DẤU ẤN VĂN HĨA TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG
NHÌN TỪ NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU
VÕ THỊ NGỌC LAN
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Với phong cách lặng lẽ, trong đời thường và trong văn chương, Quế Hương
đã cống hiến những tác phẩm có giá trị cho văn học Việt Nam đương đại. Truyện ngắn
của Quế Hương đặc sắc nhờ sự lưu giữ, dung hợp văn hóa Huế với văn hóa nhiều
vùng đất khác, thể hiện trên nhiều phương diện. Trong đó, ngơn ngữ và giọng điệu
mang đậm dấu ấn văn hóa và biểu hiện rõ nhất đặc trưng phong cách của nhà văn.
Từ khóa: văn hóa, ngôn ngữ, giọng điệu.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh ra và lớn lên ở Huế, dù sau này chuyển vào Hội An và bây giờ sinh sống ở Đà Nẵng,
nhưng trong những sáng tác của mình, Quế Hương đã mang đến cho người đọc những câu
chuyện, những bức tranh tinh tế nhất về Huế. Đọc văn Quế Hương ta nhận ra những nét riêng
của Huế không lẫn vào đâu được. Chất Huế thấm vào từng trang văn của chị, Huế của những
ngày xưa, Huế từ trong vô thức vẫn luôn ẩn trong sâu thẳm để khi có cơ hội lại bộc phát. Những
người con của Huế được sinh ra và lớn lên ở đây, dù có đi đâu, q hương vẫn ln thao thức
trong tâm hồn những người con xa quê. Với Quế Hương, Huế là sự thổn thức tìm về những ngày
xưa, sự ám ảnh về hình bóng những con người từ trong quá khứ đến hiện tại. Không chỉ thế,
truyện ngắn của Quế Hương còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Quảng Nam - Đà Nẵng nơi
bà đang sinh sống và một vài nét văn hóa khác của đất Việt. Chính vì thế mà ngơn ngữ và giọng
điệu trong truyện của chị không chỉ mang âm hưởng của vùng đất Huế nói riêng mà cịn rộng ra
miền Trung.
2. NỘI DUNG
2.1. Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương nhìn từ ngơn ngữ
Ngơn ngữ chính là sự biểu hiện cho văn hóa, khi nói về mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn
hóa, PGS.TS Nguyễn Tri Ngun đã nói “Mỗi nền văn hóa lại có ngơn ngữ riêng của mình với
hệ thống ngữ pháp và quy tắc riêng… Ngôn ngữ không định danh một thực tế đã được sắp đặt rõ
ràng; vai trị của nó cịn mạnh mẽ và phức hợp hơn. Chức năng của ngôn ngữ là tổ chức, kiến
tạo và thực sự nó cung cấp cho chúng ta khả năng duy nhất tiếp cận với thực tế” [6; tr. 57].
Trong truyện ngắn Quế Hương, điều đó có thể được thấy rất rõ ràng qua hệ thống ngơn ngữ đậm
màu sắc văn hóa Huế, và sự dung hợp văn hóa vùng miền Việt Nam.
