
thời những hành vi cò mồi, môi giới, lừa đảo người lao động. Năm 2008, Trung tâm
Lao động Ngoài nước sẽ tập trung thực hiện tốt công tác tuyển chọn lao động; chú
trọng công tác đào tạo, giáo dục định hướng nhằm nâng cao chất lượng lao động và tu
nghiệp sinh; đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời gian chờ xuất cảnh; phối hợp chặt
chẽ với Ban Quản lý Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc để quản lý người lao động; đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, quản lý tài chính, tăng cường công tác kiểm tra
và kiện toàn tổ chức bộ máy. Những đóng góp của trung tâm trong thời gian qua là rất
đáng ghi nhận.
Số lượng lao động Việt Nam tại Đài Loan tiếp tục giữ vị trí thứ 2 tại thị trường
này và hứa hẹn tiếp tục gia tăng. Phía Đài Loan đang thực hiện cơ chế kiểm soát gắt
gao đối với các trường hợp lao động bỏ trốn.
11
Lao động Việt Nam tại Đài Loan ngày tăng mạnh. (Ảnh: CTV)
Lãnh đạo Tổng cục lao động Ngoài nước (Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội) cho biết, hiện nhu cầu nhân lực tại Đài Loan đang tiếp tục tăng lên do nền kinh tế
ở khu vực này đang phát triển khá mạnh mẽ. Theo đó số lượng lao động nước ngoài
tới làm việc tại Đài Loan cũng gia tăng tỷ lệ thuận với nhu cầu nhân lực.
Cùng với nhu cầu nhân lực gia tăng mạnh mẽ, phía Đài Loan đã bắt đầu nới lỏng
biên độ “tổng lượng lao động nước ngoài” trên thị trường; Tổng số lao động nước
ngoài tại Đài Loan đã tăng mạnh chưa từng có. Theo thống kê của cơ quan lao động
Đài Loan trong 5 tháng đầu năm 2011, số lượng lao động nước ngoài tại Đài Loan tăng
thêm xấp xỉ 22.500 lượt người, tăng hơn gấp 2 lần so với lượng gia tăng cùng kì năm
ngoái.
Cơ quan chức năng dự đoán, con số này vẫn đang tiếp tục gia tăng hàng tháng và
chắc chắn sẽ vượt ngưỡng 400.000 người trong tháng tiếp theo.
Cũng theo báo cáo từ Cục quản lý lao động Ngoài nước về tình hình lao động
Việt Nam tại Đài Loan, tổng số lao động Việt Nam làm việc trong khu vực sản xuất tại
Đài Loan vẫn gia tăng mạnh.
Cụ thể, tổng số lao động ta tại Đài Loan là 85.650 người, tăng 6.269 lượt người

kể từ đầu năm, tiếp tục giữ vị trí thứ 2 về tổng số lao động nước ngoài tại Đài Loan và
chiếm 21,43% tổng số lao động nước ngoài làm việc tại thị trường này. Trong đó lao
động ngành sản xuất và xây dựng chiếm 29,63% thị phần ngành nghề; lao động chăm
sóc người bệnh tại bệnh viện và các cơ sở dưỡng lão tại Đài Loan hiện vẫn do phía
Việt Nam cung ứng là chủ yếu, chiếm 74,79% thị phần ngành nghề…
12
2.1.2. Những hạn chế
Mặc dù xuất khẩu lao động đã đạt được những thành tựu kể trên nhưng vấn đề
này vẫn tồn tại môt số hạn chế. Công tác xuất khẩu lao động trong thời gian qua vẫn
chưa ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng lao động trong nước. So với các nước
trong khu vực thì số lượng lao động xuất khẩu lao động của nước ta vẫn còn nhỏ bé.
Về chất lượng lao động là một điều rất được quan tâm của lao động Việt Nam,
lao động nước ta được biết đến với những bất lợi thể hiện ở “ba không”: Không nghề,
không ngoại ngữ và không tác phong công nghiệp. Điều này trở thành một bất lợi lớn
cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài.
Như ta đã biết trình độ tay nghề của lao động Việt Nam khi xuất khẩu ra nước
ngoài là rất thấp, chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao động phổ thông chưa qua đào
tạo nghề, không có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chính vì vậy mà thu nhập của người
lao động Việt Nam luôn thấp hơn lao động xuất khẩu của các nước khác.
Sức khỏe của lao động nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế, lao động của nước ta
chỉ đủ sức khỏe làm các công việc ở các ngành nghề như công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ, làm việc trong các nhà máy còn các công việc như đi biển, xây dựng thì chưa
đạt yêu cầu. Đây cũng là một trong những trở ngại cho lao động Việt Nam.
Trình độ ngoại ngữ của lao động được đánh giá là rất kém. Những mâu thuẫn
trong lao động đều xuất phát từ bất đồng ngôn ngữ giữa giới chủ và lao động Việt
Nam. Nhiều lao động bị trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ
ngoại ngữ.
Kỉ luật lao động là một điều mà đã gây ra tai tiếng cho lao động nước ta khi làm
việc ở nước ngoài. Lao động nước ta khi làm việc ở các nước sở tại đều thiếu kỉ luật và
thiếu nghiêm túc trong việc thực hiện bảo hộ lao động. Bằng chứng là rất nhiều lao