Huế là cái nơi nuôi Quế Hương lớn lên và chất Huế đã thấm sâu tâm hồn chị cho nên khi
đọc văn chị ta cảm nhận được cái hồn của người Huế qua lời ăn tiếng nói của các nhân vật. Phải
kể đến đầu tiên là tiếng “dạ thưa” ngọt lịm làm say lòng người. Con gái Huế nhẹ nhàng, thích
những cái hài hịa, khơng thích những gì q đối chọi gay gắt. Chính vì thế mà thái độ ứng xử
của họ cũng nhẹ nhàng, dùng tiếng “dạ” để làm bình phong cho sự từ chối, từ chối nhẹ nhàng
nhưng không kém phần quyết liệt. Chỉ trong cùng một truyện ngắn Ga xép, chỉ với một từ “dạ”
mà đã chứa biết bao nhiêu cung bậc cảm xúc và thái độ khác nhau khi nói ra, vui cũng “dạ”,
buồn cũng “dạ”, đồng ý cũng “dạ” mà từ chối cũng “dạ” luôn và cách nhận biết chỉ có một là
dựa vào sắc thái, âm điệu khi nói. Tiếng “dạ” ngập ngừng ấy cịn thể hiện sự phản ứng chậm của
người Huế. Đó là quãng nghỉ cho sự e dè, cân nhắc trong giao tiếp, trước khi định nói điều gì cần
phải suy nghĩ thật kỹ càng, cũng là lễ nghĩa cần có khi giao tiếp. Người phụ nữ Huế thường
5
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ
CYS 2016
kín đáo, khơng bộc lộ tâm tình của mình cho người khác biết, huống chi đây là với một người lạ.
Tiếng “dạ, thưa” ấy đã làm nên ấn tượng đặc sắc, gợi nhớ về xứ Huế khơng thua gì sơng Hương,
núi Ngự. Ngồi tiếng dạ thưa, truyện ngắn Quế Hương cịn sử dụng những từ, những khẩu ngữ
mà chỉ ở Huế mới có. Ngơn ngữ biểu hiện rất rõ thái độ của mình với người khác, xứ Huế có từ
rất đặc biệt là “đồ”: “Người mà họ khơng thích, “khơng trọng vọng” cho lắm thì thường được họ
kêu là “đồ”. Chúng tôi đã đếm được 176 “đồ” liên tiếp trên 7 trang trong quyển Từ Điển Tiếng
Huế, đi từ “Đồ ăn không ngồi rồi, Đồ ba cha tám mẹ” cho đến “Đồ yêu ma quỷ quái, Đồ yêu tinh
hà bá” [1]. Trong truyện ngắn Trần gian có mưa chúng ta bắt gặp “đồ mặt mo” hay “đồ xạo”,
“đồ điêu” trong Ẩn lan,… Hay những khẩu ngữ Huế mà người đàn ông Việt kiều trong Chiếc lá
hình giọt lệ mải mê đi tìm những từ cổ lỗ sĩ ấy rồi tìm được “ăn như thúng lủng khu”. Và những
từ xưng hô trong đời thường tạo nên một lớp từ vựng của riêng xứ Huế: “ôn, mụ, mạ, mệ, o…”
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm được Quế Hương ưu ái sử dụng rất nhiều để khắc họa tâm lý, tính
cách con người. Nhân vật của Quế Hương thường sống với hoài niệm, quá khứ của chính mình.
Phố Hồi là tiếng gọi của những kỷ niệm từ quá khứ hiện về, dắt díu người ta bước theo. Ngày đi
lạc là hành trình của một người chia làm hai nửa tỉnh táo - quá khứ, điên - hiện tại vì một mối
tình si. Chiếc lá hình giọt lệ là hình ảnh của một chị Thời yêu âm thầm, lặng lẽ mà sâu nặng…
Nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương bộc lộ rõ nhất qua những dịng hồi tưởng, và bề ngồi
lặng lẽ nhưng tâm hồn bên trong tràn đầy mơ mộng. “Văn hóa nằm trong các tâm trí, sống động
trong các tâm trí, mà các tâm trí thì đều nằm trong văn hóa, sinh tồn trong văn hóa” [4; tr. 37].
Đây cũng chính là nét đặc trưng trong tính cách của người Huế, tạo nên tính hồi cổ và thủ cựu.
Vì thế mà có lẽ ở trên dải đất hình chữ S này, Huế chính là nơi mà cái mới và lạ khó du nhập
nhất, cần một khoảng thời gian rất dài con người mới có thể chấp nhận và thích nghi. Phần lớn
các nhân vật của Quế Hương thường kiệm lời, và các nhân vật thường xoay quanh những mẩu
đối thoại ngắn. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi “Người Huế trọng đạo lý, trọng một nếp sống
trong khn khổ Khổng Mạnh. Do đó, lối nói văn hóa của họ là phương tiện để dạy dỗ con cháu
và họ hàng, nói ít mà hiểu nhiều, nói súc tích, khơng cần nói dơng dài, để dễ sinh chán nghét.”
[1] Chẳng hạn như một đoạn đối thoại giữa người dẫn đường và người đi tìm một Cội mai
lưu lạc, tìm lại một thời quá khứ cho người mẹ quá cố:
- Rồi răng nữa chị?
- Rứa chớ răng! - Chị trêu tôi bằng cái giọng Huế đặc như để nén tiếng thở dài. [3; tr. 321]
Ngôn ngữ của người xứ Huế thường tinh tế, sâu lắng, do đặc trưng văn hóa cung đình của
xứ sở đất thần kinh.
Truyện ngắn Quế Hương không chỉ mang đậm dấu ấn văn hóa Huế mà cịn giao thoa với
văn hóa miền Trung với sự xuất hiện dày đặc ngôn ngữ miền Trung với “mô, tê, răng, rứa,…”
Tuy không để lại dấu ấn đậm nét như ngôn ngữ Huế nhưng đôi lúc ta cũng bắt gặp con người xứ
khác trong truyện ngắn Quế Hương. Đã từng sống ở Quảng Nam một thời gian nên những từ ngữ
đặc trưng của người Quảng được Quế Hương sử dụng rất tài tình, chị người Quảng trong cuộc
tranh luận thể hiện niềm tự hào đất Quảng về ẩm thực đã thốt lên “Trong tui cũng săn chắc ngọt
mềm! Không ngon răng người ta chở nhau đi en rần rần…” [2; tr. 46]. Ăn gọi là en chỉ có ở
Quảng Nam - Đà Nẵng mà thơi. Cả lời chê trách của chị Rêu - người mê mẩn với những bức
tường rêu của phố cổ Hội An, dành cho thằng Dậu “Con trai mà mu khóc tham ăn. Mi ăn hoài để
cho đứa khác ăn với chớ! Con khỉ!” [3; tr. 348]. Cả câu thở dài của người mẹ “Nỏ thấy lên tí mơ!
Khơng biết tại răng? Và mẹ rưng rưng nước mắt” [2; tr. 316] mang nặng ngôn ngữ Nghệ Tĩnh.
Quế Hương đã sử dụng tiếng Việt quá tinh tế đến nỗi vận dụng ngôn ngữ địa phương để tạo nên
tính đa ngơn ngữ, đa văn hóa trong truyện ngắn của chị.
6
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016
11/2016
Ngoài ra, Quế Hương hay đưa những câu hát, lời thơ, lời văn của người khác vào tác
phẩm của mình. Để lý giải cho điều này, Quế Hương từng nói: “Khơng phải tơi vơ tình hay cố
ý nhặt nhạnh những câu văn, lời thơ, nhận định của người khác để đem vào những truyện của
mình đâu. Tâm hồn tơi vốn được lớn lên, nuôi dưỡng bằng vẻ sáng đẹp thẳm sâu của văn
chương nên nó đã trở thành một phần máu thịt, tự nó phát ra”. [3; tr. 6-7]. Quế Hương đã
mượn lời bài hát để lột tả rõ ràng nhất tâm trạng của các nhân vật, đó là nỗi nhớ khơng ngi,
là lời hẹn ước trong Câu hát tìm nhau “Duyên bén ngãi, văng vẳng tơ tình. Trước khơng phải,
sau đền dun ba sinh”, câu ca quan họ đặc trưng của một vùng văn hóa Kinh Bắc miên man,
tha thiết; đó là câu hát gợi nhớ thương của những người con xa xứ, là cõi lịng hoang mang, vơ
định nơi q người, gợi nhớ về một cơn mưa trong lời ca của cố nhạc sĩ Trịnh Cơng Sơn, là
cơn mưa trong lịng người trong Nước mắt khô “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa. Mưa bay
trong ta bay từng hạt nhỏ. Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ. Chẳng biết nơi nao là chốn
quê nhà…” Với Khúc chiều tà câu thơ “Mở hai hàng cỏ tháng ba/ Lễ là Đi Tiểu, hội là Vén