động nước ta làm việc tại Malaysia thường xuyên bị tai nạn lao động kể từ năm 2004
trở lại đây.
2.1.3. Nguyên nhân của các hạn chế
Nguyên nhân chính của những vấn đề nêu ở trên là do: người lao động được đưa
đi làm việc ở nước ngoài đa phần là lao động nông thôn. Những lao động này phần
lớn là chưa qua một lớp đào tạo chính quy về tay nghề. Cuộc sống làm nghề nông ở
một nước còn kém phát triển như Việt Nam đã hình thành nên trong họ tác phong
chậm chạp, thiếu sự gắn bó trong hợp tác lao động, thiếu hiểu biết về sản xuất công
nghiệp.
Bên cạnh đó tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta còn tồn tại một số vấn đề
trong công tác quản lý xuất khẩu lao động. Lao động Việt Nam tại nước ngoài không
13
có “người quản lý” dẫn tới việc sống và làm việc vô tổ chức, bị trục xuất về nước
cũng chẳng có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Ở một số thị trường truyền thống như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động nước ta vẫn cao
( khoảng 10 – 15%) làm ảnh hưởng tới uy tín của lao động Việt Nam. Hiện tượng các
tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao động đi xuất
khẩu lao động vẫn còn.
Đề án đưa người lao động đi làm việc nước ngoài đến năm 2015 của Chính phủ
đang được thực hiện, theo đó cùng với việc nâng tỷ lệ đưa người lao động Việt Nam
ra nước ngoài, mở rộng thị trường lao động, nâng cao chất lượng, thì siết chặt quản lý,
nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng được đặt ra cấp thiết.
Ngoài ra vẫn còn một số hạn chế trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu lao
động của nước ta còn hạn chế. Hiện nay nước ta vẫn đang tập trung chủ yếu vào việc
xuất khẩu lao động ở các thị trường truyền thống và chưa có sự phát triển những thị
trường mới trong bối cảnh mà thị trường truyền thống đang ngày càng bị thu hẹp.
Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu lao động vẫn còn có thái độ trông chờ, ỷ lại
vào đối tác. Thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về quản lý lao
động, chưa chấp hành tốt những quy định về chế độ tuyển chọn, đào tạo, định hướng
nhằm bảo vệ người lao động làm việc tại nước ngoài.

Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động cấp nhà nước với các
cơ quan cấp địa phương và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
Các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và thường đi
sau thực tế.
Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan thường rườm rà, phức tạp gây
mất nhiều thời gian và tiền của của người lao động.
Công tác triển khai thực hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động
được tiến hành chưa thực sự nghiêm túc và có hiệu quả.
2.1.4. Chính sách hỗ trợ người tham gia xuất khẩu lao động
Theo các doanh nghiệp, người lao động thuộc các huyện nghèo, người dân tộc
thiểu số đi xuất khẩu lao động được Nhà nước hỗ trợ gần như 100% các chi phí liên
quan theo tinh thần của quyết định 71 của Thủ tướng Chính phủ về việc “hỗ trợ các
huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn
2009-2020”. Theo đó, người lao động được hỗ trợ 100% chi phí học nghề, học ngoại
ngữ; tiền ăn và được cấp 40.000 đồng sinh hoạt phí/ngày; tiền lưu trú 200.000
đồng/người/tháng; các trang thiết bị như đồng phục, tiền tàu xe đi lại, chi phí làm hồ
sơ, khám sức khỏe, làm hộ chiếu cũng được hỗ trợ hoàn toàn.
14
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, bên cạnh các chi phí trên thì phí dịch vụ
sẽ được vay 100% với mức lãi suất ưu đãi tại các ngân hàng chính sách xã hội ở huyện
mà người lao động cư trú. Mức lãi suất ưu đãi bằng 50% mức quy định của ngân hàng
(mức vay ưu đãi khoảng 0,33% - PV). Thời gian vay theo hợp đồng làm việc và trả
dần đến lúc người lao động về nước khi hết hợp đồng. Lao động không phải hộ nghèo
nhưng thuộc huyện nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề, học ngoại ngữ và giáo dục
định hướng bằng 50% mức hỗ trợ so với các đối tượng hộ nghèo.
Ngoài quyết định 71 nói trên, mới đây Thứ trưởng Bộ Lao động - thương binh và
xã hội Nguyễn Thanh Hòa vừa ký ban hành văn bản về việc “hướng dẫn thực hiện dự
án hỗ trợ lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” năm 2011.
Theo đó, lao động là thân nhân chủ yếu của người có công, hộ nghèo, người dân

tộc thiểu số thuộc chín tỉnh nằm trong dự án (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Định và Hậu Giang) có nguyện
vọng đi lao động ở nước ngoài sẽ được hỗ trợ các chi phí ban đầu. Dự án này không
bao gồm người lao động thuộc 62 huyện nghèo đã được hỗ trợ theo quyết định 71, bao
gồm: chi phí học nghề ngắn hạn, chi phí học ngoại ngữ, chi phí bồi dưỡng cần thiết,
tiền ăn hằng ngày trong thời gian theo học và tiền đi lại.
Ngoài ra, các chi phí làm hộ chiếu, visa, khám sức khỏe, làm lý lịch tư pháp cũng
được hỗ trợ. Người lao động chỉ được hỗ trợ một lần cho từng nội dung hỗ trợ. Trường
hợp chi phí thực tế cao hơn mức hỗ trợ, học viên sẽ đóng góp hoặc ngân sách địa
phương xem xét bổ sung.
2.1.5. Các doanh nghiệp, công ty thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động như thế
nào?
Một thực tế đáng buồn hiện nay là nguồn lao động của Việt Nam đang bị lãng phí
rất lớn. Có rất nhiều người lao động đang phải chờ được đi xuất khẩu lao động ở các
Trung tâm hay Công ty xuất khẩu lao động không có đủ chức năng và cả ở những
Trung tâm, Công ty xuất khẩu lao động “ma”. Nguồn lao động này chủ yếu là những
người nông dân đang chờ mong một cơ hội để thay đổi cuộc sống. Tuy nhiên, niềm hy
vọng đó của nhiều người đang ngày càng bị mai một bởi những chiêu thức lừa đảo quá
tinh vi và bởi cả những khoản nợ chồng chất do đi vay để nộp tiền đặt cọc. Và thêm
vào đó là hàng loạt các rủi ro khác như: không xuất khẩu lao động được sau một thời
gian dài chờ đợi và cũng không thể lấy lại được số tiền đã đặt cọc, hoặc nếu có thì chỉ
là một phần nhỏ.
15
Thực tế cho thấy, số vụ lừa đảo không những đã tăng lên hàng năm mà diễn biến
của nó cũng hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Bên cạnh việc tuyển dụng
lao động bất hợp pháp của một số cán bộ chi nhánh, trung tâm thuộc một số doanh
nghiệp đầu mối là sự xuất hiện một số doanh nghiệp không có chức năng này cũng làm
công tác tư vấn và thu tiền bất hợp pháp của người lao động dưới danh nghĩa đưa đi
học và làm việc tại nước ngoài. Có trường hợp đối tượng lừa đảo còn chọn vị trí ngay
gần các doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu trong lĩnh vực này để hoạt động. Ngoài