Xiêm” (Ngày tháng ngao du - Bùi Giáng), thế giới phồn thực đầy hoang sơ đẹp hồn nhiên, sáng
rực hiện ra, ấy là chúng ta đã biết gã Đớp xuất hiện, đưa thơ Bùi Giáng vào ngôn ngữ nhận
dạng của gã Đớp, phải chăng chính tác giả đã thấy hình ảnh của một Bùi Giáng trong gã Đớp
lang thang, bụi bặm, điên mà tỉnh. Chị đưa cả nhận xét của Nguyễn Yên Hà về tranh Phan
Ngọc Minh “nền màu không thật, kiểu sắp đặt xô lệch lạ lùng” [3; tr. 266] để nói lên ấn tượng
về nền kiến trúc độc đáo của văn hóa Champa cổ, là bức họa rõ nét về thánh địa Mỹ Sơn. Quế
Hương cịn trích dẫn cả những lời nói của người khác vào truyện mình “Thì tất cả chúng ta
sinh ra từ cát bụi của các vì sao, là anh em họ hàng với động vật hoang dã, với hoa đồng cỏ
nội” (Trịnh Xn Thuận), đó là triết lí về mối quan hệ con người với thiên nhiên là một sự hòa
hợp tuyệt vời. Khơng chỉ có ở những sáng tác trên mà trong rất nhiều sáng tác của Quế Hương,
chúng ta rất dễ bắt gặp một câu hát, lời thơ, lời nhận định của người khác, truyện ngắn Quế
Hương vì thế dễ dàng đọng sâu vào tâm trí người đọc bởi “lời ít ý nhiều”.
Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương trên phương diện ngôn ngữ cho chúng ta
thấy một nền đa văn hóa, đa ngơn ngữ, và giọng điệu cũng là một khía cạnh khác khơng thể thiếu
để thể hiện sự dung hợp văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương.
2.2 Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn quế hương nhìn từ giọng điệu
Nếu ngơn ngữ là yếu tố thứ nhất thì giọng điệu chính là yếu tố tạo nên linh hồn cho tác
phẩm. Trần Đình Sử đã nhận định rằng: “Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu
của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà cịn là
yếu tố có vai trị thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. Các yếu
tố tư tưởng, hình tượng chỉ được cảm nhận trong một phạm vi giọng điệu nào đó, và nhờ đó mà
người đọc thâm nhập vào thế giới tinh thần của tác giả. Các tác phẩm văn học có giá trị đều thể
hiện một giọng điệu đặc biệt, tiêu biểu cho thái độ, cảm xúc của tác giả, mà muốn hiểu tác phẩm
người ta không thể bỏ qua được nó.” [9; tr. 258]. Ngơn ngữ trong truyện ngắn Quế Hương thấm
đượm tinh thần văn hóa cho nên giọng điệu cũng như thế bởi nó ln theo sát ngơn ngữ.
Hịa trong sự vận động của văn học sau 1975, truyện ngắn của những nhà văn nữ đã mang
một sức sống mới, trở nên đa giọng điệu. Mỗi nhà văn đều tạo cho mình một chất giọng riêng
độc đáo và Quế Hương cũng vậy. Truyện ngắn Quế Hương xuất hiện dày đặc hệ thống ngôn ngữ
miền Trung với những ngôn từ quen thuộc như: mô, tê, răng, rứa,… tuy nhiên chúng ta có sự
phân biệt là căn cứ vào giọng điệu. Những cách nói như “rứa chơ răng”, “mần chi”, “trời ơi là…
trời!” đọc vào khơng thể nhầm lẫn được đó là chất giọng, là cách nói rất riêng của người Huế.
Văn chương cũng như con người Quế Hương, rất giàu nữ tính. Điều này thể hiện rõ qua
giọng điệu trữ tình, đằm thắm trong truyện ngắn của chị như mặt nước dịng sơng Hương lững lờ
7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ
CYS 2016
trôi, như điệu Nam ai Nam bình sâu lắng, như tiếng dạ thưa ngọt ngào của người con gái Huế.
Đọc văn chị, ta khơng khó để nhận ra những hình ảnh của xứ Huế mộng mơ với cầu Trường
Tiền, đồi Thiên An, núi Ngự Bình, những con đường với hai hàng cây xanh lá,… Mỗi khi nói
đến, chị đều nói bằng một tình cảm tha thiết, đầy hồi niệm và tự hào. Ta dễ dàng bắt gặp hình
ảnh của xứ Huế mộng mơ với hình ảnh của các nữ sinh Đồng Khánh một thời: “Qua hết cầu khi
mô tôi cũng quay nhìn lại. Một hàng vạt áo tung bay trong gió như đàn bướm trắng. Bướm bay
về trăm ngả còn một “cái đuôi” lẽo đẽo theo người!” [2; tr. 129] để rồi thời gian rắc những bơng
hoa qn lãng, chỉ cịn lại một hoài niệm đẹp đầy nuối tiếc một thuở. Đó cũng là giọng tự hào
khi nói về một hình ảnh của xứ Huế trầm lặng, tịch mịch mà uy nghiêm cùng với lăng tẩm: “Khi
hoàng cung của cõi chết hiện ra rõ ràng, diễm lệ dưới ánh dương quang, họa sĩ ngừng tay. Ông
ngồi dựa vào thân cây, trang nghiêm, tịnh mặc như một kẻ thiền tọa, lắng nghe như uống từng
giọt âm thanh mê hồn tắm đẫm hương sứ của lũ chim sớm.” [2; tr. 50]. Và các đặc sản của Huế
hiện ra thật ngỡ ngàng dưới ngòi bút của chị với đĩa cá kho tiêu, món muối sả đậm đà sực nức
khơng gian “nồi cơm nóng, tơ canh chuối lá lốt nấu ruốc mỡ đậm đà và đĩa muối sả như gia vị
cuộc đời đủ mặn ngọt bùi cay” [3; tr. 117]. Cách nói của người Huế mang một đặc sắc riêng
không thể lẫn lộn với người nơi khác. Thử xem một anh chàng trong Ga xép đã tự hào biết bao
về đặc sản quê hương xứ Huế của mình “Khơng phải mèo khen mèo dài đi chứ tui đi mô ăn
cái chi cũng thấy không ngon bằng ở xứ mình. Con cá, con tơm ngọt lịm. Mực cửa Thuận An
cũng ngọt hơn mực Nha Trang. Đừng nói chi miếng thịt phay ở Huế cũng đặc biệt hơn thịt luộc
nơi khác, chấm mắm tôm kèm vả, khế, chuối chát cứ lịm người!” [2; tr. 45]. Giọng điệu trữ tình,
đằm thắm tạo nên chất thơ cho các truyện ngắn Quế Hương, là nguồn mạch trữ tình đằm sâu
trong sáng tác và bộc lộ nét tính cách dịu dàng rất Huế của chị.