ra, chúng còn thông qua các trung tâm đào tạo nghề, thành lập các doanh nghiệp ở vị
trí lẩn khuất, giả danh cán bộ đi tuyển sinh, đưa người lao động đi học để gây được
niềm tin… Vì thế mà nhiều người sau một thời gian dài đi học, đã đóng một khoản tiền
lớn cho cò mồi mới hay mình bị lừa.
Hiện nay, việc đưa người lao động đi xuất khẩu lao động nước ngoài là một trong
những hoạt động hấp dẫn khá nhiều các đối tượng tham gia. Những lợi ích trước mắt
trong việc đưa người đi lao động khiến cho nhiều tổ chức tham gia vào hoạt động này.
Nhưng đáng tiếc là họ không đủ khả năng. Thị trường lao động nước ngoài mặc dù
đem lại cho nguồn lao động trong nước cơ hội làm việc với mức thù lao lớn hơn trong
nước nhưng nó cũng có rất nhiều vấn đề pháp lý liên quan. Nếu không nắm bắt rõ
được các quy định của cả trong nước và nước ngoài thì quyền lợi của người lao động
Việt Nam sẽ rất khó được đảm bảo. Theo quy định tại mục c khoản 2 Điều 27 Luật
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật
NLĐVNĐLVONN) năm 2006 thì doanh nghiệp dịch vụ có nghĩa vụ “Phối hợp với
chính quyền địa phương thông báo công khai, cung cấp cho người lao động đầy đủ các
thông tin về số lượng, tiêu chuẩn tuyển chọn và các điều kiện của Hợp đồng đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài”. Tuy nhiên, qua tìm hiểu từ những người lao động
đã từng đi đăng ký ở một số Công ty, Trung tâm xuất khẩu lao động nước ngoài (hiện
nay đã về quê vì không được đi xuất khẩu lao động) chúng tôi được biết, đa số họ chỉ
thông qua một người giới thiệu nào đó để đi đến các Công ty, các Trung tâm xuất khẩu
lao động đăng ký xuất khẩu lao động. Đến các Công ty hay Trung tâm này, họ cũng
được yêu cầu nộp hồ sơ, đóng tiền phí và được học tiếng của nước mình sẽ đi xuất
khẩu lao động. Song có một điều quan trọng mà họ không hề được biết là công ty nước
ngoài nào thuê mình, vì trong hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
do các Công ty, các Trung tâm cấp cho họ, không hề ghi tên và số của hợp đồng cung
ứng lao động. Mà bản hợp đồng này chỉ có giá trị làm thủ tục vay tiền ngân hàng. Họ
được học trong một thời gian dài nhưng không được ký hợp đồng. Có người đã học
xong tiếng để đi Hàn Quốc, nhưng lại phải chuyển qua lớp học tiếng Đài Loan, vì
Trung tâm thông báo nhu cầu của bên Hàn Quốc hiện thời không có. Lúc đầu, các
16

Công ty, Trung tâm cũng thông báo thời gian xuất cảnh đi lao động, nhưng đến hạn lại
thông báo chuyển sang thời điểm khác vì nhiều lý do khác nhau.
Hơn thế nữa, ngay cả đối với những trường hợp đã được xuất khẩu lao động thì
quyền và lợi ích của những người lao động này cũng không được bảo đảm đầy đủ.
Nhiều doanh nghiệp dịch vụ đã không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết sau khi
họ đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài. Tại mục e khoản 2 Điều 27 Luật
NLĐVNĐLVONN cũng đã quy định cho các doanh nghiệp dịch vụ phải có nghĩa vụ:
“Phối hợp với bên nước ngoài giải quyết các vấn đề phát sinh khi người lao động chết,
bị tai nạn lao động, tai nạn rủi ro, bị bệnh nghề nghiệp, bị xâm hại tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và giải quyết tranh chấp liên quan tới người lao
động”. Nhưng thực tế thì hiện tượng người lao động của Việt Nam không được bảo vệ
thích đáng trong quá trình lao động còn xảy ra khá phổ biến, vì khi sang nước ngoài họ
không hề liên lạc được với doanh nghiệp dịch vụ đã đưa mình đi cũng như không có tổ
chức nào ở nước ngoài đứng ra bảo vệ họ.
Sau một thời gian áp dụng Luật NLĐVNĐLVONN năm 2006 (có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/7/2007), đến nay, Luật vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong
đợi. Nhiều điều khoản trong Luật này chưa được áp dụng, thực thi nghiêm chỉnh.Và
bên cạnh đó, Luật cũng còn có những hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo
quyền lợi cho người lao động, nghĩa vụ cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao
động. Ví dụ như Điều 27 quy định về quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp dịch vụ,
cần bổ sung thêm quy định về thời hạn đưa người lao động đi xuất khẩu lao động tính
từ ngày doanh nghiệp nhận hồ sơ của người lao động, nhằm yêu cầu doanh nghiệp làm
dịch vụ xuất khẩu lao động phải có trách nhiệm đưa người lao động xuất khẩu lao
động đi đúng thời gian, đảm bảo lợi ích cho người lao động.
2.2. Thị trường xuất khẩu lao động
2.2.1. Thị trường truyền thống
Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì hiện nay có khoảng
1,5 triệu lao động của nước ta đang làm việc tại các thị trường lao động ở nước ngoài
như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, … Những người đi xuất khẩu lao động
đã phần nào cải thiện được cuộc sống của gia đình họ và góp phần vào việc xóa đói