Một đặc trưng nữa trong truyện ngắn Quế Hương là nhân vật của chị thường sống trong sự
hoài niệm, nuối tiếc về một thời đã qua, một tình u khơng thành vương vấn bằng một giọng
khắc khoải, xót xa khơng ngi. Lão Tầm Xn đi tìm nửa câu quan họ, chơi vơi trong niềm nhớ
“rồi cô ấy cũng phải đi lấy chồng. Bọn quan họ chúng tôi đến chia vui. Tơi đau lịng hát miên
man” [3; tr. 245], Câu hát tìm nhau ấy vẫn hoang hoải trên đường về của lão, là sự nuối tiếc
khôn nguôi trong lịng lão Tầm Xn về mối tình tri kỷ. Thằng Dậu khắc khoải đi trong hồi
niệm để tìm lại thời gian đã mất, tìm lại Phố Hồi của ngày xưa đầy ắp kỷ niệm “Phố không là
quê nhưng là một mảng đời ông, một cuộc đời cứ như bị chặt khúc theo từng bước mưu sinh
nhọc nhằn của mẹ. Cha bỏ mẹ. Mẹ bỏ làng với cái thai trong bụng”, và cả xót xa “Nước mắt chị
mặn hơn nước biển cửa Đợi. Da chị mịn mướt hơn rêu Phố. Hắn vùi mặt trong tóc chị hít hương
thơm dìu dịu, ngai ngái mùi hoa cỏ và cảm thấy dễ chịu đến bàng hoàng: “Thằng ranh, mi làm
chi rứa?” - Chị ngạc nhiên xơ hắn ra.” [3; tr. 354]. Xót xa cho mối tình lặng mà sâu của chị
Rêu và cũng xót xa cho chính mối tình câm lặng của thằng ranh dành cho chị Rêu. Giọng xót xa
khi nói đến đơi bàn chân của mẹ, Đơi chân biết khóc hằn sâu trong ký ức của Quế Hương, được
lặp lại rất nhiều lần trong các trang viết của chị, đôi chân gầy héo, nổi rõ gân xanh với những vết
nứt nẻ lấm tấm dấu vết lầm than và lần nào cũng xót xa như nhau, xót xa cho mẹ, cho chị và
chung cho kiếp đàn bà nắng sớm mưa chiều tần tảo, “dấu vết lặn lội, lầm than, lăn lóc bám từ
tóc tai, giọng nói, áo quần, nhiều nhất là đơi chân” [3; tr. 20]. Quế Hương khơng chỉ xót xa cho
thân phận người phụ nữ, đau đáu về những mối tình chỉ cịn là hồi niệm mà chị cịn xót xa cho
những mảnh đời khơng hồn hảo. Hình ảnh Bà mụ của búp bê lỡ sinh, lỡ quên và gọi luôn là con
Lỡ “Lại xấu xí! Lại gầy gị vì thiếu cân, thiếu tháng! Lại bị què sau trận sốt tê liệt khi lên hai!”
[3; tr.202] nhưng tâm hồn của con Lỡ mới lành lặn, mới đẹp làm sao, nó mơ con nó sẽ đẹp giùm
nó. Vua lũ đồ chơi, Tí bụi, cơ chủ Qn Búp Bê,… đều có những hồn cảnh xót xa, khơng
khuyết thiếu về thể xác thì cũng chịu những tổn thương về tâm hồn. Viết về thế giới trẻ khuyết
thiếu ấy, Quế Hương viết bằng tất cả tình thương, sự xót xa và cả tia hy vọng cho cuộc đời của
họ. Quế Hương đã dùng “cái tâm” để sống và viết về những nhân vật của mình, đạo của Quế
8
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016
11/2016
Hương chính là đạo người, là đạo từ tâm thấm nhuần màu sắc Phật giáo của xứ Huế. Sự xót xa
trước những di tích văn hóa dân tộc bị mai một dần, trong Apsara hoang dại là sự xót xa về một
quần thể kiến trúc độc đáo bằng đất nung và đá của vương quốc cổ Champa nay chỉ cịn “một
mảnh hình hài thương tật”, và điều đáng buồn hơn đó chính là cõi tâm linh huyền bí cũng bị xâm
phạm “Xưa chỉ có những con người chay tịnh hằng tháng trời mới được đặt chân lên đất thánh.