giảm nghèo của đất nước
Thị trường lao động Đài Loan - một thị trường được xem là hấp dẫn với lao
động Việt Nam, nhưng chủ yếu họ chỉ tiếp nhận những lao động có nghề, phải biết
tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và kèm theo đó là những quy định ngặt nghèo về sức khỏe.
Theo đánh giá của Ủy ban lao động Đài Loan thì hiện nay lao động Việt Nam đang
17
làm việc chủ yếu ở những ngành nghề như: điện tử, may mặc, dệt, chế tạo máy, giúp
việc gia đình, thuyền viên đánh cá…(thống kê sơ bộ thì có khoảng 28 ngành nghề khác
nhau). Mức lương hiện tại của lao động nước ta làm việc tại thị trường này khoảng từ
400 USD/người/tháng đến 1300 USD/người/tháng.
Thị trường lao động Nhật Bản từ trước đến nay được xem là một điểm dừng
chân lý tưởng cho lao động Việt Nam. Với mức thu nhập từ 700 USD/người/tháng đến
1500 USD/người/tháng đã thu hút nhiều lao động Việt Nam tham gia vào thị trường
này. Tuy nhiên tại thị trường này có yêu cầu khắt khe với các lao động nhập cư: Người
lao động phải biết tiếng Nhật, có tay nghề và đảm bảo sức khỏe để làm việc với cường
độ cao.
Bên lề một hội nghị về xuất khẩu lao động, nhiều chuyên gia đã đưa ra cảnh
báo, nếu để tình trạng nói trên kéo dài, thị trường Malaysia sẽ bị “xóa sổ”. Nhiều
doanh nghiệp đưa ra dẫn chứng, họ đã phải rút mục tiêu xuất khẩu lao động sang
Malaysia xuống 1/3 so với năm 2007. Mặc dù vậy, họ vẫn không giám chắc sẽ đạt
được con số ít ỏi đó.
(Theo VnEconomy ngày 11/03/2008). Trao đổi với VnEconomy về việc làm gì
để khôi phục lại thị trường Malaysia truyền thống, ông Nguyễn Xuân Vui, Giám đốc
Airserco cho rằng, rất khó để làm việc đấy nếu Chính phủ Malaysia không có kế hoạch
tăng lương cho lao động nhập cư. Trước mắt, cách duy nhất để níu giữ thị trường
Malaysia, các doanh nghiệp cần giảm chi phí đi xuống mức tối thiểu cho người lao
động. Ngoài ra, doanh nghiệp phải thỏa thuận được với ngân hàng để người lao động
có thể vay tiền nhưng không phải chịu lãi hàng tháng và cố gắng tìm kiếm những hợp
đồng có thu nhập tối thiểu khoảng 4,5 triệu đồng/tháng, đặc biệt là tìm được những
công việc có thể giúp người lao động làm thêm giờ. Về lâu dài, nhiều doanh nghiệp

cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp là Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Cục quản lý Lao động ngoài nước cần có những biện pháp khẩn cấp, đàm phán về
lương để giữ lại thị trường mới và tiềm năng này. Tuy nhiên, đại diện của Cục Quản lý
lao động ngoài nước lại cho rằng, doanh nghiệp cần quan tâm đến khâu thẩm định hợp
đồng, tránh tình trạng đưa người lao động sang đến Malaysia rồi mà vẫn không có việc
làm hoặc làm không đúng việc, thu nhập không đảm bảo gây tâm lý hoang mang và
mất lòng tin của người lao động.
Canada được coi là thị trường tiềm năng, ngoài điều kiện ăn ở và làm việc tốt,
người lao động Việt Nam còn được học hỏi thêm về kinh nghiệm làm việc và kinh
doanh để khi về nước có thể tự phát triển sản xuất hoặc kinh doanh. Thị trường này
đang có nhu cầu tuyển lao động làm việc trong các khách sạn, trang trại, nhà máy và
ng ành xây dựng với mức lương khoảng 1000 USD/tháng.
18
Hàn Quốc cũng là một điểm dừng chân tốt cho lao động Việt Nam, Đến nay đã
có hơn 52.000 tu nghiệp sinh Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc. Đặc biệt, có
khoảng 3.000 lao động đang làm việc theo Luật lao động mới của Hàn Quốc. Bộ Lao
động, thương binh và xã hội đã lập 10 trường đào tạo tiếng Hàn và giáo dục định
hướng cho lao động trước khi sang làm việc tại Hàn Quốc. Thời gian tới, phía Hàn
Quốc sẽ giúp đỡ Việt Nam trong việc cung cấp giáo trình và giáo viên đào tạo tiếng
Hàn cũng như phong tục tập quán của Hàn Quốc.
Tuy nhiên tại những thị trường truyền thống này chúng ta gặp không ít khó
khăn do những nguyên nhân xuất phát chủ yếu từ người lao động như là tay nghề còn
yếu kém, ý thức kỉ luật không cao. Theo ước tính của Cục quản lý lao động ngoài nước
hàng năm có hàng nghìn lao động Việt Nam tự ý bỏ hợp đồng lao động đi làm việc
ngoài do vậy nhiều thị trường lao động đã hạn chế tiếp nhận lao động Việt Nam. Bên
cạnh đó những yêu cầu về trình độ tay nghề của lao động xuất khẩu ngày càng khắt
khe hơn nên đây là một trở ngại lớn cho việc xuất khẩu lao động của Việt Nam tại
những thị trường lao động truyền thống này.
2.2.2. Thị trường mới
Ngoài việc phải duy trì và phát triển thị trường lao động truyền thống đang ngày

càng trở nên eo hẹp thì nước ta phải đẩy mạnh phát triển những thị trường lao động
mới để đảm bảo giải quyết việc làm cho người lao động nước ta.
Hiện nay tại thị trường lao động Libi có khoảng hơn 1000 lao động làm việc
chủ yếu trong các lĩnh vực xây dựng và đánh bắt hải sản với mức thu nhập bình quân
khoảng từ 300 - 400 USD/người/tháng.
Theo thống kê của Bộ lao động - thương binh và xã hội, 8 tháng đầu năm 2007,
đã có 1.461 lao động được đưa sang Macao, làm việc ở các lĩnh vực dịch vụ nhà hàng
khách sạn, thợ xây dựng, trang trí nội thất, nhưng chủ yếu là giúp việc gia đình
Nhiều công ty khai thác tại thị trường này cho biết, Macao là một vùng lãnh thổ nhỏ,
chỉ với 180.000 hộ dân, nhưng nhu cầu nhập khẩu lao động rất lớn. Đa số hộ dân cần
sử dụng giúp việc gia đình. Bên cạnh đó, chính sách tiếp nhận lao động của Macao khá
thông thoáng. Đây là điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp Việt Nam đưa lao động
sang thị trường này. Mặc dù ở Macao không quy định mức lương tối thiểu cho lao
động giúp việc gia đình nhưng thu nhập của lao động tại thị trường này khá cao so với
chi phí bỏ ra ban đầu. Đối với lao động phổ thông, mức thu nhập khoảng 5 triệu
đồng/người/tháng. Còn lao động giúp việc gia đình lương không dưới 3 triệu đồng.
Tuy nhiên, cũng chính vì chính sách "quá mở", người nước ngoài có thể vào Macao
thường xuyên và rất dễ dàng nên bất cứ ai đặt chân lên đất Macao chỉ được cấp visa du
lịch, kể cả trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, đây chính là lỗ hổng phát sinh nhiều bất
19
cập. Pháp luật Việt Nam (luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài) quy định
không được phép đưa lao động ra nước ngoài bằng hình thức visa du lịch. Thế nhưng,
với thị trường Macao hình như là một ngoại lệ. Cả 10 công ty khai thác thị trường này
đều phải chấp nhận đưa lao động đi theo hình thức visa du lịch. Sau khi sang đến đất
Macao, người lao động được chủ sử dụng lao động tiếp nhận, họ sẽ có trách nhiệm lo
thủ tục làm thẻ xanh, tức là thẻ cư trú khoảng 1năm. Theo đó, người lao động sau khi
nhập cảnh vào Macao mới được biết chủ sử dụng lao động là ai. Điều này hoàn toàn
trái ngược với quy trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài của Việt Nam hiện nay.
Đấy là chưa kể đến chuyện ngay cả khi đặt chân lên đất Macao rồi, doanh nghiệp xuất
khẩu lao động cũng như chính người lao động không biết chắc mình có được chủ chọn

hay không? Thời gian ký kết hợp đồng và mức lương như thế nào? Thậm chí, không
loại trừ trường hợp sẽ có nhiều lao động đã sang Macao nhưng không được chủ chọn.
Doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm với những lao động sau khi hết thời hạn visa du lịch
mà vẫn chưa tìm được việc. Cụ thể, doanh nghiệp sẽ đưa lao động về nước và hoàn trả
lại toàn bộ chi phí mà người lao động bỏ ra. Tuy nhiên, nhiều người lo ngại việc đi
ngược lại với quy định của pháp luật trong hoạt động xuất khẩu lao động sang Macao
sẽ tạo nên kẽ hở cho những đối tượng lừa đảo có cơ hội lộng hành. Hoạt động đưa lao
động ra nước ngoài bằng hình thức visa du lịch.có lẽ cần được sự xem xét kỹ lưỡng
hơn từ phía các cơ quan quản lý.
Tại Anh và Hy Lạp, bước đầu đã có lao động Việt Nam làm việc, tuy số lượng
không nhiều, nhưng thu nhập của lao động Việt Nam tại các nước này tương đối cao.
Tại các thị trường đã có, phần lớn lao động Việt Nam được đánh giá khá tốt về khả
năng làm việc, chăm chỉ và tiếp thu nhanh. Nhìn chung, thu nhập của người lao động
ổn định. Đặc biệt, lao động làm việc trong các nhà máy sản xuất công nghiệp, công
trường xây dựng lớn có liên doanh với nước ngoài có điều kiện làm việc, ăn ở và thu
nhập khá tốt. Gần đây xuất hiện thêm hai thị trường xuất khẩu lao động "mới toanh",
đó là Australia và Ireland. Mức lương tại đây có thể lên tới 2.000 euro/tháng .Thời
gian qua, một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam cũng đã đàm phán với
một số doanh nghiệp Australia để có thể đưa số lao động "thí điểm" đầu tiên sang làm
việc tại các lĩnh vực: xây dựng, trang trại, dịch vụ và khách sạn Ngoài ra, một số
doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam cũng đang lên kế hoạch khai thác thị
trường Ireland - một điểm đến rất mới. Theo kế hoạch sắp tới những kỹ sư xây dựng
đầu tiên sẽ đến Ireland làm việc với mức lương khoảng 2.000 Euro. Thời gian gần đây,
một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam đang “gõ cữa” hai thị trường n ày,
chi phí trước khi đi khoảng 3.000-5.000 USD. Theo hãng tin AC Nielsen, Australia
đang thiếu nhân công trầm trọng trong lĩnh vực xây dựng, trang trại Do thiếu lao
động nên đã vài tháng qua, đa số doanh nghiệp xây dựng nước này không hoàn thành
20
tiến độ, chỉ tiêu nhiều dự án quan trọng; bên cạnh đó, hầu hết các trang trại lớn cũng
đang rơi vào tình cảnh trái chín rụng do không kịp thu hoạch. Tình trạng thiếu nhân