Giờ thì mọi du khách đều được khu du lịch “chắp cánh” để vào thung lũng thần linh” [3; tr.
265]. Trong Câu hát tìm nhau, lão Tầm Xuân tiếc nuối về một hội Lim với câu ca quan họ lúng
liếng đắm say, chan tình lai láng của ngày xưa, còn bây giờ “Hội Lim giờ đâu như xưa nữa.
Nhưng tôi vẫn nghe tiếng trống vào hội giục giã lịng tơi”, và cũng là sự tiếc nuối về một vẻ đẹp
yên tĩnh không bị khuấy động của Phố Hoài xưa, những dấu vết đổ nát của cố đô xưa. Cùng với
lối ngôn ngữ độc thoại nội tâm, giọng điệu xót xa, khắc khoải, văn Quế Hương đã lột tả được đời
sống nội tâm của những con người rất Huế trong sáng tác của chị. Đồng thời, giọng văn Quế
Hương còn ánh lên tinh thần nhân đạo, sự sẻ chia, lan tỏa nỗi ấm áp vào từng số phận nhân vật
và len lỏi cả vào tâm hồn bạn đọc, khắc khoải, day dứt, xót xa.
Cùng với giọng trữ tình đằm thắm, giọng khắc khoải xót xa, giọng triết lý đã góp phần làm
nên phong cách nhà văn bởi nó đã thể hiện được tâm hồn của nhân vật trong tác phẩm mà nhà
văn muốn gửi gắm đến và cả tâm hồn của nhà văn. Bằng sự nhạy cảm và trải nghiệm với cuộc
đời, Quế Hương đã đúc kết được nhiều chiêm nghiệm và chị chuyển tải vào văn của mình. Triết
lý trong truyện chị là những triết lý về thiên nhiên, cuộc đời, nhân sinh, cái chết. Triết lý về thiên
nhiên “Thiên nhiên lớn lao vô lượng, lặng thầm mà tràn trề tình yêu và khát vọng. Tất cả đều
biết nói nếu biết lắng nghe bằng cả trái tim.” [3; tr. 73]. Triết lý về cho - nhận trong cuộc đời
“Cháu hãy cho nếu có dịp. Cho là sẽ được nhận”. Là một phụ nữ, thấm thía nỗi khổ cực và bổn
phận của một người mẹ, người vợ, chị thấu suốt “Tôi tin Thượng đế tạo đàn bà với sáu đơi tay để
họ có thể làm hết cơng việc bất tận có tên và khơng tên, trọng đại và tủn mủn… Cả mắt cũng
vậy. Không chỉ đôi đằng trước, dưới trán.” [3; tr. 111]. Đàn bà mấy ai không khổ, là sự an phận nét đặc trưng của người phụ nữ Huế và họ xoay quanh guồng quay tất bật với những việc không
bao giờ hết, những việc từ bổn phận của người phụ nữ. Triết lý về sự vĩnh cửu của cuộc đời, cho
nên tình yêu dưới con mắt của chị cũng là tình yêu vĩnh cửu “Yêu là thế sao? Là cuộc đời này
tỏa sáng vào cuộc đời khác và người đó trở nên tốt hơn, mạnh hơn” [2; tr. 16] và người Huế yêu
dai như mưa. Cuộc đời là vĩnh cửu, nên cái chết cũng thật nhẹ nhàng “chịu khó một chút rồi
xong ngay mà” [2; tr. 284]. Triết lý của chị là châm ngơn về ý nghĩa cuộc đời “Cuộc sống có ý
nghĩa không ở chỗ dài ngắn mà là ta đã làm được gì với nó” [2; tr. 285], triết lý này đã giúp cho
Ruộng trong Thư gửi thời gian mạnh mẽ chiến đấu bệnh tật và sống có ý nghĩa đến từng giây
trước khi chết. Tất cả những triết lý của chị đều hướng đến một thế giới vĩnh cửu, bởi chị đã nhìn
thấy đời rộng mênh mơng. Quế Hương có được nhân sinh quan quý giá ấy chính là nhờ vào
mạch nguồn văn hóa tinh tế, giàu tính nhân đạo, và ảnh hưởng của triết lý đạo Phật thấm nhuần
cả thiên nhiên, con người xứ Huế. Giọng văn triết lý dẫn dắt các nhân vật đến sự suy tưởng, góp
phần thể hiện tính cách kín đáo, sống thiên về nội tâm của người Huế.