lực đã buộc Chính phủ nước này phải chuẩn bị lên kế hoạch nhập khẩu lao động từ các
nước thuộc khu vực châu Á- Thái Bình Dương; trước mắt số lao động dự định sẽ tuyển
sang khoảng 20.000 người, lương khoảng 1.500 - 2.000 USD/người/tháng (Vnmedia
ngày tin 12/04/2005). Nắm bắt nhu cầu, một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt
Nam đang có kế hoạch thăm dò, khai thác thị trường này. Từ trước đến nay, Australia
chưa nhập khẩu lao động từ các nước khu vực châu Á, nhưng lần này có thể sẽ khác.
Chính phủ nước này đang xem xét kế hoạch cấp một loại thị thực (ngắn hạn) đặc biệt
cho lao động đến từ các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh đó,
Chính phủ Australia cũng đang nghiên cứu để có thể tăng số người nhập cư lên
140.000 người/năm nhằm giải quyết tình trạng thiếu nhân công. Về phía các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động, mới đây, Công ty Xây dựng Dịch vụ và Hợp tác lao động
(OLECO) đã thống nhất được với các đối tác Ixraen tiếp nhận lao động nông nghiệp từ
Việt Nam dưới dạng tu nghiệp sinh, ngoài mức trợ cấp được phía Ixraen trả khá cao,
những tu nghiệp sinh nông dân này sẽ học tập được phương pháp sản xuất nông nghiệp
kỹ thuật cao của IIxraen - một trong những quốc gia hàng đầu về khoa học kỹ thuật
nông nghiệp. Công ty Cung ứng lao động Quốc tế và Dịch vụ Inmasco hiện cũng đang
tuyển dụng một số lượng lớn kỹ sư xây dựng đi làm việc tại Angiêri thông qua một
nhà thầu Nhật Bản.
Tại một thị trường mới khác là Singapore, nhiều doanh nghiệp điện tử và các
công ty kinh doanh dịch vụ nước này cũng đã có xu hướng tuyển dụng lao động Việt
Nam nhiều hơn. Đơn vị "mở hàng" thị trường này năm nay là Công ty Dịch vụ xuất
khẩu lao động và chuyên gia (Suleco) với một hợp đồng tuyển 70 lao động với mức
lương rất cao, từ 1.400-1.800 SGD/người/tháng (xấp xỉ 14 -18 triệu VND). Đây là
khoản thu nhập chính thức cao nhất mà lao động Việt Nam có được trong số các thị
trường xuất khẩu ở Châu Á. Theo Cục Quản lý Lao động Ngoài nước, Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, hai tháng đầu năm nay đã có trên 15.760 lao động đi làm việc
tại nước ngoài. Trong số này, các thị trường truyền thống là Đài Loan, Malaixia, Hàn
Quốc và Nhật Bản vẫn chiếm phần lớn nhưng đang gặp khó khăn do quota bị hạn chế
và những điều kiện khách quan khác. Một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt
Nam khẳng định, các chủ sử dụng của nước này tỏ ra rất khắt khe khi nhận lao động

nước ngoài. Họ thường nhấn mạnh đến chất lượng lao động. Vì thế doanh nghiệp khai
mở thị trường mà chất lượng lao động đảm bảo sẽ được ưu tiên hàng đầu. Hầu hết các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam dự đoán, hiện nay một bộ phận không nhỏ
người dân Australia chưa cảm thấy thoải mái với chính sách nhập khẩu lao động
nhưng nếu lao động nước ngoài đến đất nước này mà góp phần giải quyết tốt tình trạng
21
thiếu nhân công thì chắc chắn sẽ chiếm được cảm tình lâu dài của chủ sử dụng lao
động.
Qua những phân tích ở trên, chúng ta đã thấy được rằng : Trong bối cảnh toàn
cầu hoá, di cư lao động quốc tế dưới hình thức xuất khẩu lao động gia tăng mạnh và đã
góp phần tích cực vào chiến lược giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo sự ổn định và
phát triển đất nước. Với một số lượng lao động khá lớn đang làm việc ở nước ngoài,
hằng năm đã mang lại một nguồn thu nhập rất lớn bằng ngoại tệ mạnh góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời cải thiện đời sống của nhiều gia đình. Đối với người
lao động, mức lương trung bình 300-500USD/tháng, bình quân hàng năm mỗi lao
động làm việc ở nước ngoài tiết kiệm được khoảng 4000 USD, góp phần giúp đỡ cho
gia đình, cộng đồng và quê hương. Ngoài ra, bản thân người lao động còn tiếp thu học
hỏi được nhiều kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, lối sống văn
minh, tiếp nhận các giá trị xã hội mới. Đây là những cái được cần phát huy. Tuy nhiên,
lao động Việt Nam cũng có những nhược điểm căn bản như trình độ ngoại ngữ, tay
nghề, ý thức kỷ luật, trách nhiệm trong công việc còn kém so với lao động từ nhiều
nước khác. Về mặt tổ chức, công tác tuyển chọn và đào tạo trước khi đi làm việc ở
nước ngoài chưa được thực hiện tốt dẫn đến nhiều tiêu cực. Tình trạng lao động Việt
Nam bị bỏ rơi sau khi đặt chân đến nước bạn, hoặc bị trả về trước thời hạn do không
đáp ứng được nhu cầu của bên sử dụng lao động hoặc do phá hợp đồng diễn ra thường
xuyên trên thực tế. Đây là những bất lợi và thách thức lớn đòi hỏi phải có những bước
đột phá trong cơ chế chính sách quản lý xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay. Điều
đáng đề cập là cơ hội đi xuất khẩu lao động không hoàn toàn dễ dàng đối với lao động
nông nghiệp, đặc biệt là đối tượng nghèo, nghèo cả về thông tin, quan hệ xã hội lẫn
tiềm lực kinh tế. Người có nhu cầu đi lao động ở nước ngoài còn phải trải qua nhiều

thủ tục rườm rà, khó khăn trong giấy tờ, thế chấp, đặt cọc ngân hàng với những thủ tục
đến nản lòng, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng lừa đảo bóc lột người lao động. Thật khó
có thể giúp người nông dân nghèo vay mượn 4-5 nghìn USD để đóng cho công ty
tuyển dụng cung ứng lao động. Tại nhiều doanh nghiệp, mạng lưới môi giới đã xuất
hiện với cách “làm giá” đi xuất khẩu với cách “làm ăn chụp giật”, gây mất uy tín, thậm
chí vi phạm pháp luật. Hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta gặp nhiều khó khăn
hơn do sự khốc liệt của thị trường quốc tế. Lao động Việt Nam giờ đây phải cạnh tranh
với ngay chính các lao động đến từ các nước trong khu vực như Inđônêxia, Băng-la-
đét, Philípin. Các thị trường tiếp nhận lao động trên thế giới trở nên “khó tính” hơn,
thận trọng hơn, trong khi tiền lương tối thiểu cho người lao động ngày càng giảm sút
trong bối cảnh cạnh tranh, toàn cầu hoá. Trong khi các kênh di cư lao động chính
thống dưới hình thức xuất khẩu lao động chưa đủ sức đáp ứng được nhu cầu việc làm
thì các luồng di cư qua các kênh phi chính thức diễn ra khá phổ biến, đó là đưa người
22
ra nước ngoài trái phép gia tăng trong những năm qua. Số nạn nhân bị lừa gạt, buôn
bán qua biên giới Trung quốc và Cămpuchia ngày càng nhiều, với những thủ đoạn tinh
vi, che đậy dưới nhiều hình thức, vỏ bọc khác nhau. Vấn nạn buôn người đã đánh
trúng tâm lý mong muốn có được việc làm dễ dàng, có thu nhập, không đòi hỏi thủ tục
và đặc biệt là sự kém hiểu biết do thiếu thông tin của nạn nhân. Giống như ở nhiều
nước khác trên thế giới, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em từ nông thôn ra thành
phố cũng như qua biên giới đến các khu vực khác sẽ tiếp tục gia tăng ở Việt Nam.
Xuất khẩu lao động vẫn đang là một kênh rất hữu hiệu để giải quyết việc làm cho lao
động Việt Nam hiện nay và cho những năm tiếp theo. Vì vậy, phải làm thế nào để đẩy
mạnh công tác xuất khẩu lao động ở nước ta hiện nay đang là vấn đề cấp bách.
Bên cạnh đó còn nhiều thị trường tiềm năng như: thị trường lao động vận tải
biển, Ixaren, Băng-la-đét…có mức thu nhập cao và điều kiện làm việc tốt đang được
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nước ta khai thác.
Chương 3
Định hướng nâng cao công tác xuất khẩu lao động
3.1. Định hướng phát triển xuất khẩu lao động

3.1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà Nước
23
Xuất khẩu lao động ra nước ngoài thực ra đã được nhà nước ta quan tâm từ lâu.
Ngay vào đầu thập niên 80, Việt Nam bắt đầu thực hiện các hoạt động xuất khẩu lao
động. Từ cuối năm 1991 đến nay, cùng với chính sách đổi mới và mở rộng quan hệ
quốc tế với bên ngoài, hoạt động xuất khẩu lao động đã chuyển sang cơ chế thị trường
với quy mô lớn hơn. Đảng và nhà nước ta đã và đang có nhiều chương trình, dự thảo
nhằm tăng cường công tác XKLĐ. Mới đây, dự thảo Luật gồm 8 Chương, 62 Điều và
so với những quy định hiện hành đã thể hiện được chủ trương của Đảng và Nhà nước;
quy định rõ quyền và nghĩa vụ của của doanh nghiệp, tổ chức đưa người đi làm việc ở
nước ngoài, của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động làm việc ở nước ngoài; trách nhiệm quản lý nhà nước của các
cấp; quy định chế tài xử lý các vi phạm. Theo Ban soạn thảo, dịch vụ đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài là loại dịch vụ có tác động trực tiếp đến người lao động
và có những yếu tố đặc thù khác nhau: địa điểm làm việc ở nước ngoài, các quan hệ
lao động đều có yếu tố nước ngoài. Để bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài thì không nên cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài được hoạt động dịch vụ này. Khi soạn thảo Luật, Ban soạn thảo cũng đã có tham
khảo một số nước, tiêu biểu là Trung Quốc, cũng có quy định không cho phép doanh
nghiệp có vốn nước ngoài tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Dự thảo Luật cũng
quy định giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
được cấp cho doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của Luật này tương tự như
giấy phép hoạt động của một số loại dịch vụ có điều kiện khác (giấy phép hành nghề
khám chữa bệnh, khai thác khoáng sản…). Doanh nghiệp cũng có thể bị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thu hồi, tước quyền sử dụng trong những trường hợp nhất định
như: doanh nghiệp ngừng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài,
hoạt động không hiệu quả hoặc vi phạm pháp luật về đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài.
Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng việc thực hiện các giải pháp để phát triển
hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài một cách bền vững, trong đó