Nhà văn Tuốc-ghê-nhép từng nói: “Cái quan trọng nhất trong tài năng văn học là tiếng
nói của mình, là cái giọng riêng của chính mình, khơng thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ
một người nào khác”. Nhìn vào những đóng góp của Quế Hương cho nền văn học nước nhà
chúng ta có thể khẳng định chị đã thành công trong việc tạo nên một chất giọng riêng ngân nga
trong lòng độc giả.
3. KẾT LUẬN
Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn của Quế Hương được thể hiện qua nhiều khía cạnh, đặc
biệt là qua ngơn ngữ và giọng điệu. Ngôn ngữ thể hiện dấu ấn văn hóa Huế và sự dung hợp văn
9
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ
CYS 2016
hóa qua những độc thoại nội tâm đưa con người về với cõi mê, cõi say của mình, thể hiện tính
hướng nội của người Huế qua những đoạn đối thoại bộc lộ tính cách văn hóa con người và từ
ngữ, cách nói địa phương được thể hiện khá rõ trong truyện ngắn Quế Hương. Cùng với ngôn
ngữ, giọng điệu thể hiện dấu ấn văn hóa, trong đó rõ nét nhất là văn hóa Huế. Con người Huế
vốn ăn nói nhỏ nhẹ, giọng nói như câu Nam ai Nam bình lãng đãng trên dịng Hương giang. Sự
am hiểu về văn hóa đã khiến ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Quế Hương phảng phất
cái hồn của văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa miền Trung trong đó rõ nét nhất là văn hóa
Huế nói riêng. Từ đó khẳng định được phong cách, cá tính và đóng góp của nhà văn Quế Hương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
Bùi Minh Đức (2005), Bản sắc của con người xứ Huế,
/ky/k_BANSACCONNGUOIXUHUE_BUIMINHDUC.html, truy cập ngày 15/08/2016.
Quế Hương (2004), 27 truyện ngắn của Quế Hương, Nxb Phụ nữ.
Quế Hương (2010), Đóa hoa khơng gai và con cừu không rọ mõm, Nxb Phụ nữ.
Edgar Morin (2008), Phương pháp 4. Tư tưởng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên.
Nguyễn Tri Nguyên (Chủ biên) (2015), Ký hiệu học văn hóa, Nxb Thơng tin và Truyền thông.
Nhiều tác giả (1995), Huế - đẹp thơ, ngàn năm di sản, Nxb Đà Nẵng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tính cách Huế, Tuyển tập Hồng Phủ Ngọc Tường, Nxb Trẻ.
Trần Đình Sử (2005), Những cơng trình thi pháp học, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Title: CULTURAL LANDMARK IN QUE HUONG’S SHORT STORIES FROM LANGUAGE AND
TONE
Abstract: With silent style, in real life and in literature, Que Huong has contributed valuable pieces of
literature work to the VietNam contemporary litersture. Her short stories are considered special thanks to
the store, Hue cultural fusion with other lands culture, expressed in many ways. In particular, the
language and tone of cultural imprints and clear manifestations characteristic style of the writer.
Keywords: culture, language, tone.
VÕ THỊ NGỌC LAN
Học viên Cao học, chuyên ngành Văn học Việt Nam, khóa 23 (2014-2016), Trường Đại học Sư phạm Đại học Huế.
Số điện thoại: 01663237337/ 0934859018, Email:
10