tập trung vào năm giải pháp trọng tâm sau:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài. Từ năm 1996 đến nay, Chính phủ đã lần lượt ban hành 4 Nghị định, đặc
biệt năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. Với luật này, hoạt động
đưa người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài có một khung pháp lý vững chắc và
đầy đủ để phát triển trong thời gian tới.
24
- Đàm phán với các nước nhận lao động Việt Nam để ký kết các thoả thuận và
hợp tác trong lĩnh vực tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc. Cho đến nay, Việt
Nam đã ký các hiệp định với các nước Hàn Quốc, Malayxia, Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào, Ô-man, Qatar; đang đàm phán và chuẩn bị ký kết các hiệp định với Các tiểu
Vương quốc Arập Thống Nhất, Ba-ranh, Libi, Liên bang Nga… Đối với các nước
nhận lao động Việt Nam nhưng chưa có hiệp định hoặc thoả thuận, chúng ta đã tiếp
xúc, đàm phán và tạo ra sự hợp tác chính thức với Chính phủ các nước trên thực tế
nhằm phối hợp quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam.
- Coi trọng công tác quản lý, giám sát hoạt động đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài. Bộ LĐ-TB&XH cùng các bộ, ngành liên quan và Chính quyền địa
phương thường xuyên theo dõi, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực này, gây ảnh hưởng đến quyền lợi đến quyền lợi người lao động.
- Tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài. Chính phủ
Việt Nam giao cho các đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ quyền lợi và lợi ích
hợp pháp của người lao động. Tại các các nước có nhiều lao động Việt Nam làm việc,
đã thành lập các Ban Quản lý lao động trong cơ quan đại diện để thực hiện nhiệm vụ
này. Ngoài ra, luật pháp Việt Nam cũng quy định các doanh nghiệp làm dịch vụ đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải có trách nhiệm cử đại diện ở
các nước nhận lao động để bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
- Hỗ trợ người lao động có đủ năng lực và kiến thức cần thiết để có thể tự bảo vệ
quyền lợi của mình khi làm việc ở nước ngoài. Mọi người đi làm việc ở nước ngoài
được đào tạo, bồi dưỡng về tay nghề, kiến thức pháp luật, phong tục tập quán, các ứng

xử trong công việc và cuộc sống của nước sẽ đến làm việc.
- Xây dựng lộ trình sắp xếp, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo
định hướng, tiêu chí của Luật Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng, đặc biệt là đầu tư phát triển cơ sở đào tạo của doanh nghiệp để chủ
động tạo nguồn lao động có chất lượng theo yêu cầu của thị trường, xây dựng thương
hiệu, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có cơ chế biện pháp cụ thể để hỗ trợ
người lao động, người nghèo vay vốn, học nghề, làm thủ tục xuất khẩu lao động.
3.1.2. Mục tiêu cho các năm tới
Mỗi năm, lực lượng lao động của Việt Nam được bổ sung thêm 1 triệu lao động
trẻ. Những năm gần đây, bình quân mỗi năm giải quyết công ăn việc làm cho khoảng
1,1 triệu - 1,2 triệu người. Tạo việc làm mới ở đây phải hiểu là ngoài việc làm mới ở
trong nước, còn tạo việc làm mới ở nước ngoài mà cụ thể là cố gắng đẩy nhanh việc
25
xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động cũng đã và đang có những hướng phát triển
mới.
- Đối với thị trường ngoài nước:
Sự cạnh tranh giữa công ty các nước cung ứng lao động ngày càng trở nên gay
gắt hơn, trong đó về cơ bản và lâu dài vẫn là sự cạnh tranh về chất lượng, thể hiện ở
hai khía cạnh:
+ Một là, đòi hỏi kỹ năng nghề, ngoại ngữ và tính kỹ luật của người lao động ngày
càng cao. Doanh nghiệp nào, quốc gia nào có được nguồn lao động chất lượng cao
hơn sẽ có nhiều hợp đồng hơn, chi phí môi giới thấp hơn và thu nhập của người lao
động cao hơn.
+ Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, tâm huyết, trách nhiệm cao của họ trong
công việc đem lại chất lượng dịch vụ tốt của doanh nghiệp đối với đối tác nước
ngoài.
Cả hai yếu tố đó đều không thể thiếu, chúng bổ sung cho nhau và trên thực tế đang
là thách thức từ thị trường ngoài nước, đòi hỏi doanh nghiệp phải vượt qua.
- Đối với thị trường trong nước:
Nguồn lao động kỹ năng nghề cao, ngoại ngữ khá chưa có đủ để tuyển chọn cho

cả thị trường trong nước và ngoài nước. Đặc biệt, với thị trường ngoài nước, người lao
động không những cần đạt được yêu cầu về kỹ năng nghề, ngoại ngữ mà còn phải hội
đủ nhiều yếu tố khác như: sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình, tiền vốn…mới có thể tham
gia vào thị trường ngoài nước, nên việc tìm kiếm, tuyển chọn ngày càng khó hơn. Từ
góc nhìn này, sẽ không sai khi nói rằng, nhiều doanh nghiệp không thiếu “thị trường
và hợp đồng cao” – cao về thu nhập, điều kiện làm việc và đãi ngộ mà lại thiếu chính
cái mà mình phải có - đó là nguồn lao động có chất lượng.
Cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động được mở rộng, kéo theo đó là tâm
lý kén chọn thị trường cao hơn khả năng thực sự của họ. Điều đáng mừng là nền kinh
tế Việt Nam đang trên đà phát triển với tốc độ khá cao, đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam nhanh tạo thêm nhiều chổ làm mới. Thêm vào đó là một số thị trường có thu
nhập cao hơn vừa hé mở, một số lượng nhất định lao động Việt Nam đã vào được thị

